Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phê pháp phép ngụy biện.

H́nh thức – Biểu hiện – Nguyên nhân.

 

Phần I

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Một xă hội dân chủ là một xă hội có sự đối thoại. Một xă hội muốn dân chủ phải là một xă hội có sự đối thoại. Một xă hội càng dân chủ th́ sự đối thoại càng có vai tṛ quan trọng trong xă hội đó. Sự đối thoại này tồn tại ở mọi nơi, mọi góc độ, mọi phạm vi của xă hội. Sự bao phủ của tính đối thoại trải dài trên mọi chủ đề, mọi mối quan hệ xă hội – đối thoại từ việc giữa những người dân với nhau đến giữa những nhà lănh đạo hay những học giả uyên bác với nhau thậm chí giữa những người dân b́nh dân nhất với những người uyên bác nhất. V́ chỉ thông qua đối thoại, con người mới có thể tŕnh bày và tiếp thu những ḍng tư tưởng khác nhau để cùng nhau loại bỏ sự bảo thủ hay lạc hậu hay tính không phù hợp của tư tưởng cũng như cùng nhau hoàn thiện tính thời đại, tính thời đại của tư tưởng nào đó. Sự đối thoại này có thể là một cuộc tranh luận một mất một c̣n dẫn đến chỉ có một và chỉ một ḍng tư tưởng có thể tồn tại; cũng có thể là một cuộc đối thoại giữa những ḍng tư tưởng để t́m ra điểm chung nhất giữa chúng, thừa nhận sự hợp lí cần thiết trong mỗi ḍng tư tưởng và tư tưởng mới là sự hợp lưu giữa nhiều ḍng tư tưởng với nhau – tức là sự tồn tại mỗi những ḍng tư tưởng vẫn c̣n hiện diện trong tư tưởng mới. Nó vừa đảm bảo tính phát triển biện chứng của tự nhiên, nó vừa đảm bảo quyền con người cơ bản của bất ḱ con người nào trong xă hội.

 

Việt Nam ta đang trong quá tŕnh dân chủ hóa th́ việc phát triển sự đối thoại này càng quan trọng rất nhiều trong giai đoạn – thời đại – này. Trong hiện thực, rơ ràng, Việt Nam ta đang thực hiện tính chất dân chủ hóa rộng khắp. Chưa bao giờ trong một giai đoạn lịch sử nào trước đây, báo chí nước nhà lại có thể can thiệp ở nhiều lĩnh vực trong đời sống như giai đoạn hiện nay. Chưa bao giờ trong một khoảng lịch sử nào, tiếng nói của người dân lại có thể phủ khắp trong các phương tiện thông tin đại chúng như hiện nay.  Một mặt nó thể hiện về sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, một mặt nó cho thấy sự nỗ lực dân chủ hóa của Việt Nam ta trong việc tiếp nhận và thu nhận tiếng nói của mọi tầng lớp trong xă hội.

 

Thế nhưng, như một tất yếu. Trong sự phát triển của lịch sử đối thoại, không phải cuộc đối thoại nào cũng có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử mang tính tự nhiên này. Bên cạnh 1 cuộc đối thoại lí tưởng – nơi tranh luận hay đối thoại đảm bảo tính khoa học và logic của các định đề, luận đề, luận điểm – th́ vẫn tồn tại những cuộc đối thoại hay tranh luận phi logic hay phi khoa học mà lịch sử đă ghi nhận lại như những tư tưởng ngụy biện. Thời cổ đại tây phương, lịch sử từng biết đến Protagoras hay Gorgias hay Prodicus; thời cổ đại đông phương th́ lịch sử đă chứng kiến sự ngụy biện của Huệ Thi hay Công Tôn Long thời Triệu. Thời hiện đại ngày nay, khi phương tiện truyền thông đại chúng phát triển, một mặt đă khiến các cuộc đối thoại mang tính rộng mở và đa chiều hơn, một mặt cũng đă lộ ra những sự ngụy biện đến từ không chỉ là những người dân b́nh thường mà đến cả những nhà nghiên cứu hay những nhà khoa học nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ phận nghiên cứu của nhà nước.

 

Đề tài này của tác giả được làm nhằm mục đích vạch ra được sự ngụy biện ẩn chứa trong các bài chính luận hay phát biểu khoác áo khoa học, nhưng thực chất, là ngụy biện. Từ đó, để mọi người có thể nhận ra những phép ngụy biện này để làm cho những cuộc tranh luận mang tính khoa học và logic hơn, làm cho chất lượng mỗi cuộc đối thoại được nâng cao hơn, và gián tiếp góp phần cho sự dân chủ hay sự phát triển của nhà nước ngày một vững mạnh hơn.

 

Phần II

 I.  Ngụy biện và cấu trúc của một mệnh đề logic:

 

Ngụy biện là ǵ?

 

Cho đến thời điểm hiện nay, thuật ngữ ngụy biện vẫn đang được hiểu và sử dụng với nhiều nghĩa và mục đích khác nhau. Trong “ Nhập môn logic học” của TS. Phạm Đ́nh Nghiệm th́ tác giả khái niệm thuật ngữ ngụy biện là “sự cố ư vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mục đích đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cái sai là đúng, cái đúng là sai”. C̣n trong tiếng Hy Lạp, ngụy biện là “Πλάνη” được hiểu như là một cái lỗi – ở đây là lỗi trong thao tác tư duy. C̣n trong tiếng Việt, Ngụy tức là “giả dối”, Biện hiểu theo nghĩa “tranh biện”, “ biện giải” tức là quá tŕnh giải thích, chứng minh – biện luận – cho một vấn đề. Ghép hai từ trên ta hiểu nôm na ngụy biện tức là sự biện luận giả dối.

 

Thời Socrates, từ ngụy biện gán cho những nhà ngụy biện với tính chất khinh bỉ những người dạy học lấy tiền chứ không nhằm khai minh như Socrates hay Platon, và v́ thế, thay v́ tập trung con người vào lí giải khoa học vào thế giới, các nhà ngụy biện Hy Lạp cổ ( Sophist) lại dạy cho các môn đệ sự dối trá, quanh co, và những mẹo vặt trong hùng biện để giành phần thắng về phía ḿnh. [1]

 

Tổng kết các khái niệm nhiều tác giả đă đề cập, tác giả thống nhất sử dụng thuật ngữ ngụy biện là sự phi logic trong lí luận hay suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong trường hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ. Giới triết học Tây phương đă bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá tŕnh làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy biện. Kể từ Aristotle, cũng đă có khá nhiều nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, hay S. Morris Engel cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.

 

Như vậy, ngụy biện luôn là một vấn đề của logic học, đó là vấn đề loại bỏ những suy luận hay diễn giải phi logic nhằm hướng sự minh triết, sự chân thực trong tư duy.

 

2. Cấu trúc một mệnh đề logic:

 

Xét những yếu tố ảnh hưởng đến tính logic hay độ chân thật của một bài luận chúng ta có yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong.

 

Yếu tố bên ngoài là sự ảnh hưởng từ người nghe, người theo dơi, gọi chung là đám đông. Yếu tố bên trong trước hết  là chủ thể và khách thể của một bài luận hay suy luận triết học

 

Chủ thể chính là người sở hữu sự suy luận, ở đây hiểu theo nghĩa hẹp là người tham gia cuộc tranh luận.

 

Khách thể của cuộc tranh luận hay suy luận triết học là cấu trúc nó

 

Cấu trúc của một bài luận bao gồm: luận cứ, luận điểm, luận đề và luận chứng.

 

Luận cứ là các chứng cứ mà người diễn giải dùng để chứng minh luận điểm của ḿnh đưa ra.

 

Luận điểm là những ư chính là mà người diễn giải dùng để làm rơ những điểm mà luận đề yêu cầu.

 

Luận đề hiểu theo nghĩa chung nhất là đề bài hay đề tài tranh luận, hay là những câu hỏi mang tính suy tư triết học cần sự giải thích hay chứng minh.

 

Luận chứng là quá tŕnh làm rơ luận đề đă được đưa ra, tức là nói khái quát nhất: Luận chứng là quá tŕnh dùng luận cứ chân thực để chứng minh tính chân thực những luận điểm nhằm giải thích, làm rơ luận đề.

 

Như vậy, tính phi logic có thể can thiệp vào những yếu tố bên ngoài của việc luận chứng, vào các yếu tố luận cứ, luận điểm, luận đề và cả sự luận chứng để làm sai lệch tính chân thực đang cần đạt tới.

 

[1] Đọc thêm: Bùi Văn Nam Sơn, Protagoras và khai minh Hy Lạp, Sài g̣n tiếp thị Online, 14.07.2010

 

Phần III

II. Các h́nh thức ngụy biện

 

1.1. Sự ngụy biện từ yếu tố bên ngoài:

 

1.1.1. Lợi dung sự đồng t́nh của đám đông:

 

Kiểu ngụy biện này sử dụng sự ủng hộ của đám đông làm chân lư cho cuộc tranh luận. Ví dụ: A cho rằng uống  cà phê sẽ giúp cho việc sáng tạo, B th́ không. A chứng minh bằng việc nhiều người đă đồng ư rằng ( kể cả nhà sản xuất cũng đồng ư rằng) cà phê giúp cho việc sáng tạo nên điều này đúng. Đây là sự ngụy biện v́ thay v́ chứng minh bằng cách chỉ ra các yếu tố khoa học rằng các chất trong cà phê giúp cho năo thăng hoa sáng tạo th́ A đă dùng đám đông làm luận cứ để chứng minh cho điều ḿnh nói.

 

1.1.2. Lợi dụng cảm tính đám đông:

 

Tương tự sự lợi dụng về sự đồng t́nh của đám đông, phương pháp ngụy biện này sử dùng ḷng trắc ẩn hay cảm tính của con người để đánh tráo tính logic của chân lư. Sở dĩ xếp nó vào nhóm đám đông v́ ḷng trắc ẩn hay sự cảm tính mang tính cộng hưởng từ dân tộc tức từ số đông là nhiều. Ví dụ: A phạm tội giết người. B là luật sư của A, thay v́ chứng minh A không thể giết người th́ B lại dùng lí lẽ: “ A mắc bệnh tim bẩm sinh, nếu ṭa tuyên phạt A có tội, A sẽ dễ xúc động và rất nguy hiểm. Xin ṭa đừng để một người nào chết thêm nữa”

 

1.1.3. Lợi dụng quyền lực:

 

Loại ngụy biện này dựa trên một quyền lực nhất định tác động lên buổi đối thoại. Nó có thể đến từ một nhóm người ( số đông) có thể đến từ một người ( nhưng một người này là đại diện cho một nhóm người nắm giữ quyền lực).

 

Ví dụ: Khi lớp học đang tranh luận về vấn đề bài học, một sinh viên nói rằng: “ Những ǵ các bạn đang bàn đi ngược lại chính sách của nhà nước, điều đó là sai trái, các bạn có thể bị tù đấy.” Trong ví dụ này, người sinh viên đă lợi dụng quyền lực nhà nước tác động đến mục đích đúng sai khoa học của buổi tranh luận.

 

Cũng trong nghĩa quyền lực này, ta có khái niệm nhỏ về tính quyền lực của truyền thống ( hiểu rộng th́ truyền thống là thói quen). Ví dụ: Công ty rượu Hà Nội quảng cáo: Chúng ta khi uống rượu hăy uống rượu Hà Nội v́ rượu của chúng tôi sản xuất theo công nghệ truyền thống. Người Việt th́ phải lưu giữ truyền thống Việt, v́ vậy hăy uống rượu của chúng tôi để ǵn giữ truyền thống Việt.

 

1.2. Sự ngụy biện từ yếu tố bên trong:

 

1.2.1. Yếu tố chủ thể của tranh luận:

 

1.2.1.1. Sự ngụy biện bằng việc công kích cá nhân:

 

Lối ngụy biện này sử dụng việc chỉ trích tư cách cá nhân người tranh biện thay v́ chỉ trích các luận điểm hay luận cứ hay phương pháp luận chứng của người tranh biện. Ngụy biện này thường được sử dụng và cũng có nhiều nhầm lẫn trong tranh luận hằng ngày.

 

Ví dụ: A và B đang tranh luận triết học. A là sinh viên triết học c̣n B th́ không. A nói rằng: “ V́ anh không học triết học nên những ǵ anh nói không có giá trị.” Trong trường hợp này, A đă ngụy biện v́ chuyện học triết không ảnh hưởng đến giá trị chân lư của tranh căi triết học. V́ tính đặc thù của triết học chủ yếu là sự quan sát và chiêm nghiệm chứ không phải được đào tạo bài bản hay không.

 

Nhưng sư dễ nhầm lẫn trong việc ngụy biện bằng việc công kích cá nhân rất dễ diễn ra. Ví dụ: A và B đang bàn về vấn đề kinh tế vĩ mô. A là sinh viên kinh tế, B là sinh viên nông nghiệp. A nói: “ B không học về kinh tế th́ không có kiến thức kinh tế để bàn luận đúng sai.”, th́ trường hợp này không là ngụy biện, v́ tính đặc thù của kinh tế là phải học mới biết được cụ thể kiến thức của ḿnh đúng hay sai, phù  hợp hay không phù hợp.

 

Trong kho tàng văn học dân gian Việt, cũng đă có thành ngữ: “ Danh chính ngôn thuận” cũng nhằm vào lí giải vấn đề trên. Nói tổng quát lại, chỉ trích cá nhân là ngụy biện khi tư cách cá nhân lúc bị chỉ trích ấy không dính tới giá trị chân lư của luận điểm của người bị chỉ trích.

 

1.2.1.2.                        Sự ngụy biện dựa trên uy tín cá nhân:

 

Lối ngụy biện này là biểu hiện tả khuynh của việc “ danh chính ngôn thuận”, phép ngụy biện này có nghĩa là khi tham gia biện luận, người biện luận dùng vị thế cá nhân của ḿnh để đảm bảo tính chân lí của luận điểm chứ không phải tính logic của luận điểm.

 

Ví dụ: A và B tham gia tranh căi về một vấn đề. A là Tiến Sĩ, B là nghiên cứu sinh. Thay v́ trong lí luận để chứng minh ḿnh đúng th́ A lại dùng học vị của ḿnh để nói lí luận ḿnh đúng so với B. Giữa vấn đề học vị và vấn đề chân lí của luận điểm không có điểm gắn kết logic nên A đang dùng uy tín cá nhân của bản thân để ngụy biện.

 

1.2.1.3. Sự ngụy biện dựa trên tác phong chủ thể:

 

Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử v́ ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng ǵ đến vấn đề đang bàn thảo.

 

1.2.1.4. Sự ngụy biện “anh cũng vậy”.

 

Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi v́ người đối nghịch đă làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”

 

1.2.1.5. Sự ngụy biện khả năng chủ thể:

 

Sự ngụy biện này khá phức tạp về h́nh thức, nó được sử dụng trong việc người bị phê phán bảo vệ cho khả năng của ḿnh. Chẳng hạn như, A chỉ trích B làm việc kém hiệu quả, B phản ứng bằng việc: “ Anh có làm được như tôi mà chỉ trích tôi.”

 

Về phương diện thực tiễn, đúng là A không trong hoàn cảnh và vị trí của B cũng chẳng có khả năng giống B th́ không thể lường hết những khó khăn mà B gặp phải nên phê phán là việc phiến diện, thiếu logic.

 

Thế nhưng về khía cạnh logic, việc làm hay không làm và sự nhận thức vấn đề không nhiều cơ sở để thiết lập mối quan hệ với nhau, nên có thể xem đây là 1 loại ngụy biện để bảo vệ cá nhân.

 

Nếu muốn bảo vệ cá nhân dưới góc độ logic th́ B phải chứng minh cho A thấy kết quả B đạt được là tối ưu hay chí ít cũng hết khả năng B chứ không phải chỉ trích ngược lại A rằng A không thể làm hơn nên không có quyền chỉ trích.

 

1.2.2. Ngụy biện yếu tố khách thể trong tranh luận:

 

Luận cứ là một phần không thể thiếu trong quá tŕnh luận chứng luận điểm, nó đảm bảo tính chính xác của luận điểm, tính khoa học của luận điểm. Nói cách khác là đó là những chứng cứ minh chứng cho luận điểm, luận đề cần luận chứng.

 

Thế nhưng trong văn phong thông thường rất khó tách rời giữa luận cứ, luận điểm và luận chứng. V́ luận chứng quá tŕnh chứng minh, luận điểm là nội dung chứng minh c̣n luận cứ là những bằng chứng minh nhằm chứng minh luận điểm. Diễn giải ra tức là, luận điểm là nội dung cần chứng minh, luận cứ là tiền đề xây dựng nội dung ấy v́ nó mang tính xác thực cho nội ấy, c̣n luận chứng xuất hiện với vai tṛ là phương pháp xây dựng tiền đề ấy.

 

Chính v́ sự gắn kết khó tách rời ấy nên tác giả sẽ tŕnh bày nội dung ngụy biện của ba yêu tố trong một đề mục để không tách rời chúng và cho thấy mối liên hệ với nhau giữa chúng.

 

1.2.2.1. Ngụy biện nặc danh luận cứ:

 

Trong luận cứ cũng cần một sự vững vàng về độ chân lư, tức là bản thân luận cứ cũng cần chứng minh là đúng. Điều này dẫn đến dẫn cứ một luận cứ là phải đi kèm với điều xác thực cho luận cứ ấy. Một trong những điều xác thực ấy là người làm chứng. Thế nhưng trong một số trường hợp, v́ các lí do bảo mật hay các lí do khác, mà danh tính người đảm bảo điều xác thực này cần giữ b́ mật. Điều này một mặt giữ bí mật cho người làm chứng, một mặt làm nảy sinh một vấn đề ngụy biện là lạm dụng và sử dụng sai mục đích.

 

Ví dụ: A luận tội B một lí do nào đó đă dẫn chứng: “ Một người đă nói anh có tội, họ đă làm chứng v́ nhưng v́ lí do bảo mật chúng tôi không thể tiết lộ danh tính”

 

1.2.2.2. Ngụy biện lạm dụng thống kê:

 

Thống kê là một phương pháp được sử dụng nhiều trong việc làm luận cứ v́ tính khoa học cũng như xác suất chính xác cao của nó. Thế nhưng, trong quá tŕnh sử dụng, việc lạm dụng nó sẽ dẫn đến sự ngụy biện. Một hướng lạm dụng nó là việc ngụy tạo con số thống kê, một hướng lạm dụng dẫn đến qui kết chân lí thuộc về số đông. Chính v́ vậy, nó bị xếp vào dạng ngụy biện v́ sự sử dụng đến mức lạm dụng nó.

 

Thống kê dưới góc độ chân lí đánh giá tŕnh độ nhận thức chân lí chứ không phải giá trị chân lí và bản thân nó cũng chỉ có giá trị tham khảo. V́ thế đánh giá cao hay lạm dụng nó sẽ dễ dẫn đến sa vào sự ngụy biện.

 

1.2.2.3. Ngụy biện lạm dụng luận cứ thiên nhiên:

 

Kiểu ngụy biện này dùng qui luận thiên nhiên làm luận cứ cho quan điểm của bản thân. Ví dụ A giải thích về sự cần thiết của sự bất công trong xă hội như sau: “ Trong tự nhiên, sự vật luôn luôn tuân theo qui luật mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Kẻ bất tài th́ phải bị trị bởi người có tài. Cho nên một xă hội cần phải có những người giỏi cai trị những kẻ ngu dốt th́ xă hội mới trật tự”.

 

Ngụy biện kiểu này là đồng nhất giới tự nhiên và xă hội, đồng nhất qui luật tự nhiên và qui luật xă hội trong khi xă hội và tự nhiên là hai hệ thống khác nhau, khác về cấu trúc lẫn cơ chế vận hành. V́ thế, không thể đánh đồng chúng như nhau. Dẫu rằng xă hội vẫn là một phần của tự nhiên nhưng việc lạm dụng qui luật thiên nhiên làm luận cứ, cũng tức là đánh mất sự vận động và sự độc lập tương đối giữa xă hội và giới tự nhiên.

 

1.2.2.4. Lạm dụng điển tích làm luận cứ:

 

Dẫn chứng điển tích là thói quen trong tranh luận của người phương Đông nói chung, và người Việt nói riêng. Trong ngôn ngữ khoa học th́ việc dẫn chứng điển tích là phương pháp logic lịch sử, đây là công cụ đắc lực để lí luận v́ lịch sử đóng vai tṛ tiền đề cho hiện tại. Thế nhưng việc lạm dụng nó sẽ khiến luận cứ trở thành ngụy biện. V́ tính lịch sử cụ thể bao trùm lại yếu tố lịch sử này. Nói cách khác, không phải mọi yếu tố lịch sử nào có thể lặp lại tại hiện thực, cũng như không phải giá trị lịch sử nào có thể áp dụng cho hiện thực.

 

Điều này yêu cầu trong việc luận chứng khi sử dụng điển tích cần xem xét kĩ lưỡng để tránh rơi vào ngụy biện. Điều này vô cùng không đơn giản.

 

1.2.2.5. Ngụy biện dùng luận cứ chưa được chứng minh:

 

Cuối cùng trong nhóm ngụy biện luận cứ là h́nh thức ngụy biện khá phức tạp và nhiều cách áp dụng nhất.

 

Cách đơn giản nhất trong sự ngụy biện này là viện dẫn một luận cứ chưa chắc chắn về tính chân lư, tức là đánh tráo một giả thuyết khoa học thành một kết luận khoa học để làm luận cứ. Ví dụ: “ Vũ trụ rất mênh mông và chưa được khám phá, nên chắc chắn ngoài vũ trụ kia có sự sống ngoài con người.” Ở đây, người lí luận đă ngụy biện v́ vũ trụ đă mênh mông và chưa được khám phá nên không có việc “chắc chắn” có sự sống, đáng lí ra để lập luận khoa học, người lí luận phải thay từ chắc chắn thành một từ khác như “ có thể”, “ giả thuyết cần xem xét”, tức là việc khẳng định một sự việc từ một tiền đề chưa xác thực là một sai lầm trong logic.

 

Một hệ quả từ h́nh thức trên – từ tiền đề không chắc chắn dẫn đến chắc chắn kết luận là sai lầm – là việc từ tiền đề không chắc chắn đến phủ nhận kết luận cũng là một sai lầm không kém. Như vậy, việc từ một tiền đề không chắc chắn, chúng ta không thể đưa ra một kết luận dù sai hay đúng mà vẫn chỉ đưa ra một giả thiết và phải khẳng định nó là một giải thiết chứ không phải là chân lí đă chứng minh.

 

Một h́nh thức phức tạp hơn của phương pháp này là sự kết hợp của nó vào niềm tin. Nó xuất phát từ việc không thể kiểm định luận cứ, niềm tin và nỗi sợ của con người. Ví dụ: Truyền thuyết thời Trung cổ kể rằng, vào ngày thứ Sáu tốt (Good Friday) của mỗi năm, khi giáo đoàn cúi đầu để cầu nguyện, người ta nói rằng bức tượng trên bàn thờ của nhà thờ sẽ qú xuống và rơi lệ. Nhưng nếu thậm chí một người nào đó từ những người cầu nguyện nh́n lên để nh́n những giọt nước mắt th́ điều kỳ diệu sẽ không xảy ra nữa. Bức tượng chỉ khóc khi tất cả các thành viên giáo đoàn thể hiện một niềm tin tuyệt đối. Như vậy nếu mọi người đều cuối đầu cầu nguyện, th́ không ai sẽ thấy bức tượng khóc. Nếu có 1 người ngó lên xem bức tượng, th́ không phải mọi người đều cầu nguyện, và v́ thế bức tượng sẽ không khóc. Như thế không thể chứng minh được bức tượng có qú và khóc hay không mà chỉ dùng niềm tin để khẳng định nó là thật.

 

1.2.2.6. Ngụy biện cá trích:

 

Loại ngụy biện này được dùng với h́nh ảnh xương cá trích ( sự đâm tua tủa không trật tự của xương cá trích) nhằm nói lên phương pháp ngụy biện bằng cách làm rối luận điểm bởi việc đưa nhiều luận điểm không liên quan đến luận điểm đang cần làm rơ ở luận đề.

 

Phương pháp này được sử dụng khá nhiều trong tranh luận của người Việt ( lí do sẽ giải tŕnh sau) và kết quả là kéo dài cuộc tranh luận và luận đề tranh luận bị biến dạng khỏi luận đề ban đầu. Kết quả cuối cùng thu nhận được là không ra kết quả của luận đề ban đầu, nên đây là một phép ngụy biện nguy hiểm.

 

Ví dụ: Luận đề đưa ra là “ Việc sống thử trước hôn nhân có để lại hậu quả cho xă hội không?” A bảo rằng nếu có biện pháp tránh thai hiệu quả th́ chẳng để lại hậu quả ǵ cho xă hội, mặt khác làm cho người tham sống thử nhận thức được đâu là nhu cầu thực sự của ḿnh cho một gia đ́nh tương lai. B phản biện cho rằng: “ Đó là vi phạm đạo đức truyền thống, và không phải ai cũng biết biện pháp tránh thai hiệu quả”.

 

Ở ví dụ trên, B đă ngụy biện cá trích bằng việc đưa “ đạo đức truyền thống” vào trong khi đang bàn về “ có để lại hậu quả hay không”, c̣n việc “không phải ai cũng biết tránh thai hiệu quả” chẳng qua là lời lập lại của A đă nói trong khi đang ở vai tṛ phản biện A. Nếu dùng luận điểm bổ sung th́ B cần phải nói “ Nhưng không phải ai cũng biết được tránh thai an toàn và nhận thức đúng, cho nên cần phải đưa giáo dục can thiệp vào vấn đề này”, th́ đó mới hợp logic. C̣n việc đưa ra  “không phải ai cũng biết tránh thai hiệu quả” không phải là luận điểm bác bỏ.

 

1.2.2.7. Ngụy biện chẻ đôi giá trị:

 

Lối ngụy biện này sử dụng việc chẻ đôi giá trị như: “ đúng – sai”, “ có – không có”, “bạn hay thù” để làm kết luận cho tiền đề và che đi những giá trị khác có trong luận điểm.

 

Ví dụ: A bảo B “ Anh nói anh không tin vào chúa vậy anh là kẻ phản chúa”. Trong ví dụ này, A đă qui kết B vào hai giá trị “ có Chúa” và “ phản Chúa” trong khi tồn tại nhiều giá trị khác xung quanh hai giá trị này.

 

1.2.2.8.  Ngụy biện do dùng phép tương tự  sai:

 

Loại sai lầm này bắt nguồn từ luận điểm: “ Có A th́ có B, nên có B th́ phải có A”. Điều này hoàn toàn vi phạm logic, đặc biệt là logic h́nh thức. Trong logic h́nh thức, mệnh đề “ A kéo theo B” tương đương với “ không B kéo theo không A” chứ không có “ có B kéo theo A”.

 

Trong thực tế, ngụy biện hướng này cũng rất thường được sử dụng.do sai lầm logic trong suy luận. Ví dụ: “ Các nước có IQ cao đều xây có đường sắt cao tốc, nên nước nào có đường sắt cao tốc th́ nước đó IQ cao. Nước ta cũng phải xây đường sắt cao tốc để có IQ cao”.

 

Cũng trong nhóm ngụy biện này, chúng ta có dạng kết luận “ Có A có B, không có A th́ không có B”. Điều này hoàn toàn sai v́ B có thể được sinh ra từ nhiều vấn đề, việc không có A mà không có B th́ không có cơ sở để kết luận trừ khi “ Có B khi và chỉ khi có A” th́ phủ định như vậy là chính xác. Ví dụ: “ Tôi quét nhà th́ nhà sách, tôi không quét nhà th́ nhà không sạch.” Điều này chỉ đúng khi nhà chỉ có ḿnh tôi quét, trong khi c̣n rất nhiều điều kiện có thể diễn ra song song với điều kiện đó, loại ngụy biện này thường đi kèm với loại ngụy biện lược bỏ mệnh đề.

 

1.2.2.9. Ngụy biện lợi dụng tính phong phú từ ngữ Việt:

 

Từ ngữ Việt vốn phong phú về nghĩa cũng như từ đồng âm. Loại ngụy biện này là lợi dụng những yếu tố đấy trong ngôn ngữ Việt.

 

H́nh thức ngụy biện này rất dễ nhận ra, nhưng lại khó bác bỏ v́ cách hiểu khái niệm từ phần lớn chưa được thống nhất khi bắt đầu tranh luận hay tŕnh bày luận điểm.

 

Ví dụ: Một cô gái lần đầu tiên đi tắm hồ bơi. Ông chủ hồ bơi hỏi cô ta: – Cô muốn mướn đồ tắm hả? – Dạ – Cô muốn mướn đồ hai mảnh hay một mảnh? Cô ta mắc cở nói: – Ơ, mặt đồ hai mảnh ḱ chết, tôi mướn đồ một mảnh thôi. Ông chủ ranh mănh hỏi: – Cô muốn mảnh trên hay mảnh dưới? Cô gái đỏ mặt chẳng biết trả lời sao.

 

1.2.2.10.  Ngụy biện sử dụng mệnh đề rời rạc:

 

Loại ngụy biện này sử dụng phương pháp sử dụng các mệnh đề không liên quan đến nhau để làm luận điểm phát biểu. V́ tính không rời rạc nên nó vừa phi logic vừa khiến người phản biện không có cơ sở phản biện thành ra mặc nhiên sự phi logic này đúng theo lối giả tạo.

 

Lối ngụy biện mệnh đề rời rạc này có dạng biểu hiện bằng những sự liên kết phi logic giữa các mệnh đề. Ví dụ: “Người Ai Cập đă từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học”.

 

1.2.2.11. Ngụy biện nguyên nhân sai ( post hoc)

 

Lối ngụy biện này phát triển từ loại ngụy biện mệnh đề rời rạc. Chính v́ sự rời rạc của mệnh đề mà khi thiết lập mối liên hệ giữa các mệnh đề ấy thành nguyên nhân – kết quả sẽ dẫn đến ngụy biện nguyên nhân sai.

 

Biến thể của “post hoc” này tồn tại nhiều dạng như: ảnh hưởng liên đới, nguyên nhân phức tạp, Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Ví dụ: “ Khi tôi tham gia 1 cuộc đua, mẹ tôi đưa tôi sợi dây chuyền may mắn và tôi đă chiến thắng. Chính sợi dây chuyền đă giúp tôi chiến thắng”

 

1.2.2.12. Ngụy biện dựa vào cái mới:

 

Thông thường, một cái mới được sinh ra nhằm khắc phục các nhược điểm của cái cũ. V́ thế, cái mới được xem là tiến bộ hơn cái cũ. Chính v́ điều này, người ngụy biện tận dụng nó để làm tuyệt đối hóa vai tṛ cái mới, làm mất đi vai tṛ của logic trong lập luận. V́ về tính tiến bộ không nằm ở cái danh mới và cũ mà nằm ở việc bản thể cái mới có tiến bộ hơn cái cũ hay không.

 

Ví dụ: “ Windown ME phải tốt hơn Windows 98 v́ Windows ME ra đời sau Windows 98”. Kết luận này là sai v́ muốn chứng minh tốt hơn người lí luận phải đưa ra các bằng chứng minh Windows ME khắc phục được những nhược điểm Windows 98 chứ không phải v́ ra đời sau mà nó tốt hơn.

 

1.2.2.13. Ngụy biện bằng luận điệu ngược ngạo:

 

Ngụy biện này dựa trên lối ứng xử thường nhật mang tính phi logic của con người. Các h́nh thức cụ thể của nó như: “ Kẻ nói lớn tiếng là người thắng”, “ Nói cướp lời người khác không cho người khác nói là thắng”, hay “ giao việc chứng minh cho người khác”. Tức là trong quá tŕnh luận chứng, người lí luận dùng những yếu tố phi logic để đàn áp người phản biện.

 

Ví dụ: A bảo “ Sau sự sống là một thế giới của linh hồn”, B bảo: “ Không có thế giới linh hồn”. A bảo B hăy chứng minh đi. Ở đây đáng lẽ ra A phải chứng minh luận điểm của ḿnh nhưng lại không thực hiện mà bắt B chứng minh. Trong trường hợp B bảo A phải chứng minh th́ từ một cuộc tranh luận khoa học biến thành một cuộc căi nhau mà trong đấy việc ép người khác phải chứng minh điều ḿnh nói là trọng tâm buổi tranh luận.

 

Hay trong những cuộc tranh luận, một người chỉ cần lớn tiếng và át lời người khác, không cho người khác nói nghiễm nhiên được công nhận là người thắng. Đấy là được xem là lối ngụy biện ngược ngạo cả về logic và cả về lối sống. Và trong đời sống hằng ngày, lối ngụy biện này thường được sử dụng rộng răi và phổ biến.

 

1.2.2.14. Lí lẽ quanh co:

 

Một dạng biến tướng khác của việc ngược ngạo nhưng ít mang tính bạo lực hơn là việc diễn giải dài ḍng không đi vào vấn đề chính của cuộc tranh luận, nhằm đưa người phản biện đi vào mê cung của chữ nghĩa và luận điểm.

 

Một dạng biến tướng khác của lí lẽ quanh co này là việc cứ lặp đi lặp lại một vấn đề nhằm ám thị cho người nghe nhầm tưởng điều đang nói là 1 chân lí, mặt khác viện dẫn những luận cứ mà người nghe không có điều kiện tra cứu độ xác thực khiến họ tin tưởng vào những điều đang nói cũng là dạng quanh co trong lập luận này.

 

Loại ngụy biện này dễ thấy ở các buổi hội thảo nơi mà những người hội thảo luôn muốn hướng thính giả vào mục đích ḿnh đang muốn nhấn mạnh. Loại ngụy biện này thường đi kém với loại ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân để tăng độ thuyết phục của luận điểm.

 

1.2.2.15. Ngụy biện do qui nạp sai:

 

Loại ngụy biện này được vi phạm đa phần là do vô ư của người sử dụng, bởi lỗ hổng của phép quy nạp thông thường. Lỗ hổng này được phát hiện đầu tiên có lẽ bởi David Hume về trường hợp “ Black Swarn” của ông. Nhưng dù có là phát hiện của ai th́ qui nạp truyền thống sử dụng kinh nghiệm trực quan làm tiền đề nhưng kinh nghiệm trực quan này lại không đảm bảo tính chính xác nên kết luận bao giờ cũng bấp bênh trong cán cân chân lư.

 

Loại ngụy biện này thường được dùng với tên gọi “ khái quát hóa vội vă, khái quát hóa không đúng chỗ,…” nhưng tác giả thống nhất xếp chung những loại ấy vào dạng qui nạp sai để có tính khái quát cao nhất về loại ngụy biện này.

 

1.2.2.16. Ngụy biện do ám thị:

 

Ngụy biện ám thị được hiểu là loại ngụy biện mà người tranh luận suy diễn vô căn cứ luận điểm của đối phương rồi phê phán chính sự suy diễn ấy. Trong một số tác phẩm loại ngụy biện này mang tên: “ Nhét chữ vào miệng người khác hay ngụy biện rơm” th́ đều là dạng này.

 

Ví dụ: A và B đang tranh luận về việc sống thử trước hôn nhân, A ủng hộ c̣n B phản đối. B chỉ trích A bằng luận điểm: “ Sở dĩ anh ủng hộ v́ nó mang lại lợi ích cho anh và nó giúp anh có thể sống thử với ai đó anh thích”. Như vậy B đă mang lại cuộc tranh luận một luận điểm không liên quan ǵ luận đề đang được bàn căi và nhằm mục đích công kích A.

 

1.2.2.17. Loại ngụy biện từ ngữ:

 

Loại ngụy biện này thường được sử dụng rất nhiều trong cách hành văn của người Việt. Nó có thể được xem là loại ngụy biện lạm dụng từ ngữ hay đánh vào sự không biết của người nghe.

 

Loại ngụy biện này thường thêm vào câu văn những từ như: “ Nói chung”, “ Dưới góc độ nào đó” hay “ theo cách hiểu nào đó”, hay “ trong tính tương đối nào đó”. Những từ ngữ này chúng ta thường dùng như lời chốt một ư cuối cùng cho luận điểm thế nhưng để cụ thể một cách tiếp cận, người tŕnh bày cần làm rơ “ cái ǵ đó” hay “ cái nào đó” thành một cái cụ thể – cái hướng tiếp cận vấn đề – mà người tŕnh bày đang nói đến. C̣n sử dụng nó một cách vô cớ sẽ dẫn đến sự ngụy biện.

 

Ví dụ: bàn về kẹt xe trong thành phố có ư kiến cho rằng: “ Theo một cách hiểu nào đó, việc kẹt xe cũng giúp con người có thời gian tĩnh tâm lại sau những thời gian chạy đua cùng cuộc đời, nên xét dưới góc độ nào đó, nó cũng có lợi cho con người”.

 

Phần IV

III. Vài biểu hiện của ngụy biện trong đời sống:

 

Các biểu hiện ngụy biện có trong dân gian:

Trong văn học dân gian Việt Nam, h́nh thức ngụy biện thường ẩn chứa trong cách suy luận về thế giới nhưng chủ yếu về thân phận con người trong thế giới, tức là nó ẩn chứa trong ca dao, trong tục ngữ, thành ngữ Việt Nam.

 

-   Ai ơi, chớ nghĩ ḿnh hèn

Nước kia dù đục lóng phèn cũng trong

 

H́nh thức ngụy biện trong câu ca dao này là dùng h́nh ảnh tương phản nước phèn và phận người. Về tính logic, không có mối liên qua giữa chuyện lóng phèn và chuyển hèn thành sang. Bên cạnh đấy, câu ca dao lại ngụy biện theo lối qui nạp sai cho rằng tất cả các loại nước phèn đều lóng sẽ trong làm tiền đề thuyết phục con người sẽ cải được phận hèn của ḿnh. Như vậy, trong ca dao này vi phạm hai phép ngụy biện và nội dung dùng để cho người đời tự an ủi bản thân ḿnh. Phải chăng, đây là bệnh thắng lợi tinh thần AQ?

 

-   Không có lửa làm sao có khói

 

Trong câu tục ngữ này, người xưa đă sử dụng nguyên nhân sai dẫn đến tính logic của câu bị sai. V́ thực tế nếu có lửa th́ sẽ không có khói, khói chỉ xuất hiện khi lửa chuẩn bị cháy và trước khi cháy. Dẫu biết rằng ư câu này muốn nói về mối quan hệ nguyên nhân kết quả nhưng hệ quả sử dụng không đúng logic dẫn đến thế hệ sau cứ tranh căi măi việc “ không có lửa sao có khói” và “không có khói sao có lửa”. Có nên chăng sửa lại là “ Không đốt lửa làm sao có khói” sẽ rơ nghĩa hơn.

 

-   Chẳng ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời

 

Câu tục ngữ trên vi phạm vào xây dựng tiền đề không chắc chắn từ việc qui nạp sai. Nó có tác dụng an ủi tinh thần con người nhưng mặt khác lại là sự ngụy biện khi không chỉ ra sự hợp lí của việc “ tại sao không giàu được ba họ, tại sao lại chẳng thể khó ba đời”.

 

Cũng trong phép qui nạp sai chúng ta có những câu tục ngữ đại loại như:

 

Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.

Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ

Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc

Rau nào sâu nấy, cha nào con nấy.

Cha dạy học, con đốt sách

 

Lỗi của phép qui nạp suy đến cùng nguyên nhân th́ do sự hữu hạn trong kinh nghiệm của con người để xây dựng tiền đề khái quát, hầu hết nó chỉ  nói lên tính đúng của đa số trường hợp trong sự khái quát ấy. V́ thế tính qui nạp sai này hầu hết hiện diện trong mọi h́nh thức ca dao, tục ngữ trong việc khái quát hóa loại người hay phán xét người của người xưa. Điều này dẫn đến sự tranh căi không dứt của hậu thế ở những câu ca dao tục ngữ này, lại vừa là cơ sở cho người ngụy biện sử dụng đến phiến diện cách đánh giá của ḿnh.

 

Hệ quả từ việc sai lầm của người xưa là rất to lớn cũng từ điểm này mà nên. Và một trong những sai lầm ấy là người xưa viết nên những câu truyện Trạng, một mặt góp phần đả kích vào thói hư tật xấu người Việt và đả kích giai cấp phong kiến cầm quyền nhưng lại đa phần sử dụng các thuật ngụy biện để giải quyết vấn đề ấy. Nguy hiểm thay, thế hệ sau lại truyền dạy nhau như minh chứng cho sự thông minh, khéo léo, tài giỏi của dân gian Việt Nam

 

Các biểu hiện ngụy biện thời hiện đại:

Chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên hiện đại với sự phát triển của mạng thông tin vũ bảo. Báo chí nhờ đó mà cũng phát triển rất mạnh so với trước. Những trang báo giấy tuy vẫn c̣n tồn tại nhưng sự phát triển của báo mạng cũng rất vũ băo. Nhờ báo mạng, dường như nhà nhà ai cũng có thể làm báo, lượng báo từ các cộng tác viên đến bạn đọc thông thường hay các nhà báo chuyên lẫn không chuyên đều rất lớn. Cũng nhờ đó, con người càng biết đến sự ngụy biện lẫn nhau nhiều hơn, mà đôi khi sự ngụy biện ấy lại ít lộ diện như sự ngụy biện mà lại dưới lớp vỏ logic và khoa học, vô t́nh chung tạo nên những thói quen tư duy không lành mạnh ở người Việt.

 

Một lối ngụy biện khá phổ biến trong cộng đồng báo mạng đó là lợi dung sự nặc danh của đối tượng đề cập để viết những bài hàm hồ, thiếu căn cứ và mang yếu tố “ giật gân”, dễ dăi là chính. Minh chứng cho điều đấy là những bài dạng tin nhanh, hay tâm sự ở các báo như Vietnamet, VNExpress, mà đề cử là bài: “Thám tử phát hiện nhóm teen ‘yêu’ tập thể” [1] đề cập chuyện nhóm học sinh lớp 9 thuê nhà nghỉ để quan hệ t́nh dục. Trong bài báo, nhân vật được đề cập cũng như các t́nh tiết diễn ra gợi cho người xem – những ai có đầu óc hoài nghi – một câu hỏi về độ chân thực của bài báo. Những t́nh tiết vô lí diễn ra, những luận cứ không căn cứ phải chăng là sự non nớt trong tưởng tượng của tác giả? Dường như sự nặc danh hay yếu tố bảo mật danh tính đă bị lợi dụng trong việc những bài báo mang tính chất giật gân, câu khách như thế này. Vô t́nh chung tạo ra thói quen tư duy dễ dăi ở một bộ phận nhà báo cũng như người đọc. Thiết nghĩ, những vấn đề này cần được siết mạnh, làm chặt tay ở bộ phận ban biên tập để những bài báo phản ánh xă hội có chất lượng hơn.

 

Thời gian gần đây, các phương tiên thông tin đại chúng đang nóng lên về vấn đề bộ ảnh nude “ v́ môi trường” của người mẫu Ngọc Quyên. Dĩ nhiên rằng, tính nghệ thuật hay không của bộ ảnh nude đang cần phải thẩm định thêm, cũng như ư nghĩa môi trường sẽ được tạo ra tới đâu từ tập ảnh cũng cần thời gian xem xét, nhưng dù thế nào, người mẫu Ngọc Quyên cũng đă tạo dấu ấn riêng trong sự nghiệp yên b́nh của ḿnh qua tập ảnh này và cũng nhờ vấn đề này, tác giả phát hiện ra những phép ngụy biện từ nhiều phía trong vụ việc trên.

 

Trong bài báo có tiêu đề: “Ngọc Quyên: Mẹ và bạn trai chấp nhận ảnh nude của tôi” [2] trên báo điện tử VNExpress ngày 23/3/2011 của nhà báo Ngọc Trâm có đoạn: “Trước khi công bố rộng răi, tôi đưa bộ h́nh cho mẹ xem. Ban đầu, mẹ tôi không đồng ư v́ không thể chịu nổi việc con gái ḿnh trút bỏ quần áo để lên báo chí. Tôi đă phải thuyết phục mẹ rất nhiều. Lần cuối cùng tôi nói với bà: “Mẹ phải tin tưởng con, mẹ không ủng hộ con th́ chẳng ai ủng hộ con nữa. Con không đủ mạnh mẽ để chống lại những thứ đổ ập lên con nếu không có mẹ làm chỗ dựa”. Cuối cùng bà đành chấp nhận.” . Như vậy chúng ta có thể thấy rơ ràng người mẫu Ngọc Quyên đă dùng sự trắc ẩn và t́nh thương con của người mẹ để kêu gọi sự ủng hộ cũng như sự cho phép của người mẹ để có thể đưa những bức ảnh này ra công chúng. Về mặt logic, đáng lẽ ra, Ngọc Quyên phải thuyết phục mẹ dựa trên tính thẩm mỹ và tính giá trị của bộ ảnh của ḿnh. Thế nhưng thay v́ đó, Quyên lại thuyết phục mẹ dựa trên sự cảm tính để rồi tuyên bố rằng “ mẹ tôi đă ủng hộ tôi” là phép ngụy biện của Quyên trong vấn đề này.

 

Cũng trong bài báo, khi được hỏi: “Bộ ảnh được đánh giá là khá đơn điệu, sơ sài về ư tưởng chứ chưa đạt đến tŕnh độ nude nghệ thuật. Dường như chị chưa thực sự đầu tư cho nó?”  Ngọc Quyên trả lời rằng: “Tôi chỉ có khuôn mặt và cơ thể để đóng góp cho những khuôn h́nh. Tôi tụt đồ để cuốn hút sự chú ư đến thông điệp ḿnh đưa ra, chứ không phải nude một cách tục tĩu. Một bộ ảnh nude hướng về thiên nhiên, tất cả cần đơn giản. Nếu cầu kỳ, nó là bộ h́nh nude nghệ thuật với trung tâm bức ảnh là nhân vật chứ không phải khung cảnh xung quanh nó. Tôi tạo dáng bên cây cối, con suối trong tư thế thoải mái nhất. Khi đó, tôi cảm giác ḿnh là một cái cây đang vươn lên. Trái đất khi không có cây cũng giống như con người khi không mặc quần áo – không c̣n ǵ bảo vệ, những tác động từ bên ngoài sẽ không c̣n ǵ ngăn cản. Tôi mong người xem hăy nh́n khung cảnh sau tôi chứ không phải nh́n một Ngọc Quyên đang nude.” Trong câu trả lời này, Ngọc Quyên cũng đă sử dụng nhiều phép ngụy biện.  Thứ nhất là việc qui đồng vấn đề “ cầu kỳ trong xử lư” sẽ dẫn đến “ trung tâm bức ảnh là nhân vật”, hai vấn đề không có mối liên kết hay quan hệ với nhau. Việc xử lư nghệ thuật một bức ảnh là yếu tố kĩ thuật trong việc nâng đối tượng cần tập trung trong ảnh ở đây là cảnh và vật, Quyên đă che mất mệnh đề vật để hướng người nghe vào việc “ cứ cầu kỳ kĩ thuật” là “ nổi bật người không nổi bật cảnh”. Hay nói một cách khác, một bức ảnh nào cũng cần phải đầu tư trong việc xử lí kỹ thuật ( mà Quyên gọi là cầu ḱ đó) c̣n “vật hay cảnh” là đối tượng xử lư chứ không chỉ “vật” là đối tượng duy nhất của việc xử lư, như thế cũng không có nghĩa là “Một bộ ảnh nude hướng về thiên nhiên, tất cả cần đơn giản”. Lư lẽ trên là ngụy biện loại bỏ bớt mệnh đề.

 

Mặt khác, Quyên cho rằng “Tôi mong người xem hăy nh́n khung cảnh sau tôi chứ không phải nh́n một Ngọc Quyên đang nude”, nếu vậy, tại sao Quyên lại đi chụp ảnh nude rồi bảo mọi người nh́n khung cảnh chứ không nh́n Quyên nude? Như vậy phải chăng Quyên đang phủ nhận chính việc Quyên đang kêu gọi? Điều này xuất phát từ việc sử dụng phép ngụy biện mệnh đề rời rạc khiến người nghe không rơ Quyên đang muốn nói chính yếu về vấn đề ǵ.

 

Cũng trong câu trả lời, Ngọc Quyên lư giải về nội dung tập ảnh nude của ḿnh: “ Trái đất khi không có cây cũng giống như con người khi không mặc quần áo – không c̣n ǵ bảo vệ, những tác động từ bên ngoài sẽ không c̣n ǵ ngăn cản.” Đây là sự lấy tính tương đồng không hợp lư trong so sánh của Ngọc Quyên. V́ hai đối tượng so sánh ở đây là “ trái đất khi không có cây” và “ con người khi không mặc quần áo” c̣n tính tương đồng là “ không c̣n ǵ bảo vệ những tác động từ bên ngoài”. Rơ ràng đây là tính tương đồng sai, v́ cái yếu tố bảo vệ trái đất khỏi tác động bên ngoài là tầng ozon hay tầng từ trường xung quanh trái đất giống như quần áo – con người mà Quyên đang muốn nói đến, c̣n cây xanh chỉ đóng vai tṛ là sự điều ḥa về nhiệt độ cũng như hàm lượng không khí trên địa cầu. Như vậy đây là phép ngụy biện tính tương đồng sai mà Ngọc Quyên đă sử dụng.

 

Minh chứng tiếp theo đến từ sự kiện “ Nên hay không nên cấm học sinh lưu thông xe máy và sử dụng điện thoại di động” đă từng là tiêu điểm trên các mặt báo. Bắt đầu từ bài báo từ học sinh cấp 3: “Bức thư nói ‘không’ bất ngờ của nhóc 9X” [3]. Bỏ qua cách đặt tiêu đề hết sức mơ hồ về từ “không” và chẳng ăn nhập ǵ về nội dung bài viết, chúng ta phân tích các luận điểm trong bài viết của học sinh này.

 

Học sinh này cho rằng: “Thế nhưng, có phải đa số học sinh sử dụng phương tiện này là xấu? Câu trả lời là KHÔNG.”, nhưng chứng minh luận điểm học sinh đơn giản chỉ dẫn: “Trong số hàng ngàn, hàng vạn học sinh sử dụng điện thoại di động th́ chỉ có một bộ phận nhỏ sử dụng nó vào mục đích xấu mà chưa nói đến những bạn sử dụng chúng rất hữu ích.” Như vậy khái niệm “ chỉ một bộ phận nhỏ” đă không được làm rơ là nhỏ thế nào? con số cụ thể ra sao? hay nó chỉ là phỏng đoán hay cách tư duy ngụy biện dễ dăi của một đối tượng học sinh cấp 3?

 

Học sinh này cũng lập luận hết sức ngây ngô và khó hiểu ở điểm: “Em không phủ nhận là có bạn suốt ngày nhắn tin, có bạn “nghiện” điện thoại, có bạn dùng vào việc không nên. Do vậy, em càng không thể phủ nhận những cái tích cực của nó”. Chứ “ do vậy” ở đây không liên kết được 2 mệnh đề em học sinh này đưa ra, vừa làm câu văn khó hiểu, vừa thể hiện sự rời rạc của mệnh đề em đang cố liên kết. Những luận điểm tiếp theo được em đưa ra để minh chứng cho sự tiện dụng của điện thoại di động là: “Em rất thích dùng điện thoại trong giờ tiếng Anh để tra từ điển (sau khi xin phép cô giáo), và hiệu quả đem lại là cao bởi học tiếng Anh không thể thiếu cuốn từ điển.”, hay  “Em cũng dùng nó để t́m hiểu thêm khi có những tiết thuyết tŕnh về bài lịch sử,… hay đôi khi dùng nó để giải trí trong giờ ra chơi, nghỉ giữa giờ.” Những luận điểm trên đă lược bỏ những mệnh đề liên quan đến luận điểm. Việc điện thoại có thể sử dụng dể tra từ điển là có thế nhưng c̣n những cuốn từ điển liệu quá ít từ cho em hay chăng mà phải dùng điện thoại mới có thể tra từ điển được? Việc t́m hiểu thêm khi có thuyết tŕnh lịch sử không thể diễn ra ở nhà hay t́m ṭi ở tư liệu hay sao mà phải cần điện thoại để tra cứu? Đó là chưa kể việc người khác thuyết tŕnh em lại mày ṃ tra cứu th́ em sẽ nằm thông tin người đang thuyết tŕnh hay nắm thông tin em có được trên mạng? Độ ngây ngô c̣n thể hiện ở việc em dùng điện thoại để giải trí trong giờ chơi. Giờ chơi được sinh ra để các em vận động cơ thể để học tập tốt hơn chứ không phải để các em giải trí các tṛ chơi điện tử trên điện thoại. Như vậy, các luận điểm em đưa ra đều là ngụy biện để giải thích sự tồn tại hợp lư của điện thoại di động trong việc học cũng như việc chơi của các em.

 

Phải chăng, việc cấm các em sử dụng điện thoại là không thể v́ nhu cầu của lứa tuổi và điều kiện gia đ́nh thế nhưng việc kiên quyết không cho các em sử dụng trong giờ học là việc có thể và cần thiết.

 

Ngoài ra khi em đề cập đến việc sử dụng xe máy, em sử dụng luận điểm : “ Khi em sử dụng xe máy để đi lại với các bạn, chúng em vẫn nhắc nhau đội mũ bảo hiểm đầy đủ, không kẹp ba, không đi nhanh, lạng lách, đến đèn đỏ th́ bảo nhau đỗ lại. Thử đặt ra câu hỏi: V́ sao phải đến 18 tuổi mới được điều khiển xe máy thay v́ 16 tuổi? Câu trả lời sẽ đại loại là: Do con người ở tuổi 18 đă sắp hoàn thanh giai đoạn phát triển cơ thể, do tuổi 18 sẽ có những suy nghĩ chín chắn, vân vân. Nhưng bây giờ học sinh phát triển thể chất rất nhanh, 16 tuổi nhưng đă rất cao lớn. C̣n về suy nghĩ, nó là một quá tŕnh từ bé đến lớn, chứ không phải từ tuổi 16 đến 18 mới vững chắc về suy nghĩ. V́ thế, để tránh những clip xấu, yêng hùng xa lộ tương lai th́ nên là giáo dục ư thức, tư tưởng cho học sinh từ khi c̣n bé. Bé tức là từ mẫu giáo, tiểu học.” Ở luận điểm một, em đưa ra bằng chứng về việc em chấp hành tốt luật lệ, không những thế lại nhắc nhở nhau thực hiện, thế nhưng căn cứ xác thực cho luận cứ này ở đâu? Và phải chăng, đây là phép ngụy biện đánh vào cảm tính của người nghe. Luận điểm thứ hai của em là phê phán việc cho rằng 18 tuổi sẽ có những suy nghĩ chín chắn nhưng em luận chứng bằng luận điểm 16 tuôi đă cao lớn, tức là em đánh tráo khái niệm từ việc suy nghĩ thành thể chất, mặt khác mang tiếng là phê phán, em không phủ định hay bác bỏ nó mà đưa ra luận điểm bổ sung cho nó “C̣n về suy nghĩ, nó là một quá tŕnh từ bé đến lớn, chứ không phải từ tuổi 16 đến 18 mới vững chắc về suy nghĩ. V́ thế, để tránh những clip xấu, yêng hùng xa lộ tương lai th́ nên là giáo dục ư thức, tư tưởng cho học sinh từ khi c̣n bé. Bé tức là từ mẫu giáo, tiểu học.” nhưng lại nhầm tưởng là đang phê phán và bác bỏ nó. Tư duy này thể hiện sự dễ dăi trong suy luận của em học sinh, hay nói cách khác, bệnh ngụy biện đang tồn tại trong em học sinh này.

 

Cũng trong vấn đề “ xe máy và điện thoại” này, chúng ta đến với bài báo: “10 km có đáng ǵ…” [4], bài báo là sự tổng hợp các ư kiến của bạn đọc về vấn đề đang nêu trên. Lướt qua, chúng ta dễ dàng thấy những sự lí giải mang yếu tố ngụy biện hết sức đến từ các tầng lớp khác nhau trong xă hội:

 

“ Các bạn sống ở thành phố được hưởng nhiều điều tốt đẹp, nên bây giờ v́ không được như ư muốn là các bạn đă lên tiếng phản đối. Các bạn có biết có những bạn cùng trang lứa sống tại các vùng rừng núi xa xôi phải đi bộ tới trường. Mà trường th́ cách xa nhà tới 10km, đường đi khó khăn nhiều, nhưng họ vẫn luôn yêu đời và học giỏi. Có thể nói, đa số những người thành đạt đều xuất phát từ nông thôn”

“Và thật xấu hổ cho bạn học sinh nào nói rằng đi xe đạp th́ “đến lớp chỉ có nằm vật ra thở”!

“Các cô ấm cậu chiêu có khi nào đi xe máy ra đường mà nghiêm chấp hành luật giao thông đâu”

“Thôi đi bạn ơi làm ǵ có chuyện ấy có chắc là bạn chịu đội mũ bảo hiểm khi bạn có một bộ tóc làm xoăn rất đẹp, c̣n các bạn nam th́ đầu đầy keo lại chịu đội mũ làm ǵ có chuyện “10 bạn th́ 9 bạn phục vụ mục đích đúng đắn”. Bạn đi học có 10km c̣n những bạn vùng sâu vùng sa đi bộ, đạp xe cả ngày đường th́ làm sao”

Những tưởng sự ngụy biện này đôi khi chỉ xảy ra ở con trẻ hay những người ít tư duy hay học vấn thấp, thế nhưng bài báo: “Phản hồi đanh thép của phụ huynh 6X” [5] lại bổ sung đối tượng là người lớn tuổi ( ở đây là tầm trên dưới tuổi 40) để thấy rằng sự ngụy biện chẳng chừa một ai.

 

Phụ huynh này dẫn ra luận đề thứ nhất: “Quỹ thời gian giành cho việc học, kể cả học ở trường, học thêm ở các ḷ, học ở nhà nhiều khi cỡ 14/24 giờ vẫn chưa bơi hết, vẫn phải cố gắng. Mười giờ c̣n lại th́ ăn uống, sinh hoạt cá nhân hết chừng 3 giờ, c̣n lại chừng 7 giờ dành cho việc ngủ. Nếu phải đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường sẽ khiến các em luôn vội vàng, hốt hoảng và quỹ thời gian nghỉ sẽ hẹp lại. Khi đến trường là mệt nhoài, nhất là với các em ở cự li xa trường hơn 5 km. Nh́n vào lịch này, thấy quỹ thời gian dùng cho việc du hí, ngao du th́ học sinh thuộc nhóm ít nhất xă hội nếu so với thanh niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với người lớn.” Cũng như các luận cứ đă dẫn chứng trên, loại ngụy biện xuất hiện trong luận điểm này là ám thị và loại bỏ mệnh đề. Con số 14/24h là con số áng chừng và không đại diện chung cho mọi tầng lớp học sinh.

 

Mặt khác, tự nhiên đă qui định sự phân chia thời gian hợp lí cho mỗi nhóm hoạt động là 8 tiếng học tâp ( làm việc); 8 tiếng nghỉ ngơi tái sản xuất sức lao động; 8 tiếng vui chơi, tự đào tạo. Phụ huynh đă làm sai qui tắc tự nhiên bằng việc sử dụng 14/24h cho việc học th́ làm sao lại trách là “Nh́n vào lịch này, thấy quỹ thời gian dùng cho việc du hí, ngao du th́ học sinh thuộc nhóm ít nhất xă hội nếu so với thanh niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với người lớn.”.

 

Mặt khác, phụ huynh đă ám thi việc “Nếu phải đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường sẽ khiến các em luôn vội vàng, hốt hoảng và quỹ thời gian nghỉ sẽ hẹp lại.”, câu hỏi đặt ra cho phụ huynh là vai tṛ của phụ huynh ở đâu trong việc đưa đón con trẻ, và rất nhiều phương tiện khác ngoài chuyện đi bộ và xe đạp đến trường. Phải chăng để cố làm vững luận điểm của ḿnh, phụ huynh đă ngụy biện bằng cách lược bỏ hết mệnh đề liên quan để chẻ giá trị lí luận theo hướng có lợi cho ḿnh. Bên cạnh đó, phụ huynh cho rằng: “. Nh́n vào lịch này, thấy quỹ thời gian dùng cho việc du hí, ngao du th́ học sinh thuộc nhóm ít nhất xă hội nếu so với thanh niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với người lớn”  là một luận điệu cá trích trong ngụy biện. Vấn đề đang bàn ở đây là việc nên hay không nên cho học sinh sử dụng xe máy chứ không phải thời gian du hí và ngao du của học sinh mà phụ huynh lại đưa luận điểm này vào để làm rối luận đề mọi người đang bàn tới.

 

Luận đề thứ hai phụ huynh đề cập là: “ thao tác lái xe”, phụ huynh lại càng lộ rơ tính chất ngụy biện trong luận điểm của ḿnh. Thứ nhất là đưa một luận điệu cá trích vào luận điểm: “Luật giao thông hiện nay KHÔNG CẤM một cụ già 65 tuổi hoặc một bà trung niên nhà quê chừng 50 -60 tuổi cầm lái xe gắn máy nếu đă có giấy phép”.

 

Thứ hai là đưa ra một luận cứ cảm quan thiếu xác thực và khái quát hóa không đúng chỗ: “Tôi đă quan sát nhiều trường hợp những phụ nữ từ nông thôn ra thành thị, 50 tuổi mới mó vào cái xe lần đầu, một tháng sau đă chở cả đống  hàng trên xe chạy ngon lành.” để rồi kết luận một luận điểm “ Do đó, không ǵ vô lư, duy lí hơn việc nghĩ rằng học sinh không biết lái xe, không có bằng cấp là không lái được xe trong khi thanh niên 16-17 tuổi là loại thông minh, nhạy cảm là linh hoạt nhất đời người. Nh́n vào việc học –hành th́ việc học tập để nắm luật giao thông,  để có thể đi , thậm chí đi xe gắn máy giỏi chỉ là chuyện nhỏ so với những kỹ năng khác mà các em phải học. Trên thực tế các em đi xe rất giỏi, giỏi hơn các cụ già, các bà phụ nữ nhiều”  th́ việc “  việc học tập để nắm luật giao thông,”  là kiến thức và “đi xe gắn máy giỏi chỉ là chuyện nhỏ”  là kĩ năng, là 2 vấn đề khác nhau và không thể liên kết. Mặt khác cho rằng: “Trên thực tế các em đi xe rất giỏi, giỏi hơn các cụ già, các bà phụ nữ nhiều”  là kiểu ngụy biện khái quát sai. Nếu cũng trên quan điểm thế và lối tư duy để có thể nói “ Các em không được đi xe máy v́ đi tệ hơn những người đàn ông trưởng thành” th́ cũng rất hợp lí. Việc các em học sinh đi xe máy giỏi hơn, có khả năng đi xe máy hay không không là vấn đề mà mọi người đang bàn tới, mà vấn đề là ư thức khi điều khiển tham gia giao thông của lứa tuổi học sinh là non nớt cũng như kinh nghiệm non trẻ trước các t́nh huống. Việc phụ huynh này đưa vào những luận điểm chẳng ăn nhập vào luận đề mọi người đang quan tâm tới là h́nh thức ám thị và loại bỏ, chẻ các giá trị luận điểm ra nhằm quanh co lí luận làm người đọc khó nắm bắt nội dung chính mà phụ huynh này muốn nói tới.

 

Đỉnh điểm của sự ngụy biện của phụ huynh là việc phụ huynh đưa ra luận điểm: “Không có ǵ vô lí, nực cười hơn việc một bà mẹ gầy yếu chạy xe chở một ông con to béo, đang tuổi “bẻ găy sừng trâu” ngồi  ngất ngư đằng sau, suốt ba năm học cấp ba.” Luận điệu cá trích được tác giả sử dụng triệt để trong luận điểm này khi nó chẳng liên quan ǵ đến việc mọi người đang quan tâm tới là ư thức điều khiển tham gia giao thông của lứa tuổi học sinh

 

Rời các bằng chứng cho thấy sự ngụy biện trở thành quen thuộc trong lối tư duy Việt ở các mặt báo tác giả đến với những nhận định mang yếu tố ngụy biện đến từ những người đáng tin cậy hơn v́ xét về “ chính danh” th́ những phát biểu hàm hồ của nhóm đề cập trên không thể hiện được sức mạnh của ngụy biện đă lan tỏa thế nào trong tư duy Việt.

 

Sự việc đ́nh đám gần đây nhất là việc giải cứu cụ Rùa ở Hồ Gươm có lẽ gây dấu ấn nhiều người là những phát biểu hết sức ngây ngô từ những vị có học hàm học vị trong buổi hội thảo giải cứu cụ Rùa. Thế nhưng chỉ xét về vấn đề ngụy biện có lẽ không bỏ qua được  một thạc sĩ Kim Văn Vạn, Trưởng Bộ môn Nuôi trồng Thủy sản-Đại học Nông nghiệp Hà Nội trong bài báo “Cuối tháng 2 và đợi trời ấm sẽ cứu cụ rùa”[6] khi ông phát biểu “Th.S Vạn không cho là rùa tai đỏ tấn công cụ rùa v́ rùa tai đỏ không hung dữ như ba ba. Hơn nữa, rùa tai đỏ có kích cỡ nhỏ, c̣n cụ rùa có kích cỡ lớn hơn và các sinh vật này ứng xử với nhau theo quy luật “cá lớn nuốt cá bé” chứ ít khi ngược lại.” Có lẽ vị thạc sĩ này khi đưa ra cụm ngữ “ cá lớn nuốt cá bé” đă không tính chất trong cụm ngữ này muốn đề cập tới. Tính chất cụm ngữ này muốn nói tới h́nh sức trực quan “ cá lớn ăn thịt cá bé” tức là đề cập đến những loài cá ăn thịt. Trong khi, rùa th́ không ăn thịt, và ở đây cụ Rùa và rùa tai đỏ cạnh tranh nguồn thức ăn lẫn nhau, mà số lượng rùa tai đỏ nhiều hơn cụ Rùa nên cụ Rùa thiếu hụt nguồn thức ăn mới là đáng bàn. Việc rùa tai đỏ tấn công cụ Rùa, có lẽ khi dẫn câu “ cá lơn nuốt cá bé”, thạc sĩ lại quên câu chuyện “ Kiến thắng sư tử” hay “ Kiến thắng voi” hay quên cả việc chuyện “ cá lớn nuốt cá bé” không diễn ra ở một chiều mà việc cá bẻ rỉa vết thương của cá lớn cũng diễn ra ở tự nhiên. Phải chăng, bên trong sự ngụy biện dẫn điển tích này, là cả việc vị thạc sĩ quên mất ( hay không biết) về những câu chuyện vở ḷng của tiểu học và những kiến thức cơ bản của tự nhiên. Nếu sự quên hay sự không biết này là sự thật th́ cũng có thể thông cảm cho sự ngụy biện của một vị thạc sĩ, v́ đơn giản ông ta không biết.

 

Hay ư kiến của một vị Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Thương mại Hà Nội (KAT Group), ông Nguyễn Ngọc Khôi nói: “Nếu có băi rùa sẽ lên nằm. Nhưng phương án làm băi cát mà tôi đưa ra, đến ngày 22-2, vẫn chưa thấy TP Hà Nội có động thái ǵ. Nếu có băi cát, cụ Rùa sẽ lên nằm phơi nắng, nấm sẽ chết và các vết thương sẽ khô lại”.  lại đầy sức phỏng đoán và thiếu căn cứ. Ông nói cứ như, cụ Rùa chỉ chờ có băi cát là sẽ tự lên nằm cho lành vết thương. Có lẽ tư duy ngây ngô hay phi logic thế này, quả thực không chừa một ai từ thạc sĩ cho đến một chủ tịch hội đồng quản trị một tập đoàn. Nhưng có lẽ ông ta không biết ḿnh ngây ngô nên mới ngây ngô phát biểu những câu ngây ngô thế này lên báo chí.

 

Vẫn c̣n nhiều và rất nhiều những minh chứng khác trong xă hội và đặc biệt đời sống hằng ngày của người Việt về lối tư duy ngụy biện như những kiểu mà tác giả đă tŕnh bày. Vậy câu hỏi đặt ra là, nguyên nhân từ đâu đă h́nh thành về lối tư duy ngụy biện này, và tại sao nó được duy tŕ cho đến hiện nay. Câu hỏi này quả thật rất khó, và trong sự hữu hạn của ḿnh, tác giả đúc kết thành những vấn đề sau

 

[1] http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/13311/tham-tu-phat-hien-nhom-teen–yeu–tap-the.html

 

[2] http://vnexpress.net/gl/van-hoa/2011/03/ngoc-quyen-me-va-ban-trai-chap-nhan-anh-nude-cua-toi/

 

[3] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11180/buc-thu-noi–khong–bat-ngo-cua-nhoc-9x.html

 

[4] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11807/-10-km-co-dang-gi–.html

 

[5]http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11914/phan-hoi-danh-thep-cua–phu-huynh-6x.html

 

[6] http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/10212/-cuoi-thang-2-va-doi-troi-am–se-cuu-cu-rua.html

 

 

Phần V

IV.  Nguyên nhân h́nh thành và tồn tại của lối tư duy ngụy biện:

 

1. Nguyên nhân h́nh thành của lối tư duy ngụy biện Việt:  

 

1.1  Tư duy người Việt mang tính biện chứng cao nhưng méo móp:[1]

 

 

Nước Việt có một nền văn minh lúa nước lâu đời, chính nền văn ḿnh này đă khiến dân tộc sống chan ḥa cùng thiên nhiên, nhận biết được tương quan biện chứng giữa tự nhiên và tự nhiên, con người và con người, con người và tự nhiên v́ thế tư duy biện chứng là một trong đặc tính cơ bản của tư duy người Việt hay nói rộng hơn là Việt Triết.

 

Thế nhưng, việc tồn tại văn hóa làng xă, văn hóa mà “phép vua thua lệ làng”, văn hóa “ Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đă khiến màu sắc biện chứng trong tư duy Việt không tính biện chứng tiến bộ, phát triển mà lối biện chứng cục bộ tức là tuyệt đối hóa một vai tṛ nào đó không một nhóm vai tṛ tác động đến đối tượng. Thế nên, mới h́nh thành lối tư duy ngụy biện “ Qui nạp sai ( Khái quát hóa vội vă)”, về các tác nhân của hiện tượng xă hội. Ví dụ: “ Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc” hay “ Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ”. Những câu tục ngữ ấy mang tính khái quát cao và đại diện tuy nhiên v́ tuyệt đối hóa một vai tṛ như “ phú quí”, như  “ bần cùng”, như “ bạn”, như “ vợ” mà vô t́nh chung tính chân lí bị giảm sút. Điều này khác hẳn với phương Tây, họ cũng so sánh và đúc kết nhưng họ biết đưa thêm những từ “ đôi khi” hay “ đa số”, hay “một phần” khiến cho lối nh́n của họ tuy không bay bổng và vần nhịp như người Việt nhưng khó mà bác bỏ được họ như ca dao tục ngữ Việt. 

 

Chính v́ thế, tác giả tạm gọi tư duy dạng này, là tư duy biện chứng méo móp.

 

1.2. Nước Việt có một nền học thuật yếu:[2]

 

Học thuật ở nước Việt có thể nói là tương đối yếu so với các nền văn hóa, văn minh khác, đặc biệt là phương Tây. Ngay cả những nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ th́ nền học thuật của Việt Nam cũng yếu hơn rất nhiều. Điều này lí giải là do văn hóa làng xă đă khiến sự giao lưu tư tưởng, giao lưu học thuật không được phát triển.

Chính v́ điều này, sự đối thoại trong triết học không được phát triển, sự đối thoại giữa những tư tưởng không được thúc đẩy nên ngụy biện không được nhận diện trong một thời gian dài cho đến khi nền văn minh phương Tây du nhập vào Việt Nam, th́ sự ngụy biện dường như ăn sâu vào tư duy Việt với cái tên là “ khôn khéo và thông minh” như chuyện Trạng mà nhóm đă phân tích của ở phần trên.

Cũng chính nền học thuật yếu, đă khiến dân tộc Việt ảnh hưởng mạnh bởi lối tư duy Hán Học[3] nên việc diễn giải điển tích, hay viện giải uy tín cá nhân, hay lợi dụng sức mạnh cá nhân để tác động lên tính chân lư thành ra mới có quan niệm trong dân gian Việt là “ văn sử triết bất phân” cũng v́ điểm này.

Cũng do nên học thuật yếu mà ngôn ngữ Việt có thời gian dài sử dụng Hán ngữ làm quốc ngữ, sau đấy lại chỉnh thành chữ Nôm và cuối cùng trở thành Quốc ngữ với h́nh thức Latin ngữ. Điều này dẫn đến sự phức tạp trong ngôn ngữ Việt. Càng là điểm sơ hở để các nhà ngụy biện “ khua môi múa mép” trên cơ sở chơi chữ, và tận dụng đồng âm cũng như tính đa nghĩa của từ. Điều này tương cộng một lần nữa với yếu tố học thuật yếu càng làm suy luận trở nên rối rắm và khó phân tích.

Cũng do nền học thuật yếu nên khi tiếp nhận văn minh phương Tây, chúng ta bị ảnh hưởng và vô t́nh tạo nên lối tự ti trong suy luận. Chúng ta vẫn thường suy nghĩ một cách dễ dăi như: “ Phương Tây phát triển, Việt Nam lạc hậu”. Một sự thật rằng, không thể chối bỏ điều đấy, nhưng mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có nền văn hóa, nền văn minh riêng, có bản sắc riêng, việc quá tả hay quá hữu trong nh́n nhận sự việc sẽ dẫn đến lệch lạc và tinh thần cực đoan. Điều này dẫn đến hàng loại lối ngụy biện dựa vào phương Tây để phê phán hay xây dựng Việt Nam cho tiến bộ, văn ḿnh nhưng thực chất mang nặng yếu tố “ Tây Hóa” trong việc xây dựng này.

 

1.3. Người  Việt với tính cách trung dung, dĩ ḥa vi quí nên lí tính mang nặng màu sắc cảm tính:

 

Điều này xuất phát từ nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xă, khiến tính duy cảm trong tư duy Việt được cơ hội phát triển theo dạng “ khi thương trái ấu cũng tṛn, khi ghét trái bồ ḥn cũng méo”, nên những vấn đề như “ sự đồng thuận của đám đông”, “ lợi dụng uy tín cá nhân”, “ lợi dụng quyền lực”, có cơ hội h́nh thành và phát triển. Điều này cũng được phê phán trong ca dao – tục ngữ Việt như: “ Một miệng làng bằng ba miệng trống” hay “ Trăm năm bia đá cũng ṃn/ Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ”. Những điều đấy, làm tính ngụy biện có đất sống và phát triển. V́ tính chân lư của sự vật không được đem ra phê phán và đấu tranh tới cùng.

Cả ba yếu tố nêu trên cùng tác động, cùng ảnh hưởng đến nhau để tạo nên lối tư duy dễ dăi, và thiếu tính logic của người Việt. Thế nhưng, đến thế kỷ 21, sự ngụy biện này dường như vẫn c̣n tồn tại, không chỉ Việt Nam, mà c̣n ở thế giới.

 

Điều này sẽ lí giải ra sao, như thế nào?

 

2. Nguyên nhân tồn tại của ngụy biện:

 

Xuất phát từ tiền đề, không ǵ có thể tồn tại nếu nó không phục vụ lợi ích con người sẽ cho chúng ta cái nh́n rộng mở để lí giải câu hỏi trên.

Ngụy biện, xét về mục đích, chẳng qua cũng là một phương tiện để đạt được mục đích của con người. Nếu đi bằng logic thông thường, sẽ khiến người nghe – vốn hữu hạn về nhận thức – khó tiếp thu và đồng ư. Trong t́nh huống này, ngụy biện đóng vai tṛ là con đường ngắn nhất để đạt được mục đích đó. Xét về tính mục đích, nó là biện pháp tối ưu, vừa ít tốn công, vừa đỡ tốn sức.

Thế nhưng, khi lí giải và hành động như thế những người sử dụng đă quên một tiền đề khác là con người chỉ làm khi họ có nhu cầu hay nói cách khác, họ muốn làm hành động đấy. Việc thuyết phục có thể hiểu góc độ nhỏ là sự ép buộc, cưỡng bức vô h́nh với người bị thuyết phục. Nhóm đồng ư một quan điểm cho rằng: “ Mục đích không biện minh cho phương tiện”, tức là để thuyết phục một ai đó làm một việc ǵ đó, hay dùng logic chân chính để lư giải cho họ hiểu v́ sao họ cần làm thế thay v́ dùng lí lẽ ngụy biện để đánh mù lí trí của họ và bắt họ làm theo.

Mặt khác, ngụy biện được h́nh thành dựa trên nền học thuật yếu – mà hệ quả trực tiếp – là sự logic trong lí luận không vững vàng, v́ thế đến thời điểm hiện nay, khi mà tính logic trong lí luận người Việt cũng chưa thực mạnh th́ ngụy biện cũng c̣n tồn tại là lẽ tất nhiên.

Thứ ba, ngụy biện đă ăn sâu vào tâm thức người Việt, dường như nó là nét văn hóa, đặc biệt nhóm ngụy biện dựa vào sự duy cảm, v́ thế việc xóa bỏ nó không phải là một sớm một chiều mà phải đấu tranh liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.

 

[1] Đọc thêm GS John B. Trần Văn Đoàn, Tổng quan về Triết học và Việt triết, Đại học Quốc Gia Đài Loan, 1996

[2] Đọc thêm Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học, NXB Tổng hợp TpHCM, 2006

[3] Hay tư duy Hán học ảnh hưởng bởi nước Việt th́ vẫn c̣n đang tranh căi, nhận định này nhóm nhận định với chính kiến riêng.

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách tham khảo:

Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học , NXB Tổng Hợp TpHCM, 2006

Kim Định, Gốc rễ Triết Việt

Engel, S. Morris,  With Good Reason — An Introduction to Informal Fallacies. 5thedition, New York: St. Martin’s Press, 1994.

John B. Trần Văn Đoàn, Tổng quan về Triết học và Việt Triết, Đại học Quốc gia Đài Loan, 1994

Nguyễn Trường Giang, Logic trong tranh luận, NXB Thanh Niên, 2006.

 

http://thayruamongtre.wordpress.com/2012/04/09/marx-engels-va-xa-hội-học-ton-giao-dẫn-nhập/

 

 


 


 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: