Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

Duyên Anh

 

Sàig̣n ngày dài nhất

 

 

5 giờ. Tôi đă trải qua 300 phút của ngày dài nhất. Ngẫu nhiên, tôi trở thành chứng nhân của thời đại tôi, một chứng nhân không thích rườm rà chi tiết, một chứng nhân chỉ khoái vắn tắt từng sự kiện và suy diễn những sự kiện theo kiến thức hữu hạn của ḿnh. Nhưng luôn luôn sáng tạo, cố gắng sáng tạo. Rất nhiều khi chứng-nhân-tôi quên hẳn những sự kiện quan trọng mà chỉ nhớ những sự kiện vớ vẩn. Người viết tiểu thuyết khác người viết lịch sử ở chỗ đó. Người viết tiểu thuyết thường khám phá ra ở sự kiện vớ vẩn cái vóc dáng đẫy đà và quan trọng hơn cả sự kiện quan trọng dưới mắt sử gia. Tôi mê huyền sử, dă sử nặng gấp bội chính sử, ngoại sử. Giản dị lắm, huyền sử và dă sử không thèm quan tâm tới niên biểu. Thế mà tôi lại quan tâm tới niên biểu của một ngày dài nhất đầu tiên trong đời tôi đă trôi mút mít 20 năm.

10 tháng 7 năm 1954, là ngày dài nhất ấy, là ngày quân đội liên hiệp Pháp rút khỏi thị xă Thái B́nh, là ngày dân chúng di tản. Thực sự, những người có máu mặt và hiểu thời cuộc đă "rút lui chiến thuật" trước 10-7. Ngày dài nhất ấy, với tuổi 19 của tôi, thật phũ phàng. Tôi nhớ lại. Như thế này...

Hàng năm, tôi đều từ Hà Nội về Thái B́nh nghỉ hè. Hè 1954 xảy ra vụ "rút lui chiến thuật" trước khi tôi lên Hà Nội. Sự hăi hùng bắt đầu từ 12 giờ ngày 10-7. Lính Hổ xám, lính pạc-ti-dăng và cả lính Bảo chính đoàn nữa, xông vào các nhà buôn bán lớn tống tiền, cướp của và hăm hiếp đàn bà, con gái. Y hệt những thảm cảnh đă diễn ra tại vài thành phố miền Trung trước 30-4-1975. Hàng phố vội vàng đóng cửa kín mít. Bố mẹ tôi t́m chỗ nấp nếu cửa bị xô mở. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi những bước giầy đinh rằm rập trên vỉa hè trước nhà ḿnh. Tim tôi muốn vỡ ra. T́nh trạng nín thở kéo dài đến tối. May mắn, bố mẹ tôi buôn bán nhỏ nên đă thoát cảnh tống tiền, cướp của, hăm hiếp. Tuy nhiên, chúng tôi đă có một đêm không ngủ, một đêm không ngủ đợi chờ bất hạnh. Đêm im lặng. Máy điện chạy nghe rơ. Và máy bay bà già lượn suốt đêm trên vùng trời thị xă. Gần sáng, một tiếng nổ lớn ở phía cầu Bo. Rồi hoàn toàn vắng lặng. Máy bay bà già đă hết lượn. Chỉ c̣n vang vang động cơ của máy phát điện. Măi 12 giờ hôm sau, 1 1-7, dân thị xă mới biết Pháp đă rút lui. Người ta tự động di tản về nông thôn. Thị xă bỏ trống° . Tôi chờ hiệp định Genève kư kết xong mới lên Hà Nội. Và Hà Nội trước những ngày cộng sản vào tiếp thu rất b́nh yên. Như Sài g̣n chiều ngày 29-4-1975. Không hề có tống tiền, cướp của, hăm hiếp do một số lính vô kỷ luật tạo ra. Cũng không hề có "đấu tranh" giành lại "xương máu bị bóc lột" của dân nghèo.

Hai mươinăm sau, 1975, tôi 40 tuổi, lại thêm một ngày dài nhất và một đêm không ngủ trong đời ḿnh. Đêm không ngủ, tôi vừa trải qua. Ngày dài nhất, tôi mới đếm được 5 giờ. Với một nhà văn tài năng, 5 giờ đồng hồ đợi chết, ông ta sẽ cống hiến chúng ta những trang sách rụng rời về cảm giác sắp chết. Và ông ta sẽ soi sáng ư nghĩa sống của sự chết. Có thể, ông ta sẽ cho chúng ta biết chính xác nơi chốn ngự trị của linh hồn. Chúng ta cần hiểu điều đó, thèm hiểu điều đó. Rằng, những người công chính, sau khi chết, về đâu; những kẻ giả h́nh về đâu; những người chịu đựng oan khiên ngộ nhận về đâu; những kẻ điêu ngoa, dối trá về đâu; những người suốt đời cặm cụi ngậm cô đơn và thống khổ để làm đẹp cho con người cho cuộc đời về đâu; những kẻ ph́ nọc rắn, phun nọc rết, nhẩy múa trên cay đắng đồng bào chúng nó, của đồng loại chúng nó về đâu ông ta c̣n có thể mặc khải một niềm sống tuyệt vời nếu con người vượt lên được trên nỗi sợ hăi chết, nếu con người thản nhiên chờ chết. Tôi chợt nhớ sự thản nhiên sống và thản nhiên chờ chết của cổ nhân Đông phương. Đến một tuổi nào đó, con người Đông phương, con người cũ Việt Nam, con người nguyên thủy Việt Nam thừa ngạo nghễ rung đùi ngâm thơ nh́n quan tài mua sẵn cho ḿnh hay ngồi trên nắp quan tài mà say sưa cuộc cờ Khi con người nh́n rơ cái phù ảo của cuộc sống th́ nó không thèm lư tới sự chết. Và, v́ đă quán triệt cái lẽ phù ảo của cuộc sống, con người sẽ cố sống cho ra con người, cố làm cái ǵ đó thật ư nghĩa cho những cuộc sống nổi tiếp. Hẳn nhiên, ư nghĩa của sự sống khi con người thấu hiểu lẽ phù ảo của nó chẳng bao giờ là tiện nghi vật chất thừa mứa, là tiền bạc phủ phê, là hư danh hăo huyền đến nỗi phải kèn cựa nhau, tranh giành nhau đến xầy da, sứt trán, đến chém giết nhau, đến thù hận nhau làm phôi pha t́nh người và mất ư nghĩa của sự sống, mất lạc thú của cuộc sống.

Ca dao chẳng đă luận về sự b́nh đẳng của sự chết đó ư!

Vua Ngô đi bốn tàng vàng

Chết xuống âm phủ chẳng mang được ǵ

Chúa Chổm nốc rượu t́ t́

Chết xuống âm phủ khác ǵ vua Ngô

Nếu Chúa Chổm là Lư Bạch, là Tản Đà, là Tề Xương, là Hà Huyền Chi, là Baudelaire, là Hoàng Anh Tuấn, là Nguyễn Bính..., Chúa Chổm hơn vua Ngô triệu triệu lần. V́ Chúa Chổm có thơ để lại cơi thế mà vua Ngô chả có ǵ. Vua Ngô chết là mục xác. Chúa Chổm sống măi, Chúa Chổm bất tử, Chúa Chổm phục sinh nhờ thơ của Chúa Chổm.

Cái thứ sống măi trong ḥm kính là thứ sống măi bệ rạc không hứa hẹn ḥm kính sẽ bị đập vỡ tan tành.

Tôi không phải là nhà văn tài năng nên tôi đă sợ chết ngâm rọ dưới sông, sợ chết sặc sụa trong biển máu. Và tôi không thể có những trang sách tuyệt vời về cảm giác chờ chết. Tôi đă sợ hăi chết, sợ hăi trời chóng sáng, đă muốn bóng tối mênh mang vô cùng để khỏi nh́n rơ đao phủ và h́nh cụ của nó. Bây giờ, tôi chờ sáng, tôi hết sợ chết nếu tôi được chết bởi đạn quân thù găm trong tim giữa lúc tôi đang chiến đấu. Không một kẻ chiến bại nào được da ngựa bọc thây cả. Da ngựa biết chê thây chiến bại.

Tôi mở radio. Lệnh giới nghiêm nhắc đi nhắc lại. Không c̣n Nối ṿng tay lớn. Không c̣n cả giọng nói bầy nhầy đón gió trúng mối của biểu tượng Lư Quư Chung. Tâm hồn tôi rạng rỡ khi h́nh tưởng người lính sửa xe tăng tối qua và nhật lệnh quyết chiến của tướng Vĩnh Lộc, người hùng Pleime năm xưa, "vua xứ mọi" của tôi.

Ông đang ở đâu, ông Vĩnh Lộc? ở đâu cũng được, ông c̣n ở màn ảnh nhỏ của Truyền H́nh Việt Nam, băng tần số 9, tối hôm qua là đủ rồi. ít nhất, với tôi. Lập tức tôi có ư nghĩ mới: Bằng hữu tôi, đồng bào tôi di tản thoát, đă mất dịp làm Người Sài g̣n. Sài g̣n sắp thành Stalingrad, nơi đó phẩm cách nguyên khối của người Việt Nam được chứng tỏ cùng thế giới: Rằng người Việt Nam chiến đấu chống cộng sản cô đơn và lăng mạn không cần cố vấn Mỹ và viện trợ Mỹ.

Tôi cảm khái, khe khẽ hát:

Từng bờ tường mái hiên

Từng mô đất

Từng khu phố

Từng khe cống

Sài g̣n vùng đứng lên...

Hăy đứng lên, hăy ngẩng mặt, Sài g̣n! Có tôi làm giầy dũng sĩ ngăn giặc xâm lăng. Có tôi làm công dân tải đạn...

 

 

Chương 3

 

Ông Từ Diễn Đồng mâu thuẫn với chính ông. Đă hỏi:

Ḷng nước ai ai đà thức dậy

Dậy th́ lên tiếng gọi nhà nho...

Ông lại chép miệng:

Thiên hạ có khi đang ngủ cả

Tội ǵ mà thức một ḿnh ta

 

Không ai ngủ. Tất cả đều thức. Và thức trắng đêm qua. Và cùng đợi chờ. Có ba tâm trạng đợi chờ trong một đêm bắt buộc không ngủ. Kẻ đợi chờ cộng sản mang hạnh phúc cho ḿnh. Kẻ đợi chờ cộng sản mang bất hạnh cho ḿnh. Kẻ đợi chờ cộng sản vùi xác giữa một thành phố bất khuất. Tôi đang ở tâm trạng thứ ba sau khi thoát khỏi tâm trạng thứ hai. 6 giờ thiếu 10 phút. Thường lệ, vào giờ này, sinh hoạt chợ Xóm Lách đă ồn ào. Hôm nay im vắng. Chẳng phải v́ giới nghiêm đâu, mà v́ cuộc hôi đồ chiều hôm qua đă diễn sâu tới khuya, đă diễn xa lên Sài g̣n, đă diễn rộng khắp khu vực nên dân chúng ngồi nhà ngắm "chiến lợi phẩm". Tôi lại mở cổng ra đường. Bước sát cột đèn lưu thông, tôi đứng ở ngă tư Công Lư - Yên Đổ. Lần đầu tiên, từ hai mươi năm khôn lớn tại Sài g̣n, tôi được nh́n Sài g̣n buồn bă. Như thể Sài g̣n choàng khăn tang và hồi chuông cáo phó đă đọng trên đầu cỏ, ngọn lá. Con phố Công Lư, con đường của VIP, nườm nượp xe cộ từ tan giới nghiêm đến vô giới nghiêm, hôm nay, vắng ngắt. Tôi mơ hồ thấy, trong hiu quạnh khôn cùng của ban mai Sài g̣n 30-4, những lời giối giăng đứt khúc. Chắc chắn không có sóng ngầm. Chắc chắn không có Stalingrad ở Sài g̣n. Không có một dấu hiệu nào chứng tỏ thành phố chuẩn bị nghênh giặc. Tôi đă thất vọng. Tôi đă tuyệt vọng. Năo nề hơn, tôi đă thất t́nh với cuộc chiên đấu mơ ước. Với Dương văn Minh và đám cầy cáo đui què, không bao giờ có chiến đấu, dù chiến đấu để chết đẹp, chết xứng đáng làm người. Tôi tự trách tôi ngu xuẩn đă không chịu suy diễn sự dọn đường quỳ mọp của Lư Quư Chung, phát ngôn viên chính thức của Dương văn Minh. Tôi ngu xuẩn hay tôi giống người sắp chết đuối với được cái phao Giới Nghiêm 24 trên 24? Sài g̣n của tôi, Sài g̣n của chúng ta đă lần nào chịu khuất phục trước bạo lực xâm lăng? Từ thành phố này mang tên Sài g̣n, ít nhất, đă hai phen nó phóng nhiệt t́nh và ḷng tự phụ vào mặt kẻ thù xâm lược. C̣n nhớ Tiếng súng Nam Bộ của tháng ngày 1946 chứ:

Tiếng súng vang sông núi miền Nam

ầm đất nước Việt Nam

Tiếng súng vang lùng khắp non sông

dục ta ra tranh đấu

Tiếng súng vang sông núi miền Nam

v́ mưu chiếm miền Nam

Ta muốn băng ḿnh xuống phương Nam

xé xác quân tham tàn...

C̣n nhớ nghĩa sĩ B́nh Xuyên° thuở ấy chứ?

B́nh Xuyên...

B́nh Xuyên oai hùng ngàn năm

đoàn dũng sĩ máu sôi ḷng hờn căm

Khi quân ta tiến ra

vung gươm lên chói ḷa

muôn đầu rơi sát khí

ầm vang hát

chốn sa trường không tiếc thân...

B́nh Xuyên...

G̣ Công hai lần diệt Tây...

 

C̣n nhớ tuổi trẻ Sài g̣n thuở ấy chứ? Những gậy tầm vông của thanh niên đă làm khiếp đảm súng liên thanh của liên quân Anh-ấn-pháp. Những địa danh Cầu Quay, Cầu Mống, Rạch Đỉa, Thị Nghè đă làm nản ḷng quân xâm lược. Và đă làm Sài g̣n ngạo nghễ, đă làm người Sài g̣n bất hủ. Đó là lần Sài g̣n đứng dậy, đứng hết dậy viết những trang lịch sử mới sau 100 năm nô lệ. Lần thứ hai, c̣n nhớ chứ, tháng ngày mùa hè 1955. Tuổi trẻ Sài g̣n lại đứng dậy, kẻ sĩ Sài g̣n lại đứng dậy biểu dương nhiệt t́nh và ḷng tự phụ cho bạo lực cộng sản mở mắt.

Những khẩu hiệu chiến đấu ăm ắp sáng tạo: Chặt cổ Hồ Chí Minh. chém ngang thây Trường Chinh... Những bước chân săn đuổi Văn Tiến Dũng khiến nức ḷng đường phố. Nhiệt t́nh của tuổi trẻ bốc cháy Majestic, Galliéni. Gươm dáo Bảo Tàng Viện cũng rung rinh nhạc vơ Kẻ thù phương Bắc rụng rời... Nhưng hôm nay... Đứa thoán nghịch đă học đ̣i Mạc Đăng Dung sẽ học đ̣i Mạc Đăng Dung thôi...

Tôi nh́n ngang con đường Công Lư. Tôi nh́n dọc con đường Yên Đổ. Tôi h́nh tưởng những con phố khác. Tôi h́nh tưởng cái toàn thể Sài g̣n và những vùng thân yêu Đakao, Tân Định, Phú Nhuận, Chí Ḥa... Tất cả ch́m vào mù khơi hiu hắt. Tất cả rơi xuống hụt hẫng thinh không.

Sài g̣n.

Em đă cho anh hai mươi năm sung sướng

Anh phải van lơn để hứng chịu cơ cầu

Tôi chôn chân cạnh trụ đèn lưu thông, ngă tư CôngLư - Yên Đổ. Tôi thèm được chết đứng ở đây. Tôi thèm được chết đứng cơ hồ Từ Hải, cái chết đứng bị phản bội nhục nhă. "Thiên hạ có khi đang ngủ cả," ḿnh tôi, một ḿnh tôi thức, ḿnh tôi chới với trong quạnh hiu ứa máu của Sài g̣n đợi chờ khuất phục. Và tôi, tôi lại đợi chết. Mơ ước cuối cùng của tôi đă tàn tạ khi chưa kịp nở. Tôi mơ hồ nghe tiếng bước chân thù dẫm trên đường phố, tiếng rên xiết của đất đá, tiếng chuông cáo phó rung lên cho Sài g̣n chết oan. Tôi không chết đứng nổi. Tội nghiệp tôi. Tôi trở về, đẩy cổng, vào nhà.

Đạn nổ phía phi trường Tân Sơn Nhất đă thưa thớt. Trực thăng Mỹ vần vũ mạnh hơn ở góc trời đó, góc trời ân huệ của những người Việt Nam đă ăn no đấm đá của lính Mỹ để leo lên nóc Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ; góc trời thảm năo của những người Việt Nam không được ăn no đấm đá của lính Mỹ để bị ngồi bó gối trước cống Toà Đại Sứ Hoa Kỳ.

Trời đầy sương mù. Tại sao sương mù mùa xuân, mùa khô của miền Nam? Bỗng chuông điện thoại reo:

- Alô, bố Tí hả?

-Ừ.

- Tao lên được không?

-Giới nghiêm 24 trên 24 mà.

-Ở đây, thiên hạ đi lại ầm ầm.

- Th́ ông lên đi?

Đặng Xuân Côn từ Phú Nhuận gọi cho tôi. Chuông điện thoại reo làm các con tôi thức. Nhà tôi, v́ uống thuốc an thần quá trễ nên vẫn c̣n ngủ mê man. Thằng con lớn của tôi chạy ra pḥng khách. Nó bật đèn. Thấy tàn thuốc lá bừa băi, chai Rémy Martin đă cạn nằm nghiêng, nó hỏi:

-Bố không ngủ à?

Tôi gật đầu.

-Bố sợ cộng sản à?

Tôi lắc đầu.

-Tại sao bố không ngủ?

Tôi đáp:

-Rất nhiều người không ngủ đêm qua.

Không để con nít biết chuyện nước non buồn thảm, tôi dục con tôi:

-Cu Tí pha cà-phê cho bố.

Đặng Xuân Côn đă lái xe lên Sài g̣n. Chúng tôi uống cà-phê, đàm luận. Con nít bị đuổi hết vô pḥng ngủ:

- Có ǵ lạ ở Phú Nhuận?

- Thiên hạ đợi Việt cộng vào.

-Hân hoan đợi?

- Một nửa sợ hăi, một nửa vui mừng. Chắc chắn, không có đánh đấm ǵ đâu. Dương văn Minh là cái xác chết. Bọn tướng lănh đầu xỏ cút hết rồi. Đào ngũ hết rồi. Ông Vĩnh Lộc ví như chiếc lá cuối cùng. Gió cũng cuốn ông ta bay...

- Tôi hiểu. Tôi đă mơ mộng Sài g̣n sẽ là Stalingrad thứ hai. Rốt cuộc, nó sẽ là Hochiminhgrad, đúng như tiên đoán trước của lănh tụ văn nghệ Nguyễn Đức Quỳnh mười tám năm cũ.

- Mày tính sao?

-Tính ǵ?

- Chuồn.

- Chuồn đâu? Mă cùng đồ rồi!

-Về Long Xuyên ẩn thân.

- Mai danh ẩn tích hả? Kệ mẹ nó. Đến đâu hay đến đó.

Đặng Xuân Côn có thể đưa vợ con di tản dễ dàng. Cứ bám lấy tôi vào những ngày tôi bối rối nhất. Rồi tôi biến thành cái đầu tầu di tản, kéo các toa em vợ. Nhà tôi không thèm nghĩ đến con ḿnh, chỉ nghĩ vợ con của đứa em trai ḿnh, bắt tôi kéo bằng được vợ con đùm đề của cậu em trai du học bên Mỹ.

Rốt cuộc, kéo nặng quá, đầu máy chết. Phạm Duy, trước khi chạy, cho tôi hay rằng anh đă phải vất vài đứa con lại. Anh khuyên tôi lo thoát lấy thân ḿnh. Tôi c̣n bận bịu lo thoát thân vợ con của em vợ. Than ôi!

-Thả một ṿng Sài g̣n chơi chăng?

Đặng Xuân Côn đề nghị.

- Th́ đi.

Tôi trả lời. Lúc ấy đă 7 giờ, đường phố không c̣n hoang vắng như cách đây một tiếng đồng hồ. Xe cộ xuôi ngược, bớt cảnh nườm nượp hàng ngày. Đèn lưu thông chớp nháy tự động ở các ngă tư. Lệnh giới nghiêm của Dương văn Minh vô hiệu quả. Luật pháp quốc gia đă bị coi thường. Người ta có thể tự do thanh toán nhau v́ thù hận riêng tư hôm nay. Người ta có thể cướp bóc, hăm hiếp hôm nay. Cảnh sát vắng bóng. Quân cảnh vắng bóng. Nhưng cao quư thay là ngày Sài g̣n thả nổi, ngày Sài g̣n có chính phủ như vô chính phủ, tất cả b́nh yên nhờ chân lư mất ǵ không mất t́nh người Việt Nam. Tôi muốn vinh tôn dân tộc tôi bằng vàng son chói lọi. Tôi muốn vinh tôn Sài g̣n bằng gấm vóc kiêu sa. Thành phố thân yêu của tôi, có trái tim của mấy triệu trái tim. Thành phố ấy không hề khích lệ, đốc xúi trả thù, tuyết hận trong cơ hội tha hồ trả thù, tuyết hận và tha hồ nhân danh đủ thứ chính nghĩa. Sài g̣n, thành phố nhân bản, thành phố biểu tượng của t́nh nghĩa Việt Nam, của t́nh người Việt Nam. Như thế, Sài g̣n vĩnh cửu, Sài g̣n tồn tại như dân tộc Việt Nam. Tôi yêu Sài g̣n.

 

Sài g̣n,

tên em trên những vệt môi son

trong ánh mắt

và trong hơi thở

trong hạnh phúc

và trong đau khổ

ở tuổi non và ở tuổi già

ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đă qua

ở hôm nay anh sống và ngày mai anh chết

 

Trước hết, Đặng Xuân Côn lái xe ngang qua căn nhà số 101 Phan Đ́nh Phùng. Tôi thấy Mai Thảo đang nói chuyện với cô bé Nicole, (cháu của ông Nguyễn Đ́nh Vượng, chủ nhiệm tạp chí Văn). Tôi ấm ḷng. Mai Thảo c̣n ở lại Sài g̣n. Chúng tôi sẽ cùng bơi trong biển máu. Đặng Xuân Côn cư ngụ tại cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Hắn cho tôi biết Văn Quang, Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành c̣n ở lại. Anh em văn nghệ c̣n ở lại, tôi mới rơ bốn người. Những ai nữa, và những ai đă đi thoát,. không ai hiểu. Một ngày dài nhất c̣n là một ngày xa cách nhất. Vẫy tay chào Mai Thảo, chúng tôi ṿng lại đại lộ Hai Bà Trưng, đến nhà thờ Tân Định. Gặp Nguyễn Tuấn Anh, ngỡ ngàng tưởng chừng gặp người trong mộng. Tuấn Anh và gia đ́nh đă xuống tầu chiều qua. Tôi đă bắt tay vĩnh biệt anh. Thế mà anh trở lại, đang khuân "hành lư di tản" vào nhà. Con tầu đă đi. Người bạn của tôi không đi nữa. Vài câu đối thoại nhanh, chúng tôi tạm biệt Tuấn Anh lên Sài g̣n. Tôi nghĩ Nguyễn Tuấn Anh sẽ chung số phận với tôi. Anh ta là bác sĩ, đă phục vụ quân đội, đă là dân biểu đối lập trong nhóm Quốc Gia, đă bày tỏ thái độ chống cộng quyết liệt như Nguyễn văn Cử, Nguyễn Trọng Nho, Đặng văn Tiếp, Nguyễn văn Cung, Trần văn Ân. Anh ta sẽ bơi trong biển máu.

 

Chúng tôi đậu xe sát lề đại lộ Thống Nhất, ngay cửa tư thất của ông Đại Sứ Pháp tại Sài g̣n, thả bộ lên Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ. Trực thăng lên xuống đều đặn. Trên nóc ṭa nhà biểu tượng cho quyền uy Hiệp chủng quốc ở Việt Nam, vẫn đông nghẹt người di tản. Chung quanh tường Toà Đại Sứ, Thủy quân lục chiến Mỹ mặc áo giáp, tay trần, kè kè M-16 gắn lưỡi lê sẵn sàng đàn áp những người Việt Nam sợ biển máu, nhất định đáp lời kêu gọi di tản của tổng thống Ford. Thủy quân lục chiến Mỹ, binh chủng vẻ vang của quân lực Hoa Kỳ, được thần thánh hóa trong phim ảnh do Hồ ly vọng sản xuất, đă và đang diễn nghĩa cái nắm tay thân hữu của Mỹ với các nước đồng minh. Năm 1954, lính thủy Mỹ thân ái cầm tay người Việt Nam di cư bỏ trốn cộng sản. Năm 1975, "lính thủy đánh bộ" Mỹ giáng báng súng xuống thân phận Việt Nam di tản bỏ trốn cộng sản. Hẳn nhiên, lư luận theo cộng sản, đó là hiện tượng. không phải là bản chất. Bản chất tốt đẹp là dân tộc Mỹ, là đất nước Mỹ. Hiện tượng xấu xa là chính phủ Mỹ, chính sách Mỹ đối với nước nhỏ. Thế th́ cái hiện tượng Hoa Kỳ đang lạnh lùng đề pḥng những người Việt Nam di tản xếp hàng đông đặc trên vỉa hè phía trước Ṭa Đại Sứ chỉ ŕnh cơ hội là tông cửa xô vào, leo lên nóc Ṭa Đại Sứ. Dân tộc Việt Nam chưa được hưởng tí ǵ về sự nghiệp khai phóng dân chủ, tự do của Mỹ ở Việt Nam ṛng ră hai mươi năm. Dân tộc bất hạnh này chỉ hưởng dùi cui, báng súng, lựu đạn khói, phi tiễn v́ áp dụng bài học tự do, dân chủ. Và hôm nay, dân tộc ấy có định nghĩa chính xác về tự do trước cổng Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ.

 

Chúng tôi lái xe ra bến Bạch Đằng. Những con tàu nghiêng lệch về một bên đă đi cả rồi. Cái phà qua Thủ Thiêm c̣n sang ngang. Và trên sông, những chiếc ghe chèo, ghe máy đuôi tôm vẫn thản nhiên xuôi ngược. Chúng tôi sang Khánh Hội. ở kho 5, thiên hạ di tản ùn ùn kéo nhau vô. Có lẽ c̣n tàu. Chúng tôi trở lại Sài g̣n. Các cửa hiệu khu phố Lê Lợi, Tự Do, Nguyễn Huệ đóng cửa. Ở những căn nhà lầu, cửa sổ mở tung và những khuôn mặt ngó xuống nh́n Sài g̣n dáo dác. Khác với Sài g̣n ngày 11 tháng 11 năm 1960, khác với Sài g̣n buổi chiều trước 1-11-1963, khác với Sài g̣n ngày chỉnh lư, ngày biểu dương lực lượng, ngày đảo chính cục bộ, Sài g̣n sáng 30-4-1975 là ngày hân hoan dấu kỹ, là ngày ngơ ngác phô ra, là ngày sợ hăi hiện rơ. Trời u ám. Người ủ ê. Hơn tám giờ mà mặt trời c̣n ẩn kỹ. Không một sợi nắng. Có ba ngày lạ lùng trong tháng 4. Hôm tên phi công phản phúc oanh tạc Dinh Độc Lập, trời lất phất mưa. Hôm Dương văn Minh "lên ngôi" tổng thống, trời lất phất mưa. Và hôm nay, trời u ám lạ thường. "Khí trời u uất hận chia ly". Câu thơ này đă diễn tả chính xác Sài g̣n buổi sáng 30-4-1975.

Tôi bảo Đặng Xuân Côn đậu xe. Chúng tôi lang thang trên hè phố. Tôi nh́n vào Garden (Givral cũ) vắng hoe. Bên kia, Continental cũng thế. Mới hôm nào, ngày Sài g̣n hốt hoảng tin cộng sản tấn chiếm Đà Nẵng, tôi c̣n ngồi chung bàn với Cao Dao, Đỗ Bá Thế luận bàn thế cuộc. Cao Dao, người biết quá nhiều, cộng tác viên của vài tờ báo Mỹ lớn. Anh viết tiếng Việt và Phùng thị Hạnh dịch sang Anh Ngữ. Sau này, sang Bỉ, viết báo Đức, anh lại viết bằng tiếng Pháp. Đỗ Bá Thể, tác giả Thím Bẩy Giỏi. Ngă tư quốc tế° , tiểu thuyết gia, báo gia, điện ảnh gia, kẻ lăng du t́nh ái không hề mỏi gối long chân. Cả hai, Cao Dao và Đỗ Bá Thế đều b́nh thản trước cơn hấp hối của Sài g̣n. Tôi hỏi Cao Dao:

- Cả nước lo di tản, ông c̣n ngồi đây tán phét à?

Cao Dao cười tít mắt:

- Để thiên hạ đi vợi, tớ chạy sau chót.

Tôi nói:

- Ông ơi, không có chuyến tầu vét Hải Pḥng 1955 đâu

Cao Dao hít đẫy hơi thuốc, nhả khói:

-Th́ ở lại. Di tản sớm mất giá. Chạy trốn sau có giá. Cậu là nhà văn, cần buôn kinh nghiệm mà bán.

Tôi cười:

- Nhỡ vào biển máu, cạn láng?

Đỗ Bá Thế vỗ vai tôi:

- Tao đă đi ṃn chân Âu Châu rồi, tao không viết được chữ nào thời gian dài tao ở Pháp. Về Việt Nam tao mới biết viết! Mày muốn tác yêu tác quái xứ người, mày cần ở lại. Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ?

Nghe hai ông già này nói chuyện câu trăng, câu sao trên mặt nước, tôi chợt nhớ hai câu thơ của Hoàng Cầm trong kịch bản Lên đường:

Đêm ba mươi c̣n đi cầu danh lợi

Vận nhà ta đến lúc hỏng mất rồi

Đó là ư nghĩ của tôi mấy hôm trước. Bây giờ, nh́n vào Garden qua cửa kính, tôi nhớ Cao Dao, Đỗ Bá Thề, và trong tâm hồn tôi vừa nẩy mầm hy vọng mới. Ừ nhỉ, nếu không dám t́nh nguyện đi buôn th́ bất đắc dĩ đi buôn vậy "Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ?" Thoát chết, bung ra được... Di tản sớm mất giá. Tôi đă có niềm an ủi bị ở lại. Bước nhanh qua La Pagode. Cũng vắng hoe. Các nhà văn nghệ chiếu nhất, hàng đầu, chiếu ba hàng cuối, bằng hữu của tôi nơi mô? Sông chưa lấp mà tưởng chừng đă lấp. Biển dâu tự lúc nào vậy? Tôi đọc khẽ Trần Tế Xương:

Sông kia rầy đă nên đồng

Nơi th́ nhà cửa nơi trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên vai

giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣...

Và đọc khẽ Vũ Đ́nh Liên:

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ...

 

Quay lại, tôi đă đứng trước cửa Pḥng Triển Lăm. Nh́n sang Caravelle, tôi thấy vài anh phóng viên ngoại quốc đeo súng! Phóng viên nhiếp ảnh, quay phim, thông tín viên, kư giả ngoại quốc ví như lũ đỉa đói đă hút máu cuộc chiến của chúng ta bằng những tin bẩn, phim bẩn, b́nh luận bẩn của họ. Chính họ đă tiếp tay cộng sản tạo ra hôm nay. Sự hiểu biết thiển cận của họ, sự làm dáng tiến bộ của họ, sự phản chiến một chiều của họ, sự xuyên tạc, bêu nhục cuộc chiến đấu của chúng ta đầy ác ư và giúp cộng sản thắng lợi ngoài nước trước khi thắng lợi trong nước. Phóng viên, kư giả ngoại quốc, đỉa đói và kên kên gớm ghiếc, nhiều kẻ lănh lương của Việt cộng, nhiều kẻ đần độn, nhiều kẻ tự nhận lương tâm của ḿnh là lương tâm nhân loại để phán xét chiến tranh Việt Nam. Họ c̣n ở lại Sài g̣n. Họ chưa muốn... di tản. Họ cần thiết có những thước phim, những tấm ảnh, những bài báo ngưỡng mộ cộng sản. Họ chờ đợi cộng sản tiến vào sài g̣n. Họ đeo súng° . Không phải để đối phó với cộng sản mà để bắn chết bất cứ một người lính vô kỷ luật, một người Việt Nam nào đe dọa mạng sống của họ. Nhà báo đeo súng, thứ nhà báo vô liêm sỉ. Chắc chắn, nghĩa vụ luận báo chí của nước họ không có điều khoản đeo súng hành nghề. Nhà báo đeo súng và nhà báo đeo súng đă miệt thị ông Nguyễn Ngọc Loan bắn bỏ tù binh?

 

Nh́n những tên phóng viên ngoại quốc đeo súng nghênh ngang trước cửa khách sạn Caravelle, tôi lấy làm ghê tởm. Làng báo Việt Nam cũng có ít nhất, năm đứa đeo súng hành nghề. Đứa lơa lồ nhất, vô lại nhất là Nhữ văn Uy. Thằng này đem súng cả vào Hạ Viện, bắn loạn xà ngầu. Nhưng khi bị Đặng văn Tiếp thách "bắn chậm th́ chết", nó co ṿi. Bẩn mắt v́ ngó những thằng phóng viên ngoại quốc đeo súng, tôi ngắm Hạ Viện. Hạ Viện đă giống chùa Quán Sứ của bà Hồ Xuân Hương:

Hạ Viện sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm dân biểu đáo nơi neo

Nghị sĩ chạy cả rồi. Dân biểu chạy cả rồi. Chiến hay ḥa không có tiếng vang rung chuyển nơi đây. Cho nên, những trang lịch sử chó đẻ nhất của dân tộc phải tính từ ngày 12-3-1975. Và những trang này không chứa chất u ẩn cần các sử gia đời sau soi sáng. Nó phơi ra thỗn thện như những miếng thịt bầy nhầy, như xác chết muông thú nhung nhúc ṛi bọ.

Chẳng c̣n ǵ hấp dẫn ở trung tâm thành phố, cũng chẳng có ǵ lạ lùng ở bất cứ một khu vực nào của Sài g̣n. Câu thơ sau đây của Trần Tế Xương diễn tả đúng cảnh tượng Sài g̣n buổi sáng 30-4-1975:

Kẻ đi người lại dáng bơ vơ...

Chúng tôi trở lại ṭa Đại Sứ Mỹ. 8 giờ 15 phút. Lính Mỹ vẫn lạnh lùng canh gác. Con nít ngủ la liệt trên vỉa hè. Cụ già dựa lưng vào tường, nửa thức nửa ngủ và nửa mơ màng thiên đường Mỹ. Chúng ta t́m về đất hứa không có Moise hướng dẫn, không có Moise bênh vực, không có Moise bảo vệ và không có Moise đầy phép tích nên chúng ta bệ rạc nằm, ngồi ngổn ngang trước Toà Đại Sứ Mỹ, chúng ta ăn báng súng, ăn xô, ăn đạp. Quân dữ ở không gian và thời gian nào cũng thế. Quân dữ ở thời đại của chúng ta hơi khác một tí là nó đă từng bảo nó là bạn của chúng ta. Người ta cần nhớ bài học cay đắng di tản những ngày cuối tháng 4-1975 ở phi trường Tân Sơn Nhất, ở ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ nằm trên đại lộ Thống Nhất mà định mức hào hiệp của người Mỹ thống trị. Và người ta sẽ quán triệt chân lư: Chỉ người Việt Nam mới giải thoát nổi thân phận Việt Nam khỏi ách thống trị của cộng sản. Người Việt Nam phải làm chủ vận mệnh của dân tộc ḿnh. Mọi hậu thuẫn, trợ giúp tinh thần, vật chất là phụ. Chấp nhận viện trợ và khước từ chỉ huy, lănh đạo. Để không c̣n vết nhục quốc sỉ Nguyễn văn Thiệu: "Bảo chúng tôi chống cộng sản mà không viện trợ th́ làm sao chúng tôi chống cộng được"?

8 giờ 17 phút, bất thần, Thủy quân lục chiến Mỹ rút hết một lượt vào bên trong Ṭa Đại Sứ. Dân di tản nhất loạt đứng dậy. Cụ già tỉnh táo. Con nít thức giấc. Mọi người chờ đợi một "biến cố" như một quyết định ban ân huệ vào phút chót. 8 giờ 25 phút, không thể chờ đợi lâu hơn, nóng ruột lắm rồi. Dân di tản leo tường vào, xô cổng vào. Chiếc trực thăng bay lên đúng 8 giờ 30 phút. Dân di tản đă ùa vô đầy sân Ṭa Đại Sứ. không có chiếc trực thăng nào xuống, không c̣n chiếc trực thăng nào xuống nữa. Năm phút, mười phút, rồi ba mươi phút. Trực thăng hết vần vũ trên một góc trời Sài g̣n. Chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài g̣n hồi 8 giờ 30 phút. Có thể, chuyến đó mang ông đại sứ Martin, các nhân vật của Ṭa Đại Sứ, và lính Thủy quân lục chiến Mỹ ra khơi. Dĩ nhiên, ông đại sứ Martin đă không quên gấp lá cờ sao xọc vuông vắn, bê theo, bước lên tàu bay. Thế giới có thể mường tượng cảnh cuốn cờ bỏ chạy của đại sứ Martin qua h́nh ảnh đại sứ John Dean. H́nh ảnh đại sứ John Dean cuốn cờ bỏ chạy khỏi Nam Vang đă đăng trên báo chí.

Những người hụt di tản đau nhất, đau đến mất trí, là những người đă chịu đựng "gian khổ" leo lên nóc Ṭa Đại Sứ Đă ngồi trước cổng Thiên Đàng mà lại bị xuống Địa Ngục, c̣n ǵ nghẹn ngào hơn? Tuyệt vọng v́ người Mỹ hào hiệp không trở lại, họ dắt díu nhau, t́m lối, ṃ mẫm xuống. Di tản trong gặp gỡ di tản ngoài. Di tản trên gặp gỡ di tản dưới. Chỉ Picasso mới đủ khả năng vẽ những khuôn mặt méo mó của người di tản hụt từ nóc Toà Đại Sứ xuống sân, bước ra đường. Thảm cảnh này rất nên ghi vào những trang lịch sử chó đẻ.

Ông Hồ Chí Minh không có tham vọng đánh tan giặc Mỹ. Hơn bất cứ ai, ông hiểu thấu binh pháp Tôn Vũ: "Tri kỷ tri bỉ." Cho nên châm ngôn chống Mỹ của ông là"Đánh cho Mỹ cút", không đánh cho Mỹ thua. ông ta đă thành công. Mỹ không thua mà Mỹ cút. Mỹ không bao giờ thua trận cả. Mỹ càng không bao giờ thua Việt cộng. Mỹ mở chiến tranh như mở cuộc chơi. Chơi lấy thắng măi đâm ra nhàm chán, Mỹ chơi lấy... không thắng. Không thắng và thua khác nhau. Cút và thua khác nhau xa tít tắp. Như ăn uống và tiêu hóa vậy. Người ta có thể bắt bẻ: Không ăn lấy ǵ tiêu hóa, không thua tại sao cút? Bắt bẻ thế là sai. Mỹ muốn thắng Việt cộng th́ bố Việt cộng cũng chẳng đỡ nổi. Đằng này, Mỹ không thèm thắng, dù Mỹ thí lính Mỹ chết thảm, què quặt, tàn phế như con nít đốt kiến. Do đó, thế giới thân cộng mới bảo chiến tranh Việt Nam là chiến tranh bẩn thỉu. Mỹ giao đấu với Việt cộng móc ngón tay: "Tao không đập mày chết đâu." Việt cộng lạy lục: "Cám ơn ông, tôi chỉ mong ông cút." Và Mỹ bèn cút...

Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh giai đoạn cho một mục đích°. Sự nghiệp chống cộng sản bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ của chúng ta chỉ là cái cớ để Mỹ khỏa lấp cái tham vọng hèn hạ của họ. Hai trái bom CBU thả thử xuống chiến trường Long Khánh tiêu diệt dưỡng khí trong một chu vi rộng lớn đă làm "chết sạch" gần hai sư đoàn Việt cộng và cả quân dân ta luôn. Sự tiến công của cộng sản phải dừng lại. Mục đích thử bom CBU của Mỹ đă đạt. Không có thèm trái thứ ba như đă không có ngày thứ mười ba trải thảm bom B-52 ở Hà Nội. Mỹ hoàn toàn yên ổn lương tâm. Phi-la- tồ American rửa tay, mặc xác cho Việt cộng với biển máu của nó. Người Mỹ thực sự hết trách nhiệm khai phóng dân chủ tự do và bảo vệ dân chủ tự do ở Nam Việt Nam vào hồi 8 giờ 30 ngày 30-4-1975. Một nửa dân tộc bị bán đứng cho cộng sản. Một biển máu hứa hẹn dâng tràn. Và tổng thống Gerald Ford thản nhiên tuyên bố: "Lịch sử đă sang trang!"

Nếu có một sư đoàn bộ binh "phản loạn" bao vây Ṭa Đại Sứ Mỹ, nghênh súng pḥng không hạ trực thăng Mỹ, không cho đáp xuống, liệu lịch sử có sang trang dễ dàng?

 

TRUYỆN NGHE KỂ SAU 30-4-1975

 

Lịch sử thường làm nên bằng những bất ngờ. Lịch sử c̣n đăi ngộ những kẻ có duyên và hờ hững với những kẻ vô duyên. Người vô duyên nhất trong lịch sử hiện đại là cụ Nguyễn Hải Thần. ông Lư Thành Cầu, đại tá t́nh báo của quân đoàn Lư Hán, người đă theo tướng Tiêu Văn sang Việt Nam tước vơ khí Nhật ở miền Bắc, người đă dẫn dắt Hồ Chí Minh gặp Tiêu Văn để hối lộ vàng cho Tiêu Văn rút Tầu phù về nước, khi vào tù cộng sản° , kể cho Doăn Quốc Sĩ, Hoàng Mạnh Hùng và tôi nghe rằng:

- Cụ Nguyễn Hải Thần làm thơ chữ Hán trác tuyệt, hay gấp bội thơ chữ Hán của cụ Hồ Chí Minh. Cụ mê thơ quên đại sự. Thống chế Tưởng Giới Thạch kính trọng cụ Nguyễn lắm, nhưng bận việc nước non, rất hiếm dịp tiếp cụ Nguyễn và nếu có dịp, chỉ tiếp được 15 phút. Cụ Nguyễn gặp Tưởng không bàn chuyện cứu nước, mà cứ khoe thơ, b́nh thơ măi hết th́ giờ.

Đó là nỗi vô duyên thứ nhất của cụ Nguyễn Hải Thần. Nỗi vô duyên thứ hai được nhà văn Trúc Sĩ, tác giả Kẽm trống khá hay, người đă tham dự ngày tổng khởi nghĩa 19-8-1945 tại vườn hoa Ba Đ́nh, Hà Nội kể lại trong trường thiên tiểu thuyết Thét hận° . Theo Trúc Sĩ, cụ Nguyễn Hải Thần bôn ba sang Tầu trước Lư Đông A có vài năm mà cụ nói tiếng Việt không sơi nữa. V́ cụ ấp úng "tồng pào thân mến" nên Trần Huy Liệu mới dám vỗ vai cụ, mời cụ xuống để thao túng diễn đàn. Và quốc gia bị cộng sản chế ngự. Cộng sản cướp luôn công lao chiến đấu giành độc lập của các đảng phái quốc gia. Nỗi vô duyên thứ hai của cụ Nguyễn Hải Thần xứng đáng là bài học quư giá cho những ai mưu đo chuyện phục quốc, cho thế hệ trẻ trưởng thành tại quê người.

V́ vô duyên với lịch sử, cụ Nguyễn c̣n bị cộng sản ghép vào bộ ba bán nước Tam Thần Sâm (Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn văn Sâm) và nhục mạ cụ bằng bài hát:

Nguyễn Hải Thần.

Nguyễn Hải Thần ông ơi,

ông ra đi từ 21. 22

ông ra đi sang nước Tầu buôn sái

v́ sái thơm ông hy sinh cả một đời...

Và nhái ca dao Thằng Bờm:

Thằng Thần có cái Việt Nam

thực dân gạ đổi ngai vàng nhà vua

Thần rằng Thần chung lấy vua

thực dân gạ đổi ba cô nàng hầu...

........

thực dân gạ đổi cơm đen Thần cười...

Người có duyên, dù thù hận cách mấy, dù không ưa một tí ti ông lăo nào cả, người ta vẫn phải công nhận ông ta có duyên với lịch sử, là Hồ Chí Minh. Bất ngờ, về nước năm 1945, ông Hồ Chí Minh lơ thơ vài sợi râu. Và ông ta được suy tôn là "cha già dân tộc", một cách lăng xẹt. Nguyễn Thanh Trịnh, nhà văn trẻ của tuần báo Tuổi Ngọc kể với tôi rằng, đă gặp Nguyễn Đ́nh Thi, đă chất vấn bộ râu của "Bác Hồ" và được trả lời:

- Râu của Bác là cái may và c̣n là cái không may. Nếu 54 tuổi, cằm bác nhẵn thín, lịch sử đă có khúc rẽ:

Nguyễn Đ́nh Thi không dám "diễn nghĩa"... cụ thể về mấy sợi râu lơ thơ tơ liễu buông mành của ông Hồ Chí Minh năm 1945. Cái may của ông Hồ nhờ râu. Cái không may của dân tộc v́ râu của ông ta. ông Hồ Chí Minh khôn lỏi. Bí danh cuối cùng của ông chọn làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa đă chứng tỏ ông ta toan tính kỹ lưỡng. âm nhạc có bảy nốt. Hồ Chí Minh chiếm ba nốt êm ái. Hồ Chí Minh muôn năm th́ ông ta chiếm 4 nốt. Mà Bác Hồ Chí Minh muôn năm là 5 nốt. T́nh tính tinh: Hồ Chí Minh. ông Hồ Chí Minh đă đi giép râu, mặc quần áo đại cán, cầm que điều khiển giàn nhạc đại ḥa tấu chơi bài Kết đoàn, có vẻ như ông ta rành âm nhạc. Ông ta gây dễ dàng cho các nhạc nô suy tôn ông và gây khó khăn cho các nhạc nô muốn suy tôn lănh tụ kế nghiệp và lănh tụ đối nghịch. Thí dụ: Tôn Đức Thắng, Đặng Xuân Khu, Lê Đức Thọ, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn văn Thiệu... Ti t́ tị: Ngô Đ́nh Diệm. Nghe không du dương. Tí ti tị: Nguyễn văn Thiệu. Càng chói lỗ tai. T́ tí ti: Hồ Chí Minh. Mê ly như hờ ly rút tinh tủy? Thế là ông Hồ Chí Minh có hàng trăm bài suy tôn công đức và sự nghiệp. ông ta xứng biệt danh Cáo Già.

V́ khôn lỏi, ông ta cố t́nh cấy râu ớ có râu lơ thơ. Nhờ râu lơ thơ, ông ta tự nhận ḿnh là "cha già dân tộc," là "Bác Hồ," là "Cụ Hồ". Cả nước gọi ông bằng Bác, bằng Cụ. ông ta, chó ngáp phải... râu, trở thành bác của nam phụ lăo ấu? Nếu 1945 về nước "cướp chính quyền", ông Hồ Chí Minh không có râu, ông ta sẽ bị miệt thị:

Đàn ông không râu bất ngh́

Đàn bà không vú lấy ǵ nuôi con...

Ông ta chẳng bao giờ dám trơ trẽn để cho văn nô, thi nô, nhạc nô ví ḿnh như "cha già dân tộc," như Bác của nam phụ lăo ấu, như Cụ... trong dân! Lịch sử đă có khúc rẽ. Ôi, v́ vài sợi râu lơ thơ mà ông Hồ Chí Minh có duyên với lịch sử. Sự có duyên của ông ta đă khiến dân tộc đói khổ, ngu dốt, lạc hậu, thù hận, tù đầy. Và đó là trớ trêu của lịch sử. "Với một chữ nếu, người ta có thể bỏ Paris vào trong cái chai." Nếu cụ Nguyễn Hải Thần nói giỏi tiếng Việt, Việt Minh đi về đâu từ 1 945? Nếu ông Hồ Chí Minh vô tù, dân tộc Việt Nam đi về đâu? Chắc chắn, không đi vào quỹ đạo cộng sản.

Đừng tưởng lịch sử sáng suốt. Lịch sử đă mù ḷa chọn kẻ có duyên Hồ Chí Minh mà đăi ngộ. Nói cho hợp lư, muốn lịch sử mù ḷa, những kẻ âm mưu lănh tụ cần tua tủa thủ đoạn và biết hóa trang. Hồ Chí Minh chính là một trong những kẻ đó. Nhưng lịch sử không chỉ đăi ngộ những kẻ có duyên mà c̣n đăi ngộ những kẻ liều lĩnh đúng thời. Nguyễn Nhạc là biểu tượng của những kẻ liều lĩnh đúng thời. Kẻ phóng đăng đất B́nh Khê, nhờ liều lĩnh mà dẫn lối cách mạng Tây Sơn để Nguyễn Huệ° mở đường đi tuyệt vời cho dân tộc. Nếu Nguyễn Nhạc không liều lĩnh, có nhà Tây Sơn không? Và nếu Nguyễn Nhạc không phóng đăng, Nguyễn Nhạc là Biện Nhạc hiền lành, có nhà Tây Sơn không?

Ông Đinh Xuân Cầu, tác giả Bên kia Bến Hải và Đôi kính, kể với tôi rằng:

-Lịch sử có thể thay đổi bằng một cú chơi bạo cuối cùng. Những người chống cộng quyết liệt đă vận động xong một sự hợp tác với một tiều đoàn nhẩy dù. Tiểu đoàn dù sẽ bao vây Toà Đại Sứ Mỹ, sẽ nhắm trực thăng mà hạ. Trực thăng không đáp xuống được để cứu ông đại sứ th́ thủy quân lục chiến Mỹ phải đổ bộ vào cứu. Chúng ta lợi dụng cơ hội này hô hào chiến đấu v́ Mỹ lại can thiệp th́ quân đội sẽ lên tinh thần. Kế hoạch định vào sáng 30-4. Bất ngờ, 30-4, Dương văn Minh ban lịnh giới nghiêm. Quư vị đầu năo của kế hoạch nản ḷng, nằm nhà thở dài. Thế là lịch sử sang trang!

Cú chơi bạo cuối cùng sẽ ngoạn mục lắm. Người ta có thể mường tượng ra phản ứng của Mỹ. Nhất định, Thủy quân lục chiên Mỹ sẽ can thiệp. Chúng ta bắt Mỹ phải chơi tṛ chơi do chúng ta bầy ra. Chúng ta không cho "Mỹ cút". "Mỹ đă trở lại." Chỉ cần bốn tiếng đó cho một khoảnh khắc thế sự. Là có thay đổi ḷng người. Là sẽ thay đổi mọi mặt. Nhưng v́ thiếu liều lĩnh cần thiết, v́ hèn nhát, những kẻ định níu kéo lịch sử đă nản ḷng. Và lịch sử lạnh lùng sang trang như sự lạnh lùng của tuyên bố Ford. Và chúng ta có những khuôn mặt méo mó di tản hụt, từ nóc Ṭa Đại Sứ Mỹ ṃ mẫm xuống sân, lếch thếch trên đường về...

 

 

Chương 4

 

9 giờ. Tôi bảo Đặng Xuân Côn thả tôi xuống trước rạp Kinh Thành. Côn chạy về Phú Nhuận. Ḿnh tôi đứng bên dăy phố Hai Bà Trưng nh́n sang vỉa hè bên kia, buổi sáng Tân Định. Chỗ đó, vài hôm trước, tôi vừa gặp anh Trần Kim Tuyến, sơ-mi bỏ ngoài, giép Nhật Bản, thất thểu đi.

-Anh đi đâu đấy, anh Tuyến?

- Đi đâu?

Ông Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị, "tên trùm mật vụ ác ôn thời Diệm" - cộng sản nó gọi thế - thở dài.

- Chúng ta đă chống cộng. Riêng tôi th́ cứ ngoác miệng đ̣i "chống cộng đến chiều." Và rồi chúng ta hỏi nhau đi đâu. Anh sẽ đi đâu, anh Tuyến?

-Chẳng hiểu.

-Mỹ nó không đón anh à?

-Không. C̣n cậu?

-Có lẽ cũng không. Người Mỹ dành ưu tiên số một cho me Mỹ, cho bọn tham nhũng, thối nát, cho đám làm giầu bằng chiến tranh.

-Cậu định đi đâu?

-Chẳng hiểu, anh ạ!

 

Không có lối chạy cho người chống cộng. Những kẻ chống cộng tự nguyện rất kiêu hănh nhưng luôn luôn thiệt tḥi. Tôi là một trong những kẻ ấy. V́ chống cộng tự nguyện, tôi không bị xếp vào hàng ngũ đầy tớ Mỹ. Đó là một thiệt tḥi. Sự thiệt tḥi nh́n rơ: Có cả chục ngàn chỗ cho những người chưa hề chống cộng trên máy bay di tản của Mỹ mà lại không có chỗ nào cho Doăn Quốc sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhă Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền... Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa - tư tưởng° , ở "Lời giới thiệu", cộng sản viết: "... Một số người khác như Duyên Anh, Nhă Ca... chấp nhận chủ nghĩa chống cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ. Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ư thức. Ư thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xă hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa cộng sản. Họ cho văn nghệ làm sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện đểà đạt mục đích và tự nguyện dùng ng̣i bút của ḿnh phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đă có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví ḿnh là "viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ." Doăn Quốc Sĩ coi ḿnh như một "viên kim cương, răng cộng sản không sao nhá được." Thêm một thiệt tḥi. Và cái thiệt tḥi cay đắng là bị cộng sản chụp cái mũ khả ố "chấp nhận trật tự xă hội thực dân mới". Như thế, vẫn chưa đủ nghẹn ngào. Kẻ chống cộng tự nguyện c̣n bị những người tập sự chống cộng, bập bẹ chống cộng, vỡ ḷng chống cộng, ngớ ngẩn chống cộng phán xét một cách dễ chửi thề. Hẳn nhiên, những kẻ chống cộng tự nguyện thường xuyên bị vây hăm, bị bêu nhục bởi ḅn đầy tớ Mỹ chống cộng ở bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Nhưng mà những kẻ chống cộng tự nguyện phải chấp nhận, hiên ngang chấp nhận và can đảm chống luôn cả bọn đầy tớ ngoại bang chống cộng, bọn làm thui chột niềm tin chống cộng, bọn giúp cộng sản đánh bóng chính nghĩa của nó, bọn ảo tưởng và thù vặt v́ bất đồng quan điểm. Những kẻ chống cộng tự nguyện ngổn ngang kẻ thù. Ngoài cộng sản, họ c̣n bị đánh dấu tuyết hận bởi bè lũ thống trị tôi mọi, tập đoàn ăn cắp, thảo khẩu chính trị, lũ thời cơ chủ nghĩa, đám buôn bán Phật Chúa... Song cần chi, hai tiếng tự nguyện mà kẻ thù cộng sản khoác hoa quanh cổ họ cơ hồ hào quang đốt cháy mọi rác rưởi, bèo bọt thế thời. Và họ vẫn ngồi lên tất cả như đă ngồi lên tất cả những khuôn mặt sa-đích chính trị rẻ tiền.

- Anh có lối nào khác lối Mỹ không?

Tôi hỏi. Bác sĩ Trần Kim Tuyến lắc đầu buồn bă:

-Không.

 

Không. Chúng ta đă chống cộng sản hai mươi năm và chúng ta không có lối chạy trốn cộng sản! Tại sao tổ tiên chúng ta đă không t́m đường chạy trốn mà chỉ t́m chỗ tạm lui về chờ đợi tiến lên? Chắc chắn, tổ tiên chúng ta chống giặc nước một ḿnh. C̣n chúng ta, chúng ta chống giặc nước với người Mỹ. Chúng ta đă đổ xương máu cho KHÔNG. Và cái không ủ ê nhất là cái không lối chạy trốn giặc. Liệu chúng ta đă học được một điều ǵ trong bài học chống cộng sản với Mỹ rồi không c̣n lối chạy trốn cộng sản? Chỗ đó, vài hôm trước... Chỗ đó, hôm nay...

Tôi đă thất thểu bước tới ngă tư Hai Bà Trưng - Yên Đổ - Trần Quang Khải. Nỗi chết không c̣n ám ảnh mà nỗi chết hiện dần. Tự nhiên, tôi thèm sống vô cùng. "Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh a! Đỗ Bá Thế đă phán vậy. Sự thèm sống khiến tôi quên sợ chết. Lạ quá, lúc đó, tôi chẳng hiểu nổi tôi. Phải nói, tôi chẳng hiểu nổi sự chuyển dịch tâm hồn tôi. Nếu tôi đă chưa biết cái cảm giác lênh đênh của tâm hồn th́, bây giờ, tôi biết. Biết rơ. Tâm hồn tôi lênh đênh theo bóng ngă hoàng hôn của cuộc chiến đấu hai mươi năm hư ảo. Lênh đênh chạy trốn. Lênh đênh bất b́nh chạy trốn. Lênh đênh sợ chết. Lênh đênh chờ chiến đấu. Lênh đênh thèm sống. Lênh đênh ước mơ.

Đi ngược đường Yên Đổ, tôi về nhà tôi.

Thành phố Sài g̣n bất chấp lệnh giới nghiêm 24 trên 24 của Dương văn Minh. Thành phố này, h́nh như, cũng bất chấp cả nỗi ngậm ngùi sắp đến. Sài g̣n thản nhiên chờ đợi niềm bất hạnh. Mặt trời vẫn chưa mọc. Có vẻ mặt trời không thích mọc hôm nay. Tôi buồn bă đứng trước cổng nhà ḿnh ngó ngang, nh́n dọc. Bà bán thuốc lá sát cổng nhà tôi hớt hơ hớt hải từ dưới Xóm Lách chạy tới chỗ tôi:

-Cậu không đi được à?

- Không.

-Liệu người ta có để cậu yên không?

- Ai?

- Th́... Việt cộng?

Bà ta nói nhỏ:

- Cậu ạ, người ta vây kín Sài g̣n rồi!

Tôi thở hắt ra:

- Thế à?

Nh́n bà bán thuốc lá, tôi hỏi:

- Sao bữa nay bà không bán?

- Tôi tưởng giới nghiêm.

- Chứ không phải mệt v́ đêm qua lo hôi đồ à?

- Tôi thề với cậu, không quen làm việc ấy.

- Làm th́ đă sao, của Mỹ chứ bộ.

- Mà không quen.

Tôi nh́n thẳng vào mặt bà ta:

- Việt cộng vào, bà có để tôi yên không?

Bà ta chớp mắt lia lịa:

-Tôi mong cậu đi lọt mà.

Từ người vô sản bán thuốc lá, tôi quan sát những người vô sản Xóm Lách quanh tôi. Tất cả đều c̣n cho tôi những nụ cười, những ánh mắt chứa chan t́nh cảm. Tôi yên tâm. Đă quá hiểu những bài học căm thù của cộng sản, tôi sợ rằng những nụ cười, những ánh mắt chứa chan t́nh cảm của người vô sản Xóm Lách sẽ biến mất. Chưa biết bao giờ. Có thể lát nữa. Có thể trưa nay. Có thể chiều nay. Có thể tối nay.

-Bà Tẹo.

-Dạ.

- Tôi đă làm phiền bà điều ǵ chưa?

- Sao cậu hỏi vậy?

- Bởi v́ sẽ thay đổi nhiều đấy.

- Không có ǵ thay đổi đâu cậu ạ? Tôi vẫn bán thuốc lá trước cổng nhà cậu, vẫn xin được bán thiếu cho cậu để cuối tháng có món tiền để dành lớn.

-Cám ơn bà.

Tôi bấm chuông. Nhà tôi ra mở cổng:

- Thế nào, bố?

-Thế nào là thế nào?

- C̣n nước tát không?

- Cạn rồi. Mỹ thật sự cút rồi. Nhưng em yên tâm. Bằng hữu của chúng ta c̣n ở lại khá đông. Anh đă gặp Mai Thảo, Nguyễn Tuấn Anh...

Nhà tôi nín thinh. Tôi vào, gieo người xuống ghế bành, gác chân lên bàn xa-lông. Tôi cảm giác căn nhà của gia đ́nh tôi đă trở thành cái nghĩa địa hoang vắng. Nỗi hiu quạnh đùn lên, đùn lên, dâng ngập trắng xóa. Lần đầu tiên trong đời, tôi nh́n rơ cái lẽ phù ảo của đời sống. Nhờ vậy, tôi thanh thản dọn chết. Và tôi c̣n dọn thêm cả sự "thoát chết, bung ra." Nếu lúc này có Mai Thảo ngồi đấu hót? Tôi trách tôi đă quên rủ Mai Thảo đi nh́n Sài g̣n hấp hối và rủ Mai Thảo về nhà tôi uống rượu. Tôi vẫn c̣n vài chai Table du roi. Tôi nhớ, mới đây thôi, Mai Thảo tâm sự với tôi:

- Tôi ở một nơi chốn nào là ḷng gửi nơi chốn đó nên xa một nơi chốn là nhớ vô cùng, dẫu nơi chốn cũ chẳng xa ǵ nơi chốn mới. Thật sự, tôi không thích di tản. Xa quá, xa quá...

Và Mai Thảo rất lừng khừng chuyện ra đi- Anh ta cứ ra, theo triết lư cù nhầy của Nguyễn Bính "ngày mai ra sao rồi hăy hay." Mai Thảo tâm sự tiếp:

- Tôi có ông thày học khá lạ lùng. ông ta đă nói với tôi rằng, người ta chỉ cần sống đến 50 tuổi. Là đủ rồi. Tôi đă 50 tuổi. Sống thêm có lẽ thừa thăi.

Mai Thảo đă 50 tuổi. Tôi mới 40. Cho nên, dù đă vỡ lẽ phù ảo của cuộc đời, Cứ thèm thuồng "thoát chết, bung ra" trong những giờ phút dọn chết.

10 giờ thiếu 10 phút. Chuông điện thoại reo vang:

-Long hả?

- Ừ!

- Chúng nó xuất hiện ở Xóm Gà, G̣ Vấp rồi. Trên ấy ra sao?

-Im lặng.

-Mày nghĩ xem có nên chở gia đ́nh lên bà Nguyễn Đ́nh Vượng tránh né cảnh tranh tối tranh sáng không?

-Không cần.

-Tại sao không cần?

- V́ bà Vượng cũng bị ném vào biển máu! Nếu ông muốn cùng chết với tôi th́ lên đây.

Đặng Xuân Côn, Thằng Côn, người bạn ấu thời của tôi, người bạn đă, cơ hồ cái bóng, theo sát tôi 30 năm ṛng ră, đă chia xẻ vinh nhục với tôi, đă đau khổ v́ tôi, đă ôm đau khổ của tôi làm đau khổ của ḿnh. Chúng tôi học tiểu học ở trường Monguillot thị xă Thái B́nh. Côn là cháu đích tôn của cụ Đặng Đ́nh Điền, tự Hào Điển, một trong những lănh tụ Việt Nam quốc dân đảng. Năm 1951, sau khi cộng sản quy định thành phần, giai cấp, mặc dù đă mù ḷa, bệnh hoạn, cộng sản vẫn bắt cụ Hào Điển, bỏ cụ vào cái rổ xề, khiêng cụ ra giữa cánh đồng hoang vắng và để cụ chết đói chết khát ở đó. Qua mấy năm tao loạn, chúng tôi lại gặp nhau ở thị xă Thái B́nh đổ nát v́ tiêu thổ kháng chiến. T́nh bạn vẫn khắng khít. Chúng tôi học trung học tại trường Trần Lăm và không ngớt tương tư thị xă đềm êm cũ với những hàng hồi thơm hăng hắc dọc vỉa hè đường phố. Rồi chúng tôi lên Hà Nội trọ học. Mùa hè 1954, tôi về Thái bị kẹt v́ Pháp "di tản chiến thuật". Tôi ở lại chứng kiến quân cách mạng tiếp thu Thái B́nh. Rồi hội nhập đời sống mới.

Cuối tháng 7-1954, Côn trở lại Thái với nhiều ưu tư. Nó không hé miệng nói cho tôi nghe những ưu tư của nó. Chúng tôi thường lên cầu Bo ngắm ḍng sông Trà Lư đỏ ngầu phù sa mùa nước lũ. Cầu Bo. cây cầu kỷ niệm của chúng tôi, bị quân Pháp đánh sập nhịp giữa trước đêm rút lui. Người ta bắc cầu giây đi tạm. Côn ở Thái hai tuần lễ và lỉnh tránh mọi công tác... cách mạng. Một buổi sáng nó t́m tôi khi tôi đang bận kê bàn ghế cho lớp học dạy "công nhân" vỡ ḷng quốc ngữ. Côn rủ tôi sang Nam Định chơi. Tôi từ chối, v́... công tác khẩn trương. Tôi bảo Côn đợi vài hôm nữa. Nó bỏ về. Rồi nó sang Nam Định lúc nào tôi không rơ. Cuối tháng 8-1954, Nguyễn Thịnh từ Hà Nội về Thái. Tôi hỏi thăm Côn. Thịnh nói Côn đă vào Sài g̣n..

Tôi choáng váng. Côn đă nghi ngờ tôi theo... cách mạng, không dám tâm sự với tôi. Tôi vội vàng chuồn lên Hà Nội, kiếm nhà Vũ Thượng Văn ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, hỏi thăm đia chỉ Côn tại Sài g̣n. Tiêu pha hết đồng bạc cuối cùng ở Hà Nội, cuối tháng 9-1954 tôi mới vào Sài g̣n, đến phố Heurtaux bên Khánh Hội t́m Côn. Thế là chúng tôi có tháng ngày nhà hát Tây ba đào, có t́nh yêu lẩm cẩm, có Đỗ Tiến Đức, Hà Huyền Chi... Chúng tôi thêm những kỷ niệm cay đắng vào đời. Sự nghiệp văn chương của tôi, phần lớn, là do Thằng Côn đóng góp. Bằng khích lệ. Bằng cả những đồng tiền mồ hôi của nó. Tập truyện Hoa thiên I)" của tôi, Côn bỏ tiền xuất bản. Nếu có lần nào đền ơn Thằng Côn th́ chỉ một lần Thằng Vũ nghiến răng chịu nhục, chịu hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn để ngậm miệng cho Thằng Côn b́nh yên ngoài nhà tù mà t́m cách đưa vợ con trốn khỏi Việt Nam. Đáng lẽ, Côn ra đi b́nh yên trước 30-4-75, nó cứ bám sát tôi Cho đến phút chót, nó vẫn lo tôi bị tàn sát trước nhất.

- Tao nghĩ mày nên đưa vợ con lỉnh chỗ khác.

-Chỗ nào? Không c̣n chỗ nào cho tôi ẩn thân cả. Mà tôi cũng cóc cần ẩn thân nữa.

- Mày đừng chướng.

-Cúp điện thoại đi!

Tôi cúp trước, khỏi cần đợi Côn.

10 giờ 20 phút. Chuông điện thoại lại reo:

- Long hả?

- Ừ!

- Chúng nó đă lảng vảng khu nhà anh Hoàng văn Đức rồi. Tao lên mày nhé?

- Hỏi chi nữa!

Tôi cúp điện thoại ngay. Và, thật sự, kể từ phút này, tôi đă té nhào khói lăng du lênh đênh trên ước mơ, tôi hết dám thèm "thoát chết, bung ra." Tôi sợ hăi. Tôi trở về với sự sợ hăi 0 giờ 1 phút. Nỗi chết gần kề. Đao phủ và h́nh cụ của nó đang chờ tôi bên bờ biển máu. Làm thế nào để con người được chết ngon lành? Tôi chợt nhớ một truyện ngắn của Jack London, nhan đề Mất mặt. viết về sự dọn chết tuyệt vời của một người không thích chết đau đớn, sợ hăi chết khắc khoải. Câu chuyện như thế này: Một gă phiêu lưu da trắng lạc vào một bộ lạc hung dữ nhất của một vùng Bắc cực. Các bộ lạc ở đây đánh giá trị vĩ đại nhất bằng sự tàn ác nhất. Bộ lạc nào giết kẻ thù chết từng giây, chết đếm nỗi chết từng giây, chết quằn quại, rên la lâu nhất, bộ lạc ấy được tôn vinh và công nhận là minh chủ. Thế th́ gă phiêu lưu của Jack London đă rơi vào tay bộ lạc minh chủ. Gă hiểu gă sẽ bị chết co rút mỗi tế bào. Gă cũng hiểu những kẻ tàn ác nhất đều là những kẻ thèm sống "muôn năm", thèm bất tử, nên gă xin được kéo dài ngày chịu tội để kiếm lá luyện thuốc bất tử. Môn thuốc này bôi khắp ḿnh mẩy, tên bắn vào văng ra, búa bổ xuống nẩy tung, lao phóng trúng cong oằn... Tù trưởng của bộ lạc minh chủ sướng quá, bèn cho gă phiêu lưu đi t́m lá. Gă khôn ngoan, luyện thuốc bất tử thật lâu. Khi đă luyện xong, gă yêu cầu vị tù trưởng thử. Vị tù trưởng sợ, không dám thử. Không ai trong bộ lạc dám thử cả. Tất cả những kẻ hung ác đều sợ chết thảm và đều thích người khác chết thảm. Cuối cùng, gă phiêu lưu t́nh nguyện thí nghiệm thuốc bất tử của ḿnh. Bộ lạc đồng ư. Gă yêu cầu kê cổ gă trên một 1 húc gỗ tṛn và chắc và phải dùng một cái búa sắc như nước do tay lực lưỡng xử dụng. Gă bôi thuốc đầy cổ. Rồi gă dục hạ búa. Nhát búa vung lên, bổ mạnh xuống. Gă phiêu lưu bay đầu. Gă được chết ngon lành. Bộ lạc minh chủ mất mặt, mất ngôi minh chủ và bị các bộ hạ khác khinh bỉ, v́ đă để kẻ thù chết sung sướng, chết thanh, chết gọn...

Cộng sản ác hơn và khôn ngoan hơn bộ lạc minh chủ bị mất mặt trong truyện ngắn của Jack London. Và tôi, tôi không có can đảm dọn cho ḿnh cái chết ngon lành. Tôi sợ luôn cả cái chết ngon lành, cái chết của chiến sĩ, cái chết của liệt sĩ, cái chết của thánh tử đạo. Rốt cuộc, tôi thèm sống, sợ chết. Bởi tôi vừa nhận ra tôi đích thực rằng tôi chỉ là nghệ sĩ. Tôi cần sống sót. "Cậu là nhà văn, cần buôn kinh nghiệm mà bán." Cao Dao khuyên tôi thế. Tôi cần sống sót. "Thoát chết, bung ra được là mày nên người, Duyên Anh ạ"? Đỗ Bá Thế dạy tôi thé. Nhà văn không cần thiết tử v́ đạo. V́ y vô đạo. Nhà văn không cần thiết tuẫn tiết. V́ y tuẫn tiết sẽ chẳng c̣n ai sống để viết về những cái chết đẹp trong cơi đời. Nhà văn cần thiết có tác phẩm, và phải là tác phẩm rực rỡ kinh qua mọi sợ hăi, mọi thống khổ mỏi ṃn. Nhà văn là người viết về sự sống ngoạn mục, nỗi chết phi thường của người khác, không bao giờ là kẻ trông đợi người khác viết về cái chết, nỗi chết của ḿnh. Do đó, nhà văn bất chấp những kẻ bỉ thử ḿnh, lăng mạ ḿnh đủ điều về sự sống của ḿnh. Rất tự hào và đủ quyền kiêu hănh để nói, những kẻ bỉ thử, lăng nhục nhà văn là những kẻ không biết viết hay viết chẳng ra ǵ. Những kẻ này không bao giờ được phục sinh, bởi v́ họ không hề có một cái ǵ đểà lại cho đời sống kế tiếp. Tôi là nhà văn, tôi chẳng lấy ǵ làm xấu hổ mà công khai nhận ḿnh thèm sống sợ chết. Tôi đă bày tỏ thái độ của tôi rơ rệt trong bài Chút tâm sự của người làm thơ trong tù. Theo tôi, sự tồn tại khác hẳn với sự sống. Tôi chưa thấy một nhà văn chuyên nghiệp nào - nhà văn nuôi ḿnh, nuôi vợ con ḿnh bằng hàng tỉ chữ thao thức viết - khi chết được vinh tôn như một anh hùng, liệt sĩ. Người ta đă chỉ vinh tôn tác phẩm của nhà văn. Tôi cũng chưa thấy ai nhận trách nhiệm nuôi vợ con nhà văn, nuôi nhà văn cả, nhưng người ta cứ bắt nhà văn phải có đủ thứ trách nhiệm, đủ thứ đạo đức, đủ thứ can đảm. Người ta c̣n bắt nhà văn dấn thân, nhà văn tranh đấu cho đủ thứ quyền của con người, nhưng, mỉa mai thay, cái quyền lợi thiết thực của nhà văn là tác phẩm mồ hôi, tim óc của họ bị đạo tặc công khai tước đoạt, không ai tranh đấu cho nhà văn cả Tôi đă thấy chính xác nhà văn tạo hào quang rực rỡ cho anh hùng, liệt sĩ, thần thánh. Nhân loại đă thờ phụng h́nh chúa Giêsu vẽ theo trí tưởng tượng của Michel Ange mà không thờ Michel Ange. Những bức tượng, những tranh vẽ trong giáo đường của Léonard de Vinci, của Raphael về Đức Mẹ, về thiên thần đều được kính cẩn thờ phụng cả đấy. Ai đă nói cho nhân loại biết tài năng của Michel Ange, Léonard de Vinci, Raphael? Nhà văn. Nhà văn viết về Thượng Đế. Nhà văn làm ra Thượng Đế. Thượng Đế không làm ra nhà văn. Gần gũi chúng ta nhất, người Tầu và cả người Việt Nam đều đèn nhang, trầm hương x́ xụp vái lạy ba anh Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi mà quên nhà văn La Quán Trung đă phong thánh cho ba anh rất lơ mơ trong lịch sử Trung Hoa. Tài năng của nhà văn La Quán Trung đă biến nhân vật tiểu thuyết thành thánh. Không ai thờ La Quán Trung cả. Người ta hằng luận về hào khí Vơ Ṭng, Lâm Xung mà quên Thị Nại Am; ngợi ca Kiều Phong, Lệnh Hồ Xung, Dương Quá, Quách Tĩnh mà quên Kim Dung. Vân vân... ở thời đại của tôi và ở đất nước tôi, nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc đă phong thánh cho Hồ Chí Minh. Khi đất sét được nặn hóa thánh, thánh tưởng ḿnh thiêng đă bỏ tù những kẻ phong thánh cho ḿnh. Nhân Văn giai phẩm là thí dụ điển h́nh. Nguyễn Bính có câu thơ mà tôi rất thích: Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ. Cái đám thế nhân mắt trắng có thánh để thờ, có thần tượng để chiêm ngưỡng, có lănh tụ để suy tôn, có ước mơ để mơ ước, đă không đem gạo nuôi nhà văn, đă không biết ơn nhà văn, lại c̣n ong óng lời chó dại, lại c̣n phun ph́ nọc rắn rết lên án nhà văn, thống trách nhà văn. Vậy th́ nhà văn, anh đă sáng suốt nhận ra anh chưa? (Tôi đă nhận ra tôi. Và tôi cho rằng tôi chỉ có trách nhiệm với những thống khổ tôi đă kinh qua, đă thể nghiệm. Tôi không được phép phản bội những oan khiên, những cay đắng, những cô đơn đă soi sáng cuộc đời tôi. Và tôi hiểu rằng nhà văn có quyền phép ghê gớm. Nhà văn đưa thằng bán chiếu Lưu Bị lên ngôi anh hùng và bắt kẻ anh hùng Tào Tháo làm đứa gian hùng. Thế nhân mắt trắng, cái đám ưa hạch sách nhà văn, vấn nạn nhà văn, thị phi nhà văn, chụp mũ nhà văn, sống ngh́n đời vẫn không đủ tư cách và khả năng hủy diệt nổi tác phẩm của nhà văn. Nhưng, nhà văn chỉ cần cuốn sách mỏng, viết bằng chân trái, cũng đủ nhốt cái đám gian dối lương tâm vào ngục tù muôn thuở. Đừng có đùa với văn chương Và đừng có rỡn mặt nhà văn. Chưa quán triệt sức mạnh của văn nghệ, học đ̣i làm lănh tụ, học đ̣i mưu đồ quốc sự, đă không biết kính trọng nhà văn c̣n xúi dục tiểu yêu bôi bẩn nhà văn, quả là bọn cắn hạt gạo chưa vỡ đôi Người ta chỉ đố kỵ niềm vinh quang của nhà văn mà không chịu cảm thông nỗi nhục nhằn nhà văn phải kiên nhẫn chịu đựng, chịu đựng không ngừng. Và nhà văn làm việc cho ai, tác phẩm của nhà văn để lại cho ai, người ta cứ giả vờ không thèm biết. Rồi mỗi năm bao nhiêu tiến sĩ tốt nghiệp và bao nhiêu năm mới nẩy sinh một danh sĩ, người ta cũng cứ giả vờ không biết. Và nhà văn chờ đợi cái chết v́ tác phẩm của ḿnh th́ không ai biết. Nhưng cần ǵ ai biết ḿnh sống ra sao, viết trong những hoàn cảnh nào, nhà văn, có vẻ như kiêu ngạo để không lư tới cái hôm nay. Mà đúng thế, nhà văn đă không lư tới cái hôm nay, cũng chẳng thèm lư tới những phán xét ngu xuẩn của thời nay. Trên sầu đạo và ngược ḍng nghịch lũ oan khiên, nhà văn mang tâm sự của con gọng vó, âm thầm bước, âm thầm lội. Và âm thầm đợi chết. Như tôi. Không ai chia xẻ với tôi nỗi sợ hăi cả. Ngày nào đó "thoát chết, bung ra", tôi viết những trang sách ghi lại cảm giác rụng rời của tưởng tượng nỗi chết, cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào, tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim, chắc chắn, tôi vẫn được chiếu cố tận t́nh bởi soi mói của cú vọ, bởi phẩm b́nh của quạ diều. Có phải đó là sự trả nghiệp, theo nhà Phật?

Đặng Xuân Côn chở vợ con lên. Tôi cũng tính xong sổ đời. Thấy chẳng để lại vết tích nào dơ bẩn trên 200 số báo Tuổi Ngọc và suốt 1 5 năm viết văn, làm báo, tôi cam đành đợi chết. Nói cam đành v́ tôi thèm sống, sợ chết. Để cực tả, phải viết: Tôi thèm sống vô cùng. Lúc này tôi mới cảm Tư Mă Thiên và phục Tư Mă Thiên. Than ôi, Tư Mă Thiên chịu nhục h́nh, cố bám lấy cái sống hèn chỉ v́ chưa lo xong Sử kư. "Ta hồ văn chương chi sự thốn tâm thiên cổ Nếu Tư Mă Thiên không chấp nhận h́nh phạt thiến, không vượt lên sự khinh bỉ của thể nhân mắt trắng, không cô đơn những ngày tháng c̣n lại, sẽ muôn đời không có Sử kư của Tư Mă Thiên. Kẻ làm việc cho muôn đời chấp nê chi cái lẽ sống hèn, sống hùng. Những đứa chê bai Tư Mă Thiên đều đă chết như cây cỏ. Chúng nó sống hùng lắm, sống hùng miệng lưỡi mà chẳng có ǵ để lại: Chúng nó chê Tư Mă Thiên sống hèn, sống nhục nhă tội bị thiến, không dám chết giữa pháp trường, nhưng nhờ biết sống hèn, sống nhục, Tư Mă Thiên có Sử kư. Tư Mă Thiên được phục sinh bằng Sử kư. Và bằng Sử kư, Tư Mă Thiên bất tử.

Ông đau vết hoạn lưỡi dao hèn

Từ đó, cung giương một mũi tên

Theo hồn tài tử. tên bay vút

Ngạo nghễ hành tinh Tư Mă Thiên

Những đứa chê ông chết cả rồi

Nhưng ông sống măi như mây trôi

Hai ngh́n năm ngỡ chùng gang tấc

Mảnh đất oan này lại có tôi...

Sử kư và Tư Mă Thiên đă đủ soi sáng thân phận nhà văn và tác phẩm hoàn thành bất chấp nghịch cảnh, bất chấp mọi hoàn cảnh, bất chấp cung cách sống, bất chấp cảnh ngộ sống chưa? Có lẽ, với ngự sử vô học, với "sa đích phê b́nh văn nghệ rẻ tiền", cần được giáo dục thêm nữa. Tôi không thừa th́ giờ nói với hai hạng người vừa kể. Tôi tâm sự với nhà văn. Nhà văn có sức mạnh tuyệt luân. Nhà văn là con người như mọi con người. Y cũng phải chết thôi. Có thểà, y sẽ bị chết theo cung cách Gandhi đă bị chết. Nhưng tác phẩm của y không bao giờ chết. Y có thể chịu h́nh phạt nhục, chịu phán xét ngu xuẩn như Tư Mă Thiên, như Gheorghiu. Chính sự chịu nhục sống hèn (hiểu theo nghĩa bần tiện của thế nhân mặt trắng) của nhà văn đă làm tác phẩm của y rực rỡ và tác phẩm của y phục sinh y sau cái chết. Nhà văn, có thể, chết thảm như Khái Hưng và Lan Khai. Cộng sản đă nhận ch́m Khái Hưng, Lan Khai dưới nước mà không thể nhận ch́m tác phẩm của tác giả Hồn bướm mơ tiên, Dọc đường gió bụi, của tác giả Cái hột mận, Lầm than... dưới nước. Cộng sản kiêu ngạo nhất loài người, đầy đủ quyền uy và biết chơi bạo lực mà vẫn ngậm ngùi sợ hăi văn chương - tư tưởng: "Cơ sở giai cấp của bọn phá hoại c̣n tồn tại lâu dài trong xă hội ta. Khi đă hết giai cấp, thù địch vẫn c̣n. V́ tư tưởng của giai cấp có sức sống dai hơn giai cấp tính ra nó"° . Nghĩ cũng tội nghiệp cho đám lănh tụ ễnh ương của quyền uy ảo tưởng và đồ đệ cứ hăm hở đ̣i hủy diệt nhà văn và tư tưởng của nhà văn. Phải nói rơ rệt là nhà văn cố gắng soi sáng những mê muội của thời đại ḿnh. Thời đại mê sảng, cố t́nh mê sảng th́ người đời sau sẽ làm công việc thương người đời xưa. Nguyễn Du c̣n ngờ vực, 300 năm sau, có ai hiểu ta chăng, th́ nhà văn xá chi những hạch hỏi vô lư, vô nghĩa, vô học, vô ơn của cóc nhái thời thượng. Song, cần thiết, nhà văn phải nhận ra ḿnh, phải nhận ra sức mạnh tuyệt luân của ḿnh và phải biết xử dụng, dám xử dụng sức mạnh đó để chế ngự bạo lực đến từ bất cứ phía nào, ở bất cứ nơi đâu, dẫu sự chế ngự có mang tới những cay đắng nghiệt ngă, những oan khiên ứa máu, những ngộ nhận nứt tim. Và cả nỗi chết. Và luôn sự thèm sống hèn đểà thoát chết. Tôi nghĩ rằng cái cứu cánh biện minh cho cung cách sống chết của nhà văn là tác phẩm y để lại cho đời sống. Trong bộ cassette tưởng mộ Victor Hugo, một vị viện sĩ của Viện Hàn Lâm Pháp quốc đă múa một tuyệt chiêu: "Nước Pháp không được phép nói tha thứ những bê bối trong cuộc đời của Victor Hugo mà phải có bổn phận chấp nhận những bê bối ấy. V́ sự nghiệp văn chương của Hugo đă làm rạng rỡ cho đất nước Pháp và dân tộc Pháp."

Tôi không ở nước Pháp, không là nhà văn Pháp. Georges Simenon viết nhiều, viết khỏe, chẳng cần phải quan tâm văn chương, tư tưởng của Simenon, Jean-paul Sartre đă vinh tôn khả năng sáng tạo của Simenon. Tôi cũng viết nhiều, viết khỏe, th́ chỉ nghe Sài g̣n dè bỉu và đợi Hà Nội vào tàn sát. Và tôi thèm sống hèn. Để hy vọng có một Sử kư như Tư Mă Thiên.

10 giờ 30. Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Đặng Xuân Côn mở radio thật lớn. Tôi lặng người trong giọng nói cơm nguội của Big Minh. Tôi mất miền Nam từ giây phút này.

- Tắt radio đi, Côn?

- Đểà nghe xem c̣n tin tức ǵ nữa.

- Hết rồi.

- Chưa.

-Tôi bảo hết rồi. Tắt đi?

Tôi nh́n Côn:

- Có thể ông thoát biển máu. Vợ con tôi cũng có thể thoát biển máu. Tôi th́ khó thoát.

Côn an ủi tôi:

- Mày sẽ thoát.

Tôi lắc đầu:

- Khó lắm. Tôi biết tôi. Cộng sản biết tôi. Những kẻ muốn làm tốt đẹp cho xă hội miền Nam sẽ bị quăng xuống biển máu. Nếu ông thoát...

Côn chớp mắt:

- Tao hiểu tao sẽ phải làm ǵ cho mày.

- Cho vợ con tôi thôi.

-Mày muốn tao sẽ làm ǵ?

- Đưa vợ con tôi rời khỏi Việt Nam.

Im lặng. Hai chúng tôi nh́n nhau, nước mắt ứa ra. Trong pḥng ngủ, hai người đàn bà và những đứa trẻ con khóc nức nở. Tôi biết, cả Sài g̣n đang khóc....

NẾU CUỘN BĂNG NHỰA GHI LỆNH ĐẦU HÀNG CỦA DƯƠNG VĂN MINH THẤT LẠC

Mỗi biến cổ lịch sử xảy ra thường kèm theo những chuyện ngoài lề. Và những chuyện ngoài lề được truyền kể, được thêu dệt thành huyền thoại. Một trong những chuyện ngoài lề dưới đây không phải là huyền thoại. Mà là chuyện ở quán cà-phê vỉa hè sau ngày 30-4-1975. Người ta thuật cho nhau nghe, người ta luận bàn và người ta không thèm quan tâm đến cái vô lư của câu chuyện.

10 giờ, Phủ tổng thống gọi cho Đài phát thanh sài g̣n, yêu cầu gửi gấp sang một chuyên viên ghi âm. Anh chuyên viên đem máy móc, băng nhựa đến tŕnh diện ông Giám Đốc Nha báo chí Phủ tổng thống. Anh vào phủ bằng lối góc ngă tư Nguyễn Du - Thủ Khoa Huân - Huyền Trân Công Chúa. Giám đốc Nha báo chí hướng dẫn anh chuyên viên tới pḥng họp của Tổng thống. Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng cộng sản tại đây. Kẻ viết lệnh đầu hàng là Lư Quư Chung, Tổng trưởng Thông tin của nội các Vũ văn Mẫu, "danh sĩ" của môn phái Hoa Lan. Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng xong, anh chuyên viên Đài phát thanh đem băng về đài. Anh ta lái chiếc Honda 50. Cuốn băng lịch sử được giao cho pḥng phát thanh và được ra lệnh phát vào đúng 10 giờ 30 phút.

Câu chuyện vắn tắt trên đây ví như Kinh Xuân Thu của Khổng Tử. Các vị Đông Lai, các Mao Tôn Cương "phản động" đă "bác nghị", đă "lời bàn" sôi nối.

- Tôi không tin đại sự lại giản dị thế.

-Dương văn Minh hiểu ǵ đại sự? ông thử nh́n kỹ coi, bọn Minh sún có thằng nào ra cái giống người?

-Tôi nghĩ lệnh đầu hàng trực tiếp truyền thanh.

-Trực tiếp con khỉ! Chúng nó quưnh hét, đâu kịp chuẩn bị. Phải tin tôi, thằng chuyên viên Đài Sài g̣n là bạn tôi.

-Là bạn ông à?

-Ừ! Nó lái Honda "chở" lệnh đầu hàng. Tôi tự hỏi, nếu nó bị đụng xe, chết ngỏm, lịch sử sẽ ra sao? Hoặc nó phẫn nộ, vất cha nó cuốn băng ghi lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, về ngủ với vợ, lịch sử sẽ ra sao?

-Chắc chắn Sài g̣n nổ lớn.

-Nổ lớn, tôi đă mong mỏi. Rốt cuộc, chỉ tại thằng chuyên viên mẫn cán, ngu đần, sợ lệnh lạc mà cộng sản vào Sài g̣n ngon ơ. Tức muốn hộc máu mồm.

- Tôi nghe nói cộng sản đă vô Dinh Độc Lập từ đêm trước, chúng dí súng sau ót Dương văn Minh, bắt Minh đọc lệnh đầu hàng.

- Không có vụ ấy.

Nếu câu chuyện kể trên đúng 80%, nếu anh chuyên viên của Đài phát thanh Sài g̣n bị đụng xe chết giữa đường Thống Nhất, nếu anh chuyên viên quên Dương văn Minh, quên lệnh đầu hàng về ngủ với vợ, tôi tin chắc rằng lịch sử khác đi một chút. Nó cũng sẽ bị sang trang nhưng không đến nỗi sang trong buồn tủi. Sẽ có máu, nhiều máu của Sài g̣n 30-4-1975. Và đó là những ḍng máu cần thiết cho Sài g̣n ngày mai... truyện dài

 

Duyên Anh

Sàig̣n ngày dài nhất

 

 

Chương 5

 

10 giờ 40, mười phút sau lệnh đầu hàng cộng sản của Dương văn Minh, Đặng Xuân Côn và tôi ra vỉa hè trước cửa nh́n Sài g̣n chờ đợi cộng sản vào. Tại sao chưa đánh đă đầu hàng? Tôi nghe rơ câu hỏi nghẹn ngào đó trong những ánh mắt ngơ ngác của người Sài g̣n quanh tôi. Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ. Dân Xóm Lách kéo lên. Lề đường Công Lư, gần nhà tôi đông nghẹt. Dẫu ḷng ngổn ngang bối rối, tôi c̣n chút hạnh phúc trên những khuôn mặt buồn bă của đám dân "vô sản" Xóm Lách. Không một nụ cười. Khó t́m ra niềm hân hoan. Ngay cả những người đă truy nă kỹ thân phận ḿnh, sự nghiệp của ḿnh ṛng ră hai mươi năm Việt Nam cộng ḥa, thấy chẳng dính líu ǵ tới "nợ máu" với cộng sản, cũng hồi hộp v́ "biển máu." Chưa bao giờ tôi thấy, kể từ nhận Sài g̣n làm quê hương, một cảnh tượng Sài g̣n năo nề đến thế. Tôi có cảm tưởng Sài g̣n đang sợ hăi cơ hồ tôi đang sợ hăi, cơ hồ mọi người đang sợ hăi. Xe cộ ngưng chạy. Những gia đ́nh có "máu mặt" rút hết vào nhà. Cổng đóng kín mít. Cửa sổ gác cao he hé mở. Ai đă nh́n tôi qua ô cửa kính mắt lệ mờ?

Tôi sinh ra ở miền Bắc, thị xă nhỏ bé, êm đềm Thái B́nh. ấu thơ của tôi, trải dọc theo hàng cây hồi thấp và vương vấn cùng khắp cầu Bo. Niên thiếu của tôi lăng đăng vùng trời Hà Nội. Tôi khôn lớn ở Sài g̣n. Sài g̣n cho tôi những bước xuống đời cay đắng để tôi làm cuộc đời tôi Sài g̣n cho tôi t́nh yêu, cho tôi thi ca, cho tôi tiểu thuyết. Công sinh không nặng bằng công dưỡng. Sài g̣n đă nuôi dưỡng tôi. Sài g̣n là mẹ tôi. Mẹ Sài g̣n săn sóc tôi hai mươi năm. Tôi đă làm ǵ cho Sài g̣n? Đă làm ǵ, vẫn chưa đủ, vẫn chỉ mới là cái hữu hạn trong cái vô hạn. Bây giờ, đứa con phóng đăng ôm gh́ mẹ ḿnh bằng đôi tay rời ră, nước mắt ṛng ṛng. Đứa con bất lực, đứa con hèn hạ, đứa con khiếp nhược, đứa con mải rong chơi nỡ để mẹ ḿnh lạc vào tay thù. Mà chỉ biết khóc. Mà chỉ rên rỉ Mà chỉ luyến tiếc hàng me xanh, ghế đá công viên và những cuộc t́nh phù phiếm. Tôi hiểu những giọt nước mắt của tôi vô nghĩa, chẳng dám khóc, chẳng thiết khóc, mà mắt tôi cứ căng mọng và lệ cứ rơi. Tôi đă biết khóc v́ Sài g̣n, v́ một thành phố kỷ niệm.

Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm: 19 người. Mười chín người lính, mười chín người chiến sĩ, đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gầm, lầm lũi bước. Tối hôm qua, tôi đă thấy quân ta ngang qua đây. Quân ta và xe tăng. H́nh ảnh người lính sửa xích tăng đă in vào tiềm thức tôi. Tối hôm qua, tôi đă thấy tướng Vĩnh Lộc chủ chiến. 10 giờ 30 hôm nay, tôi nghe Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Và, sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh, tôi lặng người ngắm toán quân chiến bại. Cảm giác đầu tiên của tôi là ngậm ngùi. Tôi nhớ một câu thơ của Corneille: "ô cruel souvenir de ma gloire passée" mà Thế Lữ cảm hứng viết: "Than ôi, thời oanh liệt nay c̣n đâu? Thời oanh liệt đâu? Những chiến tích rực rỡ dội vang sông núi của quân lực Việt Nam cộng ḥa, những chiến tích làm bàng hoàng thế giới, làm vỡ mộng xâm lược của cộng sản, nay c̣n đâu? Tôi không bao giờ quên người Do Thái đă bầy tỏ công khai với nhân loại rằng, họ mơ thành người An Lộc. Tôi vốn không ưa các chế độ, các nhà lănh đạo, một số tướng lănh bất tài vô học, tham nhũng của miền Nam sau 1963, nhưng, luôn luôn, tôi yêu mến và cảm phục quân đội. Chế độ đă xóa bỏ chế độ, lănh đạo đă hạ bệ lănh đạo, quân đội tồn tại như quê hương. Bởi v́ quân đội bảo vệ quê hương. Quân đội không phải là công cụ riêng của chế độ, của lănh tụ. Một số tướng lănh hèn mạt, v́ quyền lợi cá nhân, v́ địa vị khốn kiếp, đă bán ḿnh cho chế độ, cho lănh tụ để bán xương máu của quân đội và làm nhạt nḥa cái kiêu sa của người lính. Kẻ bán xương máu của lính nhiều nhất, kẻ dùng quân đội làm thang lưng leo lên danh vọng là Nguyễn văn Thiệu.

Bây giờ, Thiệu đă bỏ đi. Cao văn Viên đă bỏ đi. Vô số tướng lănh đă đào ngũ chạy trốn. Dương văn Minh đă đầu hàng. Quân đội tiếp tục chiến đấu. Quân đội sẽ tiếp tục chiến đấu, nếu Dương văn Minh không hám cái hư vị "tổng thống miền Nam trung lập" đến nỗi thỏa hiệp với cộng sản. Tham vọng bằn tiện của Dương văn Minh c̣n là tham vọng của vài ông tướng, vài ông nghi sĩ, vài ông dân biểu "nhất định" ở lại làm Tổng trưởng. Bùi Tường Huân là một thí dụ. Những người khác đă đi học tập cải tạo, đă vượt biên sang âu châu, Mỹ châu th́ xin miễn kể tên, sợ mất ép-phê chống cộng của quư vị ấy.

Thế giới đă thiếu sự công b́nh tối thiểu để khắc nghiệt lên án sự tan hàng bệ rạc của quân đội ta. Họ không thèm quan tâm tới sự tôn trọng kỷ luật tối đa của quân lực Việt Nam cộng ḥa. Quân đội không tuân lệnh đầu hàng của Dương văn Minh mà tuân lệnh đầu hàng của vị Tổng thống nước Việt Nam cộng ḥa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng ḥa. Quân đội nước nào cũng thế cả, trừ trường hợp người ta làm cách mạng, làm đảo chính lật đổ Tổng thống. Tôi yêu quân đội của đất nước tôi. Tôi không xuẩn ngốc phán xét quân đội. Tôi có bổn phận ngưỡng mộ quân đội quốc gia. Và tôi đau đớn nh́n quân đội của tôi đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gằm, lầm lùi bước. ông Nguyễn văn Thiệu không chứng kiến thảm cảnh này. Các ông tướng đào ngũ không chứng kiến thảm cảnh này. Tôi nghĩ các ông ấy chẳng nên nói về quân đội, nhắc đến quân đội nữa.

Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ Xóm Lách, chạy lên đuổi theo toán quân, (tôi quả quyết quân đội ta không thua trận. Quân đội ta măi măi chiến thắng, măi măi anh dũng. Chế độ Nguyễn văn Thiệu thua trận, các ông tướng đào ngũ thua trận và chính sách Mỹ ở Việt Nam thua trận). Bà mẹ già ôm chặt lấy một người lính:

- Mày đi đâu nữa con? Sao không về nhà? Hết chiến tranh rồi, ḥa b́nh rồi. Về thôi, con?

Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ ḿnh ra:

- Con không thể về được. '

Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:

- Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.

Người lính lắc đầu:

- Con không thể về được.

Toán quân đă băng qua ngă tư Công Lư - Yên Đổ. Bà mẹ vẫn níu chặt người con chiến sĩ lại:

- Mày đă đi đánh nhau bao lâu nay, có được hưởng ǵ đâu?

Người lính nghẹn ngào:

-Con không thể nào bỏ các bạn con.

Bà mẹ rên rỉ:

-Bỏ hết, bỏ hết đi con, về với má, không sao đâu.

Người lính gỡ mạnh tay mẹ ḿnh ra:

- Má về đi, con phải theo các bạn con.

Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến hữu. Bà mẹ đứng bên đường mắt đẫm lệ, nh́n theo con ḿnh...

- Rồi người lính có về không?

Đó là câu hỏi của kư giả Patrick Sabatier của nhật báo La libération đă đến tận nhà tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số báo đặc biệt cho ngày 30-4-1985. Tôi đă kể câu chuyện trên nhằm trả lời câu hỏi "Điều ǵ c̣n làm ông nhớ Sài g̣n nhất"?

- Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm tù đầy trở về, tôi hỏi thăm người Xóm Lách, được rơ là bà mẹ c̣n sống, và người con vẫn biệt tăm...

- Anh ta đi đâu?

- Tôi nghĩ rằng anh ta đi làm cuộc chiến đấu mới, không cần viện trợ Mỹ, cố vấn Mỹ và lính Mỹ. Dân tộc tôi cần thiết cuộc chiến đấu mới mẻ này.

- Tại sao?

- Nó mới đích thực là cuộc chiến đấu của dân tộc tôi nhằm tiêu diệt chế độ cộng sản, chủ nghĩa cộng sản để giành lại tự do, dân chủ, độc lập cho Việt Nam. Cuộc chiến đấu mới của dân tộc tôi loại bỏ hết tay sai của Mỹ, của ngoại bang. Như thể, chúng tôi gọi là một cuộc chiến đấu có chính nghĩa, tuy cô đơn, lăng mạn nhưng tổ tiên chúng tôi đă lăng mạn, cô đơn chiến đấu.

-Rất đẹp, rất cao quư.

- Ông ủng hộ cuộc chiến đấu mới của chúng tôi chứ?

-Vâng, tôi hết ḷng.

Số báo đặc biệt của La libération, một tờ báo khuynh tả, xuất bản ngày 30-4-1985 viết về Việt Nam đă như gáo nước lạnh hắt vào mặt đảng cộng sản và nhà nước xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Số báo này có đăng thêm một đoạn trong bài thơ Sài g̣n ra đường của tôi trên trang nhất.

19 người lính đi tới đâu, đi về đâu, tôi không biết. H́nh ảnh bi thảm của họ khiến ḷng tôi se lại nhưng cũng sưởi ấm tâm hồn tôi. ít ra, tôi c̣n được tự hào là người Sài g̣n, người miền Nam. 19 người lính quốc gia đă anh dũng chiến đấu cho tới phút giây nghe lệnh đầu hàng. Vẫn 19 người lính này, biểu tượng của quân lực Việt Nam cộng ḥa bất khuất, tháo bỏ quần áo Mỹ, giầy nón Mỹ, tiếp tục chiến đấu sau lệnh đầu hàng. Tôi đă thèm sống hèn, càng thèm sống hèn hơn. Để nói lên được cái hào hùng của người lính, cái tâm sự năo nề của người lính, những con người không được phép chiến thắng, những con người bị tước đoạt quyền chiến thắng cộng sản. Thế giới đă không có hân hạnh nh́n 19 chiến sĩ Việt Nam. Thế giới đă không có hân hạnh nghe người lính giă từ mẹ ḿnh lên đường nhập cuộc chiến đấu mới. Thế giới, cái thế giới mù ḷa, điếc, ngọng đă bảo chúng ta thua trận đă miệt thị quân đội chúng ta tan hàng bệ rạc. Tôi đợi, tôi đă đợi, tôi đang đợi những kẻ tự nhận ḿnh sống hùng viết những trang tâm sự của người lính sau 30-4-1975.

Thú thật, tôi đă chai lỳ từ dạo cắm sừng nhọn vào đầu đề đương đầu với cuộc đời và người đời. Thế mà tôi c̣n khóc được hôm nay, khóc như kẻ mau nước mắt nhất. Giống hệt người mẹ anh lính, tôi cũng mắt đẫm lệ nh́n theo anh ta.

- Buồn quá hả, Long? Côn hỏi.

-Buồn hơn một chuyện t́nh buồn trong tiểu thuyết. Tôi nói.

-Nếu mày c̣n sống và có cơ hội viết nhỉ?

- Ở đâu?

-Mỹ.

- Ông mơ mộng hơn cả tôi rồi.

- Sống phút nào mơ mộng phút ấy.

11 giờ, đường Công Lư nườm nượp những người đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun cắm cúi rảo bước. Nhiều người chạy. Đó là lính, là sĩ quan của chúng ta. Họ đă liệng súng đạn. Họ về nhà ḿnh, nhà thân nhân của ḿnh. Khuôn mặt họ, sự sợ hăi pha trộn sự phẫn nộ. Dân chúng hai bên đường im lặng. Không một nụ cười rè bỉu. Không một ánh mắt khinh khi. Người ta đă thù ghét chế độ, thù ghét Nguyễn văn Thiệu và tập đoàn thống tri tôi mọi cùng đám tướng lănh dốt nát, hống hách nhưng chẳng bao giờ người ta thù ghét quân đội° . Chỉ thiếu những tiếng hoan hô nồng nhiệt, những tràng pháo tay bất tận như những lần quân ta chiến thắng sau mỗi chiến dịch trở về thành phố. Tiếng nhạc quân hành, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay, lúc này, là tiếng vỡ của trái tim, tiếng nứt của mạch máu, tiếng rơi của nước mắt. Lúc này, cả thành phố thấy ḿnh chiến bại, cả thành phố chia xẻ nỗi đau chiến bại, bởi v́, những kẻ đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun là anh, là chồng, là cháu, là em của người Sài g̣n. Của Sài g̣n. Có phải khi người ta đă quá sợ chết th́ người ta hết biết ḿnh sợ chết? Tôi bỗng quên nỗi sợ chết của tôi. Hoặc là tôi đă chết rồi, linh hồn tôi đậu trên chân đất của người lính t́m về nhà ḿnh. Người lính ấy, hai mươi năm ṛng ră đứng giữa biên giới sống chết, hai mươi năm chưa một lần cúi đầu, nửa tiếng đồng hồ trước vẫn ngẩng mặt và, lúc này... Tôi hết biết ḿnh sợ chết. Hơn cả thế, tôi biết ḿnh nên sống hèn, không nên sống hùng để cùng bị chết hèn lăng nhách.

-Côn!

-Hả?

-Ông nhớ sau hôm đảo chính 1945 chứ?

-Nhớ.

-Thực dân Pháp đă chạy dài, đă lột bỏ quần áo, giày vớ, đă chân đất, đội nón mê cắm cúi bước. Đă bị phát xít Nhật truy lùng.

- Chúng ta đứng bên kia cầu Bo nh́n các ông Tây kéo xe ḅ chở đất, các bà Đầm khóc sướt mướt và phát-xít Nhật cười hoan hỉ.

-A, chúng ta đă vỡ lẽ chiến bại và chiến thắng từ năm mười tuổi.

Chúng tôi trở vào nhà, đóng cổng kỹ lưỡng. Chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc máy.

- Alô, alô, tôi muốn nói chuyện với Duyên Anh.

-Chính tôi.

-Phạm Lê Phan đây...

Phạm Lê Phan, nhà văn, nhà thơ, tác giả nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các tạp chí Bách Khoa. Chi Đạo từ 1960 là bút hiệu của thượng sĩ Phạm văn Kiệm, phục vụ tại Cục tâm lư chiến. Anh ta đă viết thi phẩm Chiến ca mùa hè mà Phạm Duy phổ nhạc. Chiến ca mùa hè như những trang quân sử bằng thơ ghi lại mùa hè đỏ lửa.

- Mày chạy không thoát à?

-Ừ.

- Tao gọi bạn bè, chẳng c̣n thằng nào. May quá, c̣n mày.

- May cái con c...? Mày chưa về nhà ư?

-Về hả? Tao là thượng sĩ nhưng là chiến sĩ, hơn cả, tao là kẻ sĩ. Tao đại diện quân lực Việt Nam cộng ḥa chuẩn bi tiếp xúc với Việt cộng.

-Cục mày hết người... lớn rồi à?

- C̣n mỗi ḿnh tao. Tao là tân Cục trưởng. Cục trưởng cút lâu rồi. Cục phó Phan Trọng Thiện vừa về... nhà.

- Mày cũng nên về đi.

-Tại sao tao lại phải về? Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè. Tao thủ trái lựu đạn, ngồi tại văn pḥng Cục trưởng Tâm lư chiến thuộc Tổng cục chiến tranh chính trị của quân lực Việt Nam cộng ḥa. Chai whisky trên bàn vơi quá nửa rồi. ông tu chất cay. Bọn nó vào mà tử tế, ông giao Cục, dở tṛ hỗn láo, ông cho lựu đạn nổ... Tao sẽ gọi mày sau. Thôi nhé!

Người lính văn nghệ, thượng sĩ Phạm Lê Phan không muốn cộng sản vào Cục tâm lư chiến như vào nhà hoang. Anh ta ngồi đợi kẻ thù tới tiếp thu. Không c̣n cấp bậc và huy chương nào tưởng thưởng anh ta cả. Anh ta có quyền về nhà, được phép về nhà ḿnh mà không ai dám kết tội anh ta đào ngũ hèn nhát. Nhưng mà "lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè." Anh ta kiêu hănh nói "tại sao tao phải trở về"?

Sẽ chẳng một ai đủ liêm sỉ bắt chước Phạm Lê Phan tự vấn ḷng ḿnh "Tại sao tôi lại đào ngũ”. Tôi ngồi hút thuốc, chờ điện thoại của Cục trưởng Tâm lư chiến: Thượng sĩ Phạm văn Kiệm.

 

  1. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  2. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  3. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  4. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Việt Thức

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

ThếGiới

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng