MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

 

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Fed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

v US GovvCongressional RecordvC-SPANvCFR

v VideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

v JudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v SourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ

v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvArchive

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

v MediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

v DiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

v OpenSecretvSunlightvPolitical Critique

v N.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

v NewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

v ObservevAmerican ProgressvFaivCity

v GuardianvPolitical InsidervLawvMedia

v RamussenvWikileaksvFederalistvSourWatch

v Online BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

v AmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS

v N PublicRadiovForeignTradevBrookings

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

v Fed American ScientistvMilleniumvInvestors

v PropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

v Russia NewsvTass DefensevRussia Militaty

v Scien&TechvACLUvGatewayvVeteran

v Open Culture vSyndicate vCapital Research

v Nghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

v T.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

v Ca DaovH.V.Công DânvHV.NG

v BảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

v Thời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

v Sức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

v K.H.TVvĐại Kỷ Nguyênv Đỉnh Sóng

v Viễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

v Việt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

v NVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

v Dân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

v Tin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

v Dân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

v Lao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

v S.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v

Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê

 

Trần Đức Thảo - Nỗi Hối Hận Lúc Hoàng Hôn

 

 

Chương 11

 

 

Một bản án vô phương kháng cáo!

 

Tại sao bác cứ bị ám ảnh là đă bị ám hại như vậy?

- V́ lănh tụ đă có định kiến đối với tôi. Coi tôi thuộc diện đào tạo ngoài luồng, mang ảnh hưởng của đế quốc thực dân, nên có sẵn một quan niệm phản động về cách mạng. V́ thế mà “ông cụ” rất nghi ngại cách nh́n phê phán của tôi đối với những việc “ông cụ” đă làm. Vậy mà “ông cụ” cũng muốn kiểm soát, không chế, đo lường tư tưởng của tôi, đă ra lệnh trực tiếp phải quản chế chặt chẽ tôi. Lănh đạo muốn biết tôi nghĩ ǵ về từng bước đi của “Trung ương” có lẽ cũng v́ vậy mà tôi chưa bị thanh toán. Thật sự là “ông cụ” rất muốn biết rơ suy tư, lập trường của tôi trước mỗi vấn đề… nhưng lại không ưa những suy tư thường mang tính “phản biện” của tôi.

- Không ưa mà cũng cho gặp mặt à?

- Cũng vẫn cho gặp chứ. Như tôi đă kể, những lần gặp gỡ ấy càng cho tôi thấy không thể có một quau hệ giữa lănh đạo và tôi. Mặc dù tôi đă biết rơ chính lănh đạo thường xuyên theo dơi tôi. Đặc biệt và trầm trọng nhất là lần gặp đầu tiên. Chỉ chừng non một tuần, sau khi tôi về đến an toàn khu (ATK). Lần gặp ấy đă mở rộng con mắt, đă soi sáng đầu óc tôi một cách thật sâu xa và đầy cay đắng…

Lần ấy, khoảng cuối năm 1952, lúc tôi đang vô cùng hoang mang thắc mắc, bực bội trong ḷng v́ tôi biết là đảng đang triệu tập một hội nghị rộng răi cấp cao quan trọng tại Tân Trảo, ở ÀTK này, mà tôi lại không được mời tham dự. Nhưng rồi xảy ra một vụ việc ́àm tôi cực kỳ xúc động: có lệnh truyền xuống để chuần bị đưa Trần Đức Thảo đi chào “Bác”! Thật là hồi hộp và mừng! Tâm trí lúc ấy tràn đầy hi vọng nên quên hẳn những dấu hiệu đang bị phân biệt đối xử!

Rồi giờ phút của sự thật, giữa “ông cụ” và tôi, đă tới: một cán bộ đặc biệt được phái tới. Đây là một cán bộ giao liên đă đứng tuổi, chẳng những tỏ ra am hiển về địa h́nh, địa lư của vùng ATK này, mà c̣n rất thông thạo về lễ tân trong “đảng”. V́ đấy là cán bộ chuyên đảm trách việc đưa, đón, hướng dẫn khách quư của “Trung ương”! Cán bộ này trịnh trọng cho tôi biết ông ta là chuyên viên “ban lễ tân (protocole) của bộ ngoại giao”, nghĩa là cán bộ cấp cao của Trung ương, chuyên hướng dẫn, chuẩn bị thật kỹ những ai sẽ được đưa tới gặp “Hồ chủ tịch”, mà cán bộ lễ tân này nói một cách kính cẩn là sẽ được hướng dẫn về một số nghi thức phải tuân thủ khi được diện kiến “Người”!

Cán bộ lễ tân này dặn ḍ từng chi tiết rất tỉ mỉ, chứng tỏ một sự tôn vinh, sùng bái tuyệt đối:

- Yêu cầu của ban lễ tân là đồng chí phải thận trọng trong từng cử chỉ, từng lời nói khi gặp “Người”. Thứ nhất là cần nhớ rằng khi gặp th́ phải đứng xa “Người” ít ra là ba mét! Chỉ khi “Người” ra dấu, ra lệnh, mới được lại gần hơn. Thứ nh́ là không được tự ư nói leo, “Người” có hỏi câu ǵ th́ mới được phép trả lời. Mà phải trả lời đúng vào câu hỏi đó, tuyệt đối không được tự ư nói thêm, nói ra ngoài câu hỏi. Thứ ba là không được chào trước, nói trước. Thứ tư là không được xưng “tôi”, y như là ngang hàng với “Người”.

- Nếu không được xưng tôi th́ xưng bằng ǵ?

- Đồng chí có thể xưng bằng “con”, hay bằng “cháu”, và phải gọi Người bằng “bác” như đồng bào vẫn gọi… Những mệnh lệnh này là quan trọng, đồng chí phải ghi nhớ cho kỹ, kẻo làm hỏng cuộc diện kiến với “Người” là tai hại lắm đấy. Không phải ai ở đây cũng đă được tới gần để chào “Người” đâu.

Sự chuẩn bị kỹ như vậy làm Thảo rất bồn chồn, nhất là lúc giao liên tới dẫn đi gặp “Người”.

Lúc đó là sáng sớm tinh sương, con đường ṃn xuyên rừng, xuyên núi c̣n đẫm sương đêm, chưa nh́n rơ những hiểm trở dưới chân. Đi khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, trời hửng sáng, th́ tới một trậm giao liên khác, cũng là trạm kiểm soát. V́ khi ngồi chờ ở trạm này, th́ thấy có hai giao liên khác dẫn hai đoàn người vừa ở hội nghị về. Tại đây, giao liên của mỗi đoàn phải tŕnh giấy chứng minh thư của từng người trong đoàn, để cán bộ thường trực của trạm ghi vào sổ. Rồi hai đoàn người, ấy mới được đi qua.

Băn khoăn đợi ở trạm này măi đến gần trưa, bỗng từ xa có một hồi c̣i tu huưt đài tiếng, như loại tu huưt của các hướng đạo sinh, vẳng tới. Lát sau một sĩ quan bộ đội “tiền phương”, mặc quân phục gọn gàng, vai đeo “tếp” vải, bên sườn, đeo súng ngắn K54, đi rất nhanh tới rồi chỉ về phía Thảo hỏi gay gắt như quát, rất hách:

- Ai đấy? Đă nghe thấy c̣i báo rồi, sao lại c̣n có người ngồi ở đây?

Giao liên của Thảo vội tŕnh ra một tờ giầy, rồi nói:

- Báo cáo đồng chỉ, tôi được lệnh đưa đồng chí này mời ở bên Tây về, tới đây chờ để được kính chào “Bác”.

- Đồng chí đă chuẩn bị kỹ đối tượng chưa? Đă tập huấn những quy định để gặp “Bác” chưa?

- Báo cáo đồng chí, tôi đă chuẩn bị, chỉ dẫn đầy đủ rồi.

Chở khoảng mười lăm phút sau, lại một hồi c̣i tu huưt như tiếng sáo thật dài nữa vẳng tới, một toán bộ đội gồm bốn người, trong quân phục y như người tiền trạm, tay cầm súng trường Tiệp Khắc, đi tới vả nh́n ngó chung quanh, rồi nói câu ǵ với người tiền trạm rồi lại đi ngay. Bây giờ th́ tất cả người làm việc trong tiền trạm phải đi ra xa. Chỉ có một giao liên cùng Thảo là được ngồi đó chờ.

Lát sau nữa, lại một toán bộ đội đi tới gần khoảng năm mét, dừng lại, ghim súng trường chĩa về phía trạm giao liên, sẵn sàng can thiệp… Rồi lặng lể từ trong rừng sâu, xuất hiện một cụ già gày c̣m, khô khóc, lất phất chùm râu cằm, bước chân nhanh nhẹn, quần áo bạc mầu nâu nông dân, quần xắn lên gần đầu gối, tay cầm một khúc tre giả làm gậy, vai khoác tấm vải nhựa rộng như áo mưa màu xanh lá cây xậm, đầu đội mũ “cát” kiểu thuộc địa bọc vải, như loại công chức Tây thường đội, nhưng là màu xanh lá cây. Người ấy đi ngang qua, nh́n vào cḥi lá của trạm giao liên rồi cất tiếng hỏi, giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh:

- Đồng chí nào ở trong ấy đấy?

Giao liên của Thảo chạy ra, đứng thật, nghiêm cách khoảng ba mét, kính cẩn nói:

- Xin báo cáo Bác, con được lệnh đưa đồng chí Thảo mới ở bên Tây mới về, tới chào Bác!

Nói rồi, tay ra hiệu vẫy. Thảo vội bước ra, đi gần tôi, đúng khoảng ba mét th́ dừng lại, rồi cũng đúng rất nghiêm, im lặng chờ chứ không dám chào trước. Rồi “Người” tiến lại gần Thảo c̣n chừng một mét, nh́n chằm chằm vào Thảo, như lục soát trí nhớ, t́m kiếm điều ǵ, rồi nói:

- À! Chào chú Thảo! Chú về đây đă được bao lâu rồi?

Lúc đó Thảo mới dám đáp lại:

- Cháu xin kinh chào Bác! Cháu về đây đă được năm hôm rồi.

Người đưa tay phải tới, hai tay Thảo vội đỡ lấy bàn tay ấy. Bàn tay “lănh đạo” thật nóng ấm. Thảo cúi đầu, nắm chặt bàn tay ấy một hồi, rồi ngửng mặt lên nh́n kỹ “Người”, và nói với giọng run run v́ xúc động:

- Cháu rất vui mừng được về quê hương và được gặp Bác ở đây.

Nỏi xong mới buông bàn kia tay ra, nhưng vẫn đúng nghiêm và cố nh́n thêm cho kỹ khuôn mặt xương xương, khắc khổ, con mắt tinh anh, sắc bén, cũng đang chăm chú nh́n Thảo. Cái nh́n thật soi mói. Hai bên nh́n thẳng vào mặt nhau giây lát, Thảo bỗng rùng ḿnh, cảm thấy như bị một luồng khi lạnh truyền khắp thân thể, nên hơi run.

Rồi hơi ngầu ngừ, Người nói, với vẻ mặt thật nghiêm:

- À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đă đọc nhiều sách vở, nhưng bây giờ về đây th́ chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không! Thôi bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.

- Vâng, cháu xin tuân lời bác. Và cháu xin chào… Bác!

Nhưng “Người” đă quay mặt, rảo bước thật nhanh, đi ngay, không chú ư tới lời chào của Thảo. Cả đoàn tuỳ tùng, từ năy đứng tạo thành ṿng tṛn ở xa chung quanh, cũng vội vă đi như chạy theo.

Kể tỉ mỉ tới đó rồi bác Thảo tâm sự:

- Trên đường trở về, đầu óc tôi bị xúc động mạnh, cứ bối rối. V́ cuộc gặp gỡ chớp nhoáng, quá ngắn ngủi vừa rồi, không c̣n để ư tới cảnh vật chung quanh. Đi bộ xuyên rừng núi trở về tới “nhà” th́ đă gần tối. Giao liên phải ngủ lại đó, để sáng mai cuốc bộ trở lại trạm gốc.

Riêng Thảo th́ vẫn liên miên nghĩ ngợi, phân vân, cố ôn lại xem ḿnh đă có cảm giác như thế nào khi đă gặp “Người”! Mà tại sao “Bác” đă dặn đ̣ minh một câu như thế?

- Đêm ấy nằm mà cứ trăn trở, cứ chợp ngủ, rồi chợt thức, chợp mắt một lúc là đầy mộng mị kéo tới. Lúc tỉnh dậy mà vẫn c̣n bàng hoàng, toát mồ hôi. Sáng ra, tôi cố ổn định tâm thần, lấy lại b́nh tĩnh để suy nghĩ t́m hiểu về cuộc gặp gỡ vừa qua. Dĩ nhiên là “người” đă biết trước, đă cho phép, đă chấp nhận cho gặp, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ t́nh cờ.

Hai thắc mắc chính cứ dằn vặt trong đầu: Sự gặp mặt ngắn ngủi như vậy là có ư nghĩa ǵ? “Người” là thế nào? Sao mọi người bắt phái kính cẩn gọi “người” là “bác”? Sao “bác” lại nói với ḿnh câu ấy? Nó có nghĩa ǵ? Thảo nhớ lại lúc “bác” im lặng chằm chằm nh́n ḿnh, có lẽ “bác” lục lọi trí nhớ xem kẻ đứng trước mặt là người như thế nào, để suy nghĩ xem cần phải nói ǵ với nó. Sau chỉ ba mươi giây, mà sao như quá dài. Thảo không thể quên cái cảm giác thấy ớn lạnh, như chịu không thấu cái nh́n soi thấu tâm can, vào thân phận minh như thế. Cái nh́n ấy đă làm cho Thảo bỗng cảm thấy minh là một đối tượng “có vấn đề”! “Vấn đề” đây là đă bị nhiễm tư tưởng phương Tây, bởi đă đọc nhiều sách vở của phương Tây! Đúng là như vậy! Bởi thế mà “bác” không muốn hỏi han hay tỏ ra thận mật với một kẻ “có vấn đề đă bị nhiễm tư tưởng phương Tây”, dù là kẻ ấy mới từ bên kia địa cầu trở về! Và có lẽ v́ vậy mà phải nhắc nhở bằng một câu ngụ ư răn đe có ư chê “sách vở ở bên Tây” là vô giá trị, nên về đây là phải “học tập nhân dân”! Mà dĩ nhiên “nhân dân” đây là “đảng”, là “bác”, chứ không phải là thứ dân thường vất vả vẫn gặp ngoài đời: Mặc dù lần gặp gỡ ngắn ngủi này đă diễn ra hoàn toàn riêng tư, âm thầm, bí mật giữa “ông cụ” và Thảo, nhưng rồi sau nó đă được phổ biến rộng răi ở khắp nơi! Càng suy nghĩ về lần gặp gỡ, càng nghiền ngẫm lời khuyên bảo như một mệnh lệnh, càng t́m ra ư nghĩa một sự kiện chỉ dành riêng cho Thảo, vậy mà nó đă được rao giảng rộng răi trong giới trí thức… Tất cả vụ việc đó đă khiến Thảo nhận ra ḿnh đă bị lănh đạo dùng làm bài học: “đọc nhiều sách vở bên tây” có nghĩa là đă bị đầu độc (!?) nên bị nghi kỵ, kỳ thị, bị ghi vào một thứ sổ đen, trong danh sách những “kẻ có vấn đề”! Từ đó nảy sinh nơi Thảo mặc cảm là một “kẻ có vấn đề”. Mặc cảm này càng về sau càng được minh chứng bởi những khó khăn đă gặp trong cuộc sống hằng ngày, nó cứ đau đáu đeo đuổi, thường xuyên hành hạ, đe doạ tâm thần Thảo tới cuối đời. Càng suy nghĩ càng thấu cái đ̣n nghi kỵ của “bác Hồ”. V́ câu nói ấy, tuyệt đối chỉ có “bác Hồ” và Thảo biết thôi, vậy mà sau này nó đă được phổ biến rộng răi khắp dân gian! Điều đó chứng tỏ giây phút gặp gỡ chớp nhoáng ấy là cả một sự chuẩn bị để làm bài học răn dậy đám trí thức ỷ ḿnh có học, có bằng cấp của tây!

Rồi bác Thảo thú nhận:

- Từ đó tôi đă cố công gom góp những giai thoại, những nhận định của mọi người từng có dịp quan sát vị lănh đạo, lănh tụ này, để có một cái nh́n biện chứng về “ông cụ”, về “bác Hồ”.

- Vậy theo bác, “ông cụ”, “bác Hồ” ấy là người thế nào? Có ǵ là đặc biệt khác thường không?

- Có lẽ sẽ chẳng có ai có thể đưa ra một lời giải đáp giản dị về một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng ẩn hiện với quá nhiều huyền thoại đă được thêu dệt nên này. Những lời kể của mấy người có tŕnh độ, từng có kinh nghiệm về “ông cụ” mà tôi đă gặp và tôi thấy tin được, th́ đều nhấn mạnh rằng đấy là một nhà chính trị “hư hư, thực thực” rất khó hiểu! Người th́ định nghĩa vị lănh đạo này là “bốn chục phần trăm sự thật và sáu chục phần trăm huyền thoại”. Người th́ giải thích sở dĩ không thể có một cái nh́n chính xác, cụ thể về “bác Hồ” là v́ hành tung, hành tŕnh của “người” th́ đầy hoả mù, đầy mâu thuẫn. Chi tiết này phản bác chi tiết kia. Cuộc đời ấy là một hành tŕnh thành đạt rất gập ghềnh, đầy bí mật, khác lệ thường! Phải biết thật rơ từng bước thành đạt ấy, th́ mới hiểu được những quyết định lịch sử của “ông cụ”. Đó là cả một ư chí cương quyết vươn lên đỉnh cao quyền lực bằng bất cứ giá nào, với bất cứ phương tiện nào, với quyết tâm thoát ra khỏi số phận một con người b́nh thường. Từ ư định rất thực tiễn của lá đơn xin vào học trường Hành chính Thuộc địa, là trường dạy ra để làm quan phục vụ phong kiến, thực dân, nhưng lá đơn ấy đă không được chấp thuận. Rồi sau là những bước lưu lạc muôn nơi, muôn nẻo, phải thay tên đổi họ cả trăm lần, từ bước sinh hoạt trong đảng xă hội Pháp để rồi tham gia vào việc thành lập đảng cộng sản Pháp, nhưng cũng đă không mang lại lợi lộc ǵ… Sau th́ ngả hẳn sang phía Đệ Tam Quốc tế… nhưng rồi cũng tới những lúc bị bỏ rơi, bị nghi kỵ, bị tống khứ khỏi Liên Xô… Biết bao đoạn đường khó khăn, bao lần thất bại, bị ruồng bỏ, bị lên án, bị khai trừ… Tất cả những chướng ngại ấy cuối cùng đă tác thành một con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa nghi, có phản xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt kịp thời mọi cơ hội, dù là mâu thuẫn với lư tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng điều cốt yếu là để đạt tới mục tiêu. Với những kinh nghiệm của cuộc sống muôn mặt, muôn hướng, lúc th́ vịn vào bên này, lúc bám vào bên kia, cuối cùng “ông cụ” đă đạt tới vị thế tột đỉnh của quyền lực! Và những bước tiến thân khác thường ấy đă tạc ra một vóc dáng chính trị ly kỳ, muôn mặt, muôn vẻ….

- Nhưng về mặt tư tưởng th́ bác thấy cụ Hồ mang nặng những ảnh hưởng nào? “Ông cụ” có đúng là một nhà vô địch về tư tưởng mác-xít không?

- Bản thân “ông cụ” lúc thiếu thời th́ đă chứng tỏ ảnh hưởng rất sâu sắc của giáo lư Khổng, Mạnh như một nhà nho… Trái lại, dù đă dấn thân vào con đường cách mạng, rất ít khi nào ông cụ đi sâu vào lư luận, giảng giải về tư tưởng Mác-Lê. “Ông cụ” vẫn thường có những liên tưởng hồn nhiên tới đạo đức Khổng, Mạnh khi răn dậy cán bộ, khi làm thơ, làm vè. Làm thơ không phải do ngẫu hứng v́ hoàn cảnh để giết thời giờ, mà luôn luôn là do cuồng vọng và mục tiêu chính trị, để ca ngợi ḿnh, để tuyên truyền cho chế độ xă hội chủ nghĩa ở Liên Xô, ca ngợi thế giới đại đồng và nhất là để hô hào quyết chiến… Không thấy khi nào “ông cụ” đi sâu vào học thuyết, vào tư tưởng của Mác. Có lẽ “ông cụ” chỉ chú ư tới cách khai triển chủ nghĩa Mác của Lẻnine, của Stalin, của Mao nhiều hơn. Tôi không thấy có luận chứng chỉ rơ “ông cụ” là một người mác-xít. Nêu nói về tư tưởng cách mạng th́ “ông cụ” đă chịu nhiều ảnh hưởng của Lenin, của Stalin, của Mao, nhất là Mao. Phải nói thẳng ra là Mao đă như trực tiếp bẻ lái “ông cụ”. Cái mảng tối nên t́m hiểu là lúc được bố trí vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Tàu, với quân hàm thiếu tả th́ “ông cụ” đă tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc vào lúc nào, do ai đỡ đầu? Tuyên thệ như thế th́ có phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam hay không? Ngay sau khi vào tiếp thu Hà Nội, tôi đă được nghe kể nhiễu về “sự ưu ái của Mao chủ tịch vĩ đại” đối với “bác Hồ”. Một cán bộ từng là đảng viên kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc, sau cũng về theo phục vụ “bác Hồ đă khoe rằng Mao chủ tịch có con mắt tinh đời nên đă nhận ra tài lănh đạo của “đồng chí Lư Thuỵ”, lúc đó vừa bị Đệ Tam Quốc tế đuổi khéo về lại Viễn Đông. Chính Mao chủ tịch đă thu xếp, đề bạt để “bác” gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc và đưa vào làm việc trong Bát Lộ Quân, rồi chỉ đạo “bác” đứng ra thành lập đảng cộng sản Việt nam để kết nghĩa anh em với đảng cộng sản Trung Quốc. Và sau này chuẩn bị về cướp chính quyền ở Việt Nam… Câu chuyện này tôi đă có dịp hỏi đồng chí Hoàng Văn Hoan, từng được coi như là “gạch nối giữa “bác Hồ với Mao chủ tịch”, th́ được trả lời gián t́êp rất mơ hồ rằng “bác Hồ là đảng viên của đảng cộng sản Trung Quốc từ lúc đầu, ngày nay Mao chủ tịch và bác Hồ, tuy là hai nhà lănh đạo hai đảng, nhưng cả hai chỉ là một, v́ cùng một lư tưởng, một mục tiêu”! Bởi thế nên mới xảy ra vụ quân Tưởng xét giấy và khám thấy trong người “ông cụ” mang quá nhiều đô-la, khiến “ông cụ đi bị bắt…”. Những ràng buộc giữa “ông cụ” với đảng cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn này cho ta hiểu về sau tại sao đảng cộng sản Việt Nam đă được đảng cộng sản Trung Quốc tận t́nh trợ giúp đến như vậy. Và tại sao “đảng” đă chấp nhận phát động chính sách cải cách ruộng đất y hệt chính sách “thổ cải” của Mao ở Trung Quốc, mặc dù lúc đó chiến tranh bắt đầu bước vào giai đoạn quyết liệt, cần tới sự hi sinh của mọi thành phần dân tộc. Ai cũng biết “sự hi sinh là không phân biệt giai cấp”, tại sao lại phát động “phân biệt giai cấp” vào lúc ấy? Tại sao có sự tuân phục tuyệt đối đến mức ấy? V́ nhu cầu xin súng đạn? V́ ḷng khâm phục tư tưởng Mao Trạch Đông? Khi được hỏi tại sao “bác” không viết sách tư tưởng, th́ “bác” trả lời “…Tại v́ bác Stalin, bác Mao đă viết cả rồi”! Chẳng những thế, “ông cụ” c̣n khoe khéo rằng ngoài tư tưởng của Stalin, của Mao, “bác” c̣n am hiểu cả tư tưởng của Chúa, của Phật và cả của Mahomet nữa.. Nhưng lúc khuyên răn cán bộ, đảng viên, th́ “ông cụ” thường quen miệng nhắc đi nhắc lại những đức tính của đạo nho như “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư… “ông cụ” tỏ vẻ thấm nhuần đạo lư Khổng, Mạnh v́ biết xă hội ta chịu ảnh hưởng ấy. Theo tôi chiêm nghiệm th́ ông cụ không đọc kỹ sách vở của Marx, nhưng đă đọc cuốn “Le Prince “ (Ông Hoàng tử) của Machiavel… V́ cách “cầm quyền tuỳ cơ ứng biến” của ông cụ là đúng theo Machiavel, tức là tận dùng mọi cơ hội, mọi thứ quyền lực có thể có, lợi dụng mọi thứ có thể lợi dụng, để tỏ ra là kẻ có uy lực khiến người ta nể và sợ, để người ta phải sùng bái…

- Nhưng trong đời tư th́ “ông cụ” là người có tính t́nh, t́nh cảm thế nào?

- Về mặt t́nh cảm, theo tôi nghe kể, th́ “ông cụ” tỏ ra kín đáo khó hiểu. Các nhà nghiên cứu hàn lâm khi nghiên cứu vị lănh tụ này, thường nh́n “ông cụ” qua những Văn bản tuyên truyền của “đảng”. Các văn bản trong hành chính th́ chỉ mang tính giai đoạn. Mà văn bản chính thức của “đảng” th́ đă tô hồng nhiều, không mấy tôn trọng sự thật. V́ thế nên không thể hiểu nổi tính t́nh, cách hành xử trong đời tư của “ông cụ”. V́ thế nên rất khó mà có thể hiểu rơ được con người “ông cụ” về mặt chính trị, nhấi là về nhũng chọn lựa quyết định có tính cơ hội, giai đoạn vào những lúc dầu sôi lửa bỏng…

- Về mặt đời tư th́ chẳng hề thấy tư liệu nào dám đề cập tới một cách trung thực, thấu đáo. Bới về mặt t́nh cảm, gia đ́nh th́ đă có nhiều điều bị che giấu!

- Thật ra th́ ông cụ luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài khô khan, sắt thép, nặng lư trí đến vô cảm. Một cán bộ từng phục vụ gần cụ Hồ kể rằng “ông cụ” rất xa cách, lạnh nhạt với gia đ́nh họ hàng thân thích, không mấy khi nhắc tới nơi chôn rau, cắt rốn của ḿnh, muốn giấu kỹ gốc gác, chỉ v́ cái gốc của ông cụ không phải là họ Nguyễn…. Lúc đă thành danh, “ông cụ” cũng không tỏ ra thiết tha với những ràng buộc thân thiết với ông anh Nguyễn Sinh Khiêm và bà chị Nguyễn nhị Thanh… “ông cụ” chỉ miễn cưỡng vài lần chính thức về thăm lại quê cũ. Những lần gặp lại ông anh và bà chị cũng chỉ diễn ra kín đáo, rất ngắn ngủi như gặp những người dưng.

Những giai thoại về “cụ Hồ” th́ cũng đều chứng tỏ sự khô khan về mặt t́nh cảm gia đ́nh. Về mặt đối tác, cộng tác cũng vậy, trong những việc lớn hay nhỏ, ngoài ảnh hưởng tối cao của Marx, của Mao ra, chưa một lần “ông cụ” chứng tỏ đă nghe, đă chấp nhận ư kiến của một ai. Nói chi tới t́nh cảm, t́nh thương, t́nh nghĩa đối với một đứa con của tổ quốc, vừa từ bên kia địa cầu trở về, như trường hợp của tôi! V́ thế mà cho tới nay, chưa có ai đă khám phá ra hết mặt thật, hết những hậu ư của những quyết định mà “ông cụ” đă thực hiện trong bước đường tiến thân, trong chiến tranh, trong cách mạng!

 

Chương 12

 

 

Giải mă lănh tụ

 

Bác Thảo thú nhận là minh lúc đầu v́ c̣n trẻ, quá ngây thơ, nên đă kỳ vọng nhiều vào t́nh cảm của “ông cụ”. Cứ tưởng đấy là một con người b́nh thường, dễ kết thân, mà không hiểu được là trong thực tại cách mạng, đă có một khoảng cách khó vượt qua để tới gần được lănh tụ! Bởi chung quanh lănh tụ là cả một thành luỹ bè phái vây quanh, bao phủ, với những con mắt, nhũng cái tai, những bàn tay của những thế lục nghỉ kỵ nhau, ḱnh chống nhau rất phức tạp. Trong chế độ tương tự, trong đường lối hành động và tổ chức cứ như vậy, ngay từ thời Lénỉne, cho tới Stalin, cho tới Mao và nay tới thời “bác Hồ”, đă h́nh thành cả một truyền thống đối xử rất nghiệt ngă giữa các “đồng chí” ở cấp lănh đạo, ở cấp Trung ương. Họ đă từng hạ bệ nhau, từng chèn ép nhau không chút nương tay, không chút thương hại, để qua mặt nhau, để gạt bỏ nhau! Nói chi tới những kẻ bị xếp vào loại “đối thủ tiềm ẩn”, loại “có vấn đề”, loại phản động, kẻ thù…

- V́ thế càng về sau này, tôi càng khám phá ra rằng mọi cuộc gặp với “ông cụ” đều đă được chuẩn bị rất máy móc, đă qua sàng lọc kỹ lưỡng, trong quy tŕnh làm việc của lănh tụ. V́ bắt buộc phải giữ khoảng cách như thế, mà những lần gặp đă không tạo ra một cởi mở tự nhiên, cũng không th́ có một quan hệ hay trao đổi ǵ về mặt tư tưởng, cũng không có một xúc động t́nh cảm nào, ngoài sự xa cách, sợ sệt “đến lạnh cả thân thể”! Sau này th́ tôi mới hiểu rằng hi vọng đạt tới một sự thân cận, thân mật nào đó với lănh đạo là một điều không tưởng, không thể nào có!

Rồi bác Thảo phần trần:

- Tôi về nước với mộng ước được tham gia làm cách mạng, góp ư giúp dân, giúp nước, chứ không mưu t́m một địa vị trong quyền lực. Tôi nghĩ ḿnh phải giữ sao cho cái đầu và con tim như của mọi người, để có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của mọi người! Nhưng “ông cụ” th́ khác. Bởi “ông cụ” có cuồng vọng làm lănh tụ, muốn tận tay ḿnh dẫn dắt dân tộc từ thân phận nhược tiểu đi lên thế giới đại đồng. Muốn vậy, th́ phải nắm cho bằng được uy thế tột đỉnh, quyền lực trong tay, để chung quanh phải kính nể, kính phục mà tuân lệnh, mà sùng bái. Làm lănh tụ không thể là một người b́nh thường, càng không thể tỏ ra là tầm thường. Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy ḿnh ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lănh tụ! Đấy là tôi chưa bàn tới những bàn tay của bao phe phái quỷ quái, của cả ngoại bang… đang bao vây lănh tụ!

- Nhưng lần tỏ ra là tay ngang với lănh tụ là thế nào?

- Tôi nhớ rất rơ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi chiêu đăi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đ́nh với Pháp, v́ sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vă chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đă thân mật coi ḿnh như đứa em trong gia đ́nh…

Cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, th́ tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.

Tôi c̣n tỏ ra là ḿnh hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đă bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô h́nh cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”!

- Nghe vậy, th́ cụ Hồ đă có phản ứng như thế nào?

- Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt th́ vẫn lạnh lùng khi nh́n tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi th́ “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:

- C̣n chú Thảo này th́ cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris th́ có lợi cho cách mạng và cho chú hơn.

Tôi hơi bị bất ngờ trước lời khước từ đột ngột như thế. Tôi đă kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy.

Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:

- Thế th́ chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn th́ t́m cách lặn cho sâu, tránh cho xa lănh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đă khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đă tự tuyên án tử h́nh cho chính ḿnh rồi đấy!

- Sao mà anh sợ hăi, hốt hoảng quá vậy? Chuyện ấy xảy ra cũng đă lâu rồi, năm, sáu năm rồi. Chứ có phải mới hôm qua đâu. Mà có ǵ khiến anh hoảng sợ quá vậy?

Đa lại lắc đầu nói:

- Vậy là anh chẳng hiểu ǵ về “ông cụ” và đám người chung quanh “ông cụ” cả sống ở gần “trung ương” mà không hiểu ǵ về lănh tụ là điều nguy hiểm lắm đấy! V́ trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đă từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, th́ sau đều đă vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đă mất mạng, mất cả xác v́ dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.

- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?

- V́ vậy mà phải biết giải mă lănh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức ḿnh là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lăo gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ ḿnh là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế. Tất cả đều đă bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta ưa kể cho nhau nghe rằng Tạ Thu Thầu đă chết mất xác v́ cầu nói: “Ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”!

Rồi bác Thảo giải thích thêm:

- “Ông cụ” có quyết tâm không ǵ lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi tới thế giới đại đồng. Phải hiểu ư chí ấy, cuồng vọng ấy của “ông cụ;” Dù khó khăn mấy, hao tổn mấy th́ cũng phải hoàn thành cho bằng được. V́ thế nên “ông cụ” quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri của đạo lư… cứ như theo sách vở của Machiavel mà tôi nghĩ ông cụ đă đọc, và đă thuộc ḷng! V́ thế “ông cụ” thấy con dường chuyên chính vô sản của xă hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên nước ngoài đă không chú ư nhiều tới “cuồng vọng lănh tụ” ấy khi họ t́m hiểu “ông cụ”! Họ thấy phong cách lănh đạo của “ông cụ” như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy đă mang sẵn trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nh́n bị chói loà bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đă vô t́nh sử dụng quả nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của “đảng”. Họ đă không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng. Như vậy th́ làm sao họ hiểu hết được mặt trái, mặt phải “ông cụ”.

Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lănh tụ của “bác Hồ” là tác phẩm của cả một công tŕnh nghệ thuật hoá trang cao độ, một công tŕnh điểm tô, dàn dựng, để công kênh “ông cụ” lên thành một nhà lănh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thành, để dân chúng một ḷng tin tưởng mà sùng bái. Tất cả phải bày tỏ ḷng ḷng kính trọng; bằng tâm thức hănh diện tự nguyện làm vật sở hữu của lănh tụ như một vinh dự, một mẫu mực giá trị… “Ông cụ” được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lư tưởng: cái ǵ có giá trị th́ cũng phải là của “bác Hồ”, của “cụ Hồ!” Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, cây vú sữa “bác Hồ”, “nhà sàn bác Hồ” cho tới anh “bộ đội cụ Hồ”! Từ đó đă biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái ǵ hay, cái ǵ tốt, cái ǵ có giá trị… th́ cái đó phải là của “bác”, của “đảng”. Trong tuyên truyền có cả một “huyền thoại về quả cam” của bác Hồ: có cán bộ thơ, cán bộ chính trị, quan lại triều Nguyễn đă kể về thành tích được “bác Hồ” tặng một quả cam! Quả cam ấy đă được trân trọng đón nhận như một “ơn thánh thiêng liêng”, được mang ra chia sẻ cho cả gia đ́nh… Giai thoại “quả cam” được coi như biểu tượng cuồng tín của một “thứ phong kiến cộng sản”!

Trong tuyên truyền, người dân được dạy bảo phải một ḷng kính cẩn những ǵ liên quan tới đ̣i sống “bác Hồ”, nhưng thực tế thành công th́ trong hành động, người dân lại hiểu rơ kinh nghiệm linh động muôn mặt, muôn hướng, muôn phương cũng như hành tung bí mật, phức tạp của “bác Hồ”!

Đau đớn cho một nhà văn, khi vừa hoàn thành một tác phẩm, một bài báo ưng ư, hí hửng tới đưa cho chủ nhiệm đọc th́ bị chê: “Bài này thiếu tính bác, tính đảng, chỉ v́ trong tác phẩm, trong bài báo thiếu vắng cái phần không thể thiếu là phần công thức ca ngợi công ơn của “bác Hồ”. Tại sao một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của ỉănh tụ, của đảng cầm quyền? Đấy không phải là tâm thức của con người đă được giải phóng, mà đấy là tâm thức của con người đă bị dụng cụ hoá, nghĩa là đă mất tự do. Bởi phải tỏ ư nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tế, cho nhóm quyền lực “lănh đạo”! Đấy là do t́nh trạng đă của kẻ đă quá sùng bái, đă quá tin. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa “ngu tín”, chủ nghĩa “cuồng tín”. Phải giải mă cho cặn kẽ những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ư thức hệ th́ mới mong thoát ra khỏi t́nh trạng ngu tín và cuồng tín ấy.

Khi muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải t́m hiểu tất cả những công việc bố trí của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời sống công và tư, tuỳ thuộc tính t́nh, tuỳ cách xử sự trong gia đ́nh… tới cả các biện pháp tổ chức phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn dựng lên những giai thoại, tạo ra những khung cảnh huyền bí chung quanh ”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn sùng, thờ kính, phục tùng lănh tụ như thế, th́ mới có thể tương đối hiểu phần nào cung cách hoạt động, ư hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của lănh tụ. Tất cả phải là tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lănh tụ. Từ những quyết định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng phương pháp tâm lư tinh vi tôn sùng lănh tụ. Chính v́ sự sùng bái tuyệt đối này mà đă đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và tích cực của lịch sử. V́ khi khen quá, hay chê quá, th́ phải chối bỏ cái phần tiêu cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế th́ không c̣n ǵ là sự thật lịch sử nữa, mà chỉ c̣n là… huyền thoại đă đượt thêu dệt theo hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi đă thêu dệt huyền thoại th́ không c̣n giá trị khoa học của nghiên cứu nữa. Lịch sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có xấu thôi th́ không được. Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét vấn đề công, tội. Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. V́ dễ sa vào thái độ cực đoan! Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.

- Cứ theo thực tại mà xét, th́ “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu b́nh dân, từ cách để hở ra cái áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những cách thức phô diễn đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy tạo ra một thứ vương bào siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô sản! Vương miện của “Người” chính là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính khỉnh mạt, bất chấp thời trang quyền quư, quan cách, như thách thức cái lối ăn mặc sang trọng, hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự phỉ báng những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến. Lối ăn mặc cố ư tạo vẻ “b́nh dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh lùng, khinh bạc, cách nh́n thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức, cách hỏi han đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những dáng điệu, cử chỉ trong mỗi tấm h́nh, trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp… đều có cùng một mục đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng đỉnh của một vị lănh tụ tối cao sáng ngời, phi thường! Tất cả chi tiết ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đă được gạn lọc, đă được nghiên cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để h́nh ảnh “Người” không bị ch́m lẫn trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một thần tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử! “Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một cách nhầm lẫn, không để một mưu toan t́m ṭi khám phá nào có thể thẩm thấu vào những suy tư, vào những hậu ư, vào tư tưởng của “Người”!

- Đấy là bác nghiên cứu về mặt tư tưởng, của lănh tụ, thế c̣n về đ̣i tư trong ṿng bạn bè tri âm, tri kỷ th́ sao? Tại sao chẳng thấy có tư liệu nào, chẳng thấy ai nói rơ về khía cạnh ấy?

- Thực ra th́ “ông cụ” chọn lựa rất kỹ những “bạn hữu” như là đối tác của ḿnh. Những người được chọn, được giới thiệu ấy đều là những nhân vật có ảnh hưởng, có chút uy thế chính trị. Họ sẽ là những người được sử dụng như những bậc thang, để ”Người” đẫm lên đó mà đi tới đỉnh vinh quang. Thật sự là, khi đă đạt tới đỉnh quyển lực, th́ ông cụ đă phải sống trên đỉnh tháp ngà, không có bạn hữu thân t́nh, tri âm, tri kỷ nào cả. Không người thân thương để tâm sự, không người chân thành để đối thoại vui vẻ trong tóc nhàn rỗi, bông đùa khi trà dư, tửu hậu. Không bạn thơ, không bạn rượu; không cả bạn đời tâm t́nh thẩm kín riêng tư. Tất cả chỉ là những dụng cụ, cuộc đời khô khan của lănh tụ lịch sử, không có chỗ cho bạn tâm giao, tâm t́nh… mà cũng chẳng hề có đồng môn, đồng chí! Chỉ có những kẻ tỏ ra sự trung thành của đám bầy tôi, khúm núm chờ lệnh dưới ngai vàng của quyền lực, chỉ có những đối tác officiel (chính thức) trong chốn cung đ́nh, chính trường… Đa số những người được chọn đều là mấy nhà văn, nhà thơ, mấy nhân vật chính trị, mấy nhà văn hoá nước ngoài đă được guồng máy tuyên, truyền ca ngợi… Điển h́nh cho sự đề cao, đề bạt; một cách phi thường là trường hợp của nhà thơ Tổ Hữu, một cán bộ không có thành tích chính trị hay cách mạng ǵ xuất sắc nào ngoài, mấy bài thơ ca ngợi lănh đạo cách mạng. Đặc biệt là một bài thơ đă được đưa vào chương tŕnh giáo dục v́ nó hết ḷng ca ngợi, tôn thờ “bác Hồ”! Và v́ vậy mà “đụng tới Tố Hữu” là đáng tội phản động cách mạng.

- Nhưng khi đă ông cụ lên tới đỉnh vinh quang như thế th́ tại sao không thấy lưu lại một tác phẩm nào về mặt tư tưởng hay lư luận nào của “ông cụ”?

- “Ông cụ” đă giải thích rằng “v́ bác Stalin, bác Mao… đă viết cả rồi!”. Sự khiêm tốn của lời tuyên bố ấy đă làm cho máy tay trí thức có xu hướng sùng bái hiểu lầm. Với lời tuyên bố ấy, thật ra là ông cụ muốn nói rằng tư tưởng của “Người” là bao hàm, là gom thâu tất cả tư duy của các nhà tư tưởng lớn của cách mạng. Chẳng nhũng thế mà c̣n là của cả nhân loại, qua tất cả mọi thời đại của sử sách. Đă hơn một lần “Người” khoe khéo tư tưởng của Người là cả một kho tàng tư tưởng của các bậc tổ tiên, của các nền văn hoá xuất phát từ Khổng Tử, Trang Tử của Trung Quốc, cho tới Phật Thích Ca của Ấn Độ, cho tới Chúa Ki-tô của nền văn minh phương Tây! Rồi c̣n là tư tưởng của nền văn minh Ả Rập với đấng Tiên tri Mahomet, đấng đă hứa mang vào thiên đàng, những ai dám hi sinh ôm bom lao vào kẻ thù… Bởi các đặc công của “Người” cũng thường hi sinh, ôm bom lao vào… kẻ thù trong chiến tranh cũng như trong hoà b́nh, ở nông thôn cũng như ở thành thị như thế! Tự tôn là một căn bệnh tâm lư thường thấy nơi các lănh tụ độc tài trong lịch sử. Lănh tụ luôn luôn chứng tỏ ḿnh là đỉnh cao chót vót trong thiên thu lịch sử của tất cả các nhà tư tưởng cổ kim! Sự khiêm tốn, sự b́nh dân của lănh tụ chỉ là sự dàn dựng của một thứ mặc cảm tự tôn siêu đẳng! Nên nhớ là có khả nhiều tác phẩm đă hết lời ca tụng “ông cụ”, mà tác già cũng chính là “ông cụ”! Chính ông cụ đă tự xưng tụng minh là “Ái Quốc” là “Vương”, là “Chí Minh” cơ mà!

Sau khi dài ḍng nêu ra những đặc tính của lănh tụ như thế, bác Thảo nhấn mạnh:

- Thực tế mà nói th́ “ông cụ” biết rằng về tŕnh độ tư tưởng, lư luận cách mạng, th́ ḿnh làm sao so được với những Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ là những người đă được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy… Thế nên phải t́m cách chế ngự các đối thù ấy. Phải cố nêu gương, nêu phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra ḿnh là nhà cách mạng chân chính. V́ một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của “cụ Hồ”, lúc “xuất quỷ”, lúc “nhập thần” như thế nên không ai có thể sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân “Phải sống và làm việc theo gương bác Hồ”. Nhưng làm sao một người b́nh thường có thể sống với tung tích không rơ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như “bác Hồ” được! Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại của một cuộc đời phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề sang, hèn khác nhau… Hành tŕnh gập ghềnh, khúc khuỷu của ”bác Hồ” th́ khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học tṛ nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan Thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thuỷ, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm ái quốc “An-nam” viết báo, viết kiến nghị gửi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xă hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tầu, nay bị Đệ Tam Quốc tế loại trừ v́ có đầu óc “quốc gia chủ nghĩa hẹp ḥi”, mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung Quốc, ở Xiêm… rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu ŕa bên lề đại hội thứ V của Đệ Tam Quốc tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương… Rồi sau lại thấy “bác” xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi là trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc th́ sống y như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh… Sau biết bao truân chuyên, th́ rồi bỗng “bác” nổi bật như một nhà chính trị của mọi cơ hội, một lănh tụ của cách mạng! Một con người đa năng, muôn mặt, muôn ư, muôn hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy được!

Kể tới đó, bác Thảo thú nhận:

- Nhiều lúc cứ nhớ lại lúc ở Paris, với đầu óc non nớt bạch diện thư sinh, mà dám ăn nói lỗ măng như đă thân quen với “ông cụ” ngay lần đầu gặp gỡ! Nay nghĩ lại mà thấm thía ư nghĩa câu ngạn ngữ của Pháp: “có những lời nói đă tuyên án tử h́nh ngay kẻ vừa phát ngôn ra nó!” Sao mà đă dám hỗn xược, láo lếu, phạm thượng coi trời bằng vung đến thế! V́ cái tội phạm thượng ấy, mà hồi đó tôi đă bị bỏ lại Paris! Rồi sau này, khi về tới quê hương, th́ đă bị xếp ngay vào diện “có vấn đề”, nên cuộc sống đă gặp đầy khó khăn, vất vả như thế… Tất cả là do cái tội “đă đọc nhiều sách vở ở bên tây”! Rồi là kèm theo một lời dạy bảo như một mệnh lệnh “Phải… gắng mà học tập nhân dân!” Thật không có một đ̣n “chỉnh huấn” nào, không có một sự hạ tầng công tác hào nặng nề hơn cái lời nghiêm khắc ấy. “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng ḿnh đă đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi!

- Lời dạy bảo ấy đă như một tia sét cực mạnh đă đánh cháy tâm can, đến độ đă để lại vết hằn hối hận sâu hoắm trong kư ức của tôi… Rồi từ đó tôi mang nặng mặc cảm như đă phạm một thứ tội tổ tông không báo giờ gột rửa được nữa:

- Nghe bác tâm sự như vậy, tôi vẫn có cảm tưởng rằng bác oán hận “ông cụ” nhiều lắm, phải không?

- Anh vẫn lại hiểu lầm tôi rồi. Tôi không phải là kẻ ưa nói xấu, đổ ác cho ai. Với đầu óc một kẻ có học, có ư thức trách nhiệm, th́ mọi sự kiện xấu xảy ra cho ḿnh, trước mắt minh đều có lư do khách quan, chủ quan của nó, đều có lô-gích của nó… Trong chính trị cũng như trong chiến tranh, tác ứng dĩ nhiên gây phản ứng. Đẩy một kẻ, một phe vào thế thù địch, th́ dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng của kẻ thù ấy. Dùng thể du kích đại trà, chuyển quân như kiến, như muỗi vào rừng núi Trường Sơn th́ sẽ gặp chiến tranh “hoá học trừ kiến, trừ muỗi” đó lả hoá chất “da cam”!… Chiến tranh của hoá học, của điện tử, của “bom tinh quái”, của ḿn “ngửi hơi người”… Đấy là tương tác của chiến tranh của ta, của địch. Dùng du kích đại trà của ta th́ sẽ gặp phản ứng chống chiến tranh du kích đại trà của Mỹ! Biết quy luật, lô gích của chiến tranh là như thế th́ chẳng thể đổ riêng tội, riêng lỗi cho riêng một bên. Bên này tác ứng như thế th́, dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng như thế của bên kia, có ǵ là lạ đâu. Việc của tôi làm là lư giải, là chỉ ra cốt lơi, nhân quả của vấn đề. Nay già rồi mới thấy, mới hiểu thẩu hết những sự kiện, những di sản của nó, nên tôi muốn nói ra với mọi người, về những trải nghiệm đă giải độc, đă giải thoát chính tôi khỏi t́nh trạng bế tắc của oán thù. Bởi những sự kiện, nhất là những sự kiện xấu, th́ luôn luôn ám ảnh con người là tự nhiên. Riêng với dân ta, với cái đầu đă nhiễm thói quen cúi đầu, thụ động tiếp thu ư chí thù hận, với phản xạ hung bạo quyết tâm “giết thù”, như một giáo điều cuồng tín… Tất cả ảnh hưởng của những sự kiện ấy đều kích thích tội ác, đều là do mê muội, do ngu tín… V́ thế mà có kẻ không dám nghe tôi phân tích sự thật về cuộc đời ly ḱ, về những hành động khủng khiếp của “ông cụ”, v́ sợ bị liên luỵ. Sự thật là tôi chỉ muốn lư giải cái gốc của tội ác trong hoàn cảnh của con người. Phải tạo ra ư thức tỉnh ngộ, giác ngộ để giải phóng con người khỏi căn bệnh cuồng tín, ngu tín như thế, Phải nêu ra cái gốc của thảm kịch, cái căn nguyên nhân quả của bao nỗi vui, buồn, đau của dân tộc, và dĩ nhiên cũng là của chĩnh tôi. Tôi nghĩ phải làm sao cho dân ḿnh hiểu rằng “ông cụ” đă từ một cán bộ cấp thấp cho tới khi trở thành lănh tụ, th́ cũng có lúc đă có phản ứng của tội ác, đă vấp ngă. Ông thánh cũng có lúc phạm tội, nhưng hơn người ở chỗ sớm biết sám hối, biết hành động để chuộc tội… Chứ cứ quen thói hung bạo, quen thói cúi đầu sùng bái, rồi quy cho hoàn cảnh, cho số phận, đổ lỗi, đổ tội cho khách quan… th́ không được. Cứ suy tư, đổ tội như thế th́ xă hội rồi sẽ suy đồi, đất nước sẽ không trong sáng lên được. Thời cách mạng là thời có quá nhiều vấp váp, tội lỗi, quá nhiều “mảng” u tối, đa gây ra cái xấu, cái ác nên nó về lâu, về dài, đă gây tai hoạ cho cả dân tộc…. Đă sống trong thời đó, th́ nay mỗi người phải tự giải độc cái đầu minh trước khi giải phóng thân xác, thân phận ḿnh. Làm con người tự do là khó lắm: v́ con người luôn luôn phải gánh chịu những lời chỉ dậy đam mê, bị dẫn dắt tới ngu tín, cuồng tín, làm cho nó mất tự do!

- Vậy là bác muốn trút tất cả trách nhiệm vả tội lỗi lên những đam mê, cuồng vọng của “ông cụ” sao?

- Về vấn đề này th́ tôi phải nói rơ, phải giải thích cái cách nh́n của tôi. Thật sự là tôi muốn giải mă hoàn cảnh của “ông cụ” để tháo gỡ, để làm nhẹ một phần trách nhiệm, làm giảm một phần cả công lẫn tội của “ông cụ”, cũng như của chính tôi! Người ta thường cho rằng mỗi người đều có một định mệnh, một thân phận đă cố định. Quậy mấy cũng không thoát ra khỏi định mệnh, khỏi số phận mà ông trời đă dành cho. Tôi phủ nhận cách nh́n u mê thụ động của “số phận” như vậy. Tối nghiệm ra, và môn tâm lư xă hội cũng nh́n nhận như vậy, là mỗi con người sinh ra và lớn lên, th́ đương nhiên phải tiếp cận và tiếp nhận nhiều ảnh hưởng nặng nề của môi trường ấy… Ta có thể tạm gọi cái môi trường bao quanh, đè nặng lên, thẩm thấu vào mỗi con người như thế là một hoàn cảnh. Cái hoàn cảnh mà chung quanh đă tạo ra và đă tác động, đă tác thành nó. Đấy chính là cách nh́n của tôi. Nh́n như thế để thấy rơ hoàn cảnh của mỗi con người, để thấy bên trên, bên ngoài, mỗi con người, nhất là mỗi lănh tụ chính trị, đều có một bóng ma uy quyền lớn trùm kín lên nó, đè lên nó. Đấy là cách suy nghĩ của tôi. Khi gặp một trở ngại, gặp một điều không vừa ư, th́ phải dừng lại, để phân tích t́m hiểu, để nhận ra cái ṿng cương toả mănh liệt đang bao quanh hoàn cảnh… phải t́m cho ra cái bóng ma quái đang chi phối mỗi thân phận, như vậy mới có thể biết cách giải quyết, t́m ra lối vượt qua trở ngại, để thoát ra khỏi bế tắc… Nếu không th́ là tự minh cam chịu bị cầm tù trong bế tắc, để rồi c̣n chỉ biết oán hận, oán thù… Không biết các anh có hiếu hết ư tôi không? Phải giải độc, giải tà quá khứ của ḿnh, để giải phóng chính ḿnh, rồi từ đó giải phóng hiện tại, giải phóng tương lai…

- Bác nói như vậy là những việc làm, những ảnh hưởng xấu đều có một bóng ma quái đă đè lên thân phận của “ông cụ”, của bác, của cả dân tộc trong thời gian qua… phải không?

- Tầm nh́n như thế là để thấy toàn thể hoàn cảnh, vượt lên trên mỗi thân phận. V́ nh́n gần th́ tất cả đều như là tử “ông cụ” mà ra, mà có. Nhưng như đă nói, đó chỉ là một tầm nh́n hạn hẹp, nên chỉ thấy uy quyền trước mắt. Phải đưa tầm nh́n vượt lên trên, vượt ra rộng hơn, xa hơn, để t́m hiểu tại sao con người, tại sao từ dân tới lănh tụ cứ u mê cam chịu ngụp lặn trong bế tắc, tại sao cứ phải sống để gieo oán, gieo thù? Tại sao phải chấp nhận để oán thù làm động lực của hành động cách mạng? Ai, học thuyết, lư thuyết nào đă gợi ư, ai đă dạy ta phải biến oán thù thành động lực như thế? Xét như thế, th́ thấy tất cả đều phát xuất từ một học thuyết, từ một ư thức “đấu tranh giai cấp” mà ra… Và chính học thuyết ấy, giáo điều ấy đă tạo ra cái bóng ma quyền uy của Lenin của Stalin, của Mao và cả của Pol Pot nữa… Nhưng trên tất cả các lănh tụ ấy, lại là tư tưởng Marx! Thủ phạm gốc chính là Marx! V́ thế mà tôi phải phân tách những khía cạnh thực tế của con người “ông cụ”, để t́m hiểu cội nguồn, của những ảnh hưởng, những lập trường, những quyết định trầm trọng có tính lịch sử của “ông cụ”. Đối với những ǵ mà ta nh́n thấy, th́ những quyết định ấy, bắt nguồn từ tham vọng quyện lực, từ ư chí muốn học ra làm quan nhưng không được… Tới lúc vui mừng gập được tía sáng của học thuyết “giai cấp đấu tranh”! Rồi chấp nhận học thuyết ấy lấm kim chỉ nam để đi tới… Tất cả những bước đi theo hướng ấy đều tạo cợ hội để thành danh, thành lănh tụ. Để nắm bắt cơ hội ấy, th́ phải suy tư vô cảm, coi những đau khổ của con người là những hi sinh cần thiết. Những bước “cơ hội” vô cảm ấy chó phép tung hoành muôn mặt, muôn hướng, không biết thế nào mà lường. Chính “ông cụ” cũng biết, có những điều ông cụ làm, là điều không hay, nên “ông cụ” vẫn thường bảo những “đồng chí” chung quanh, những kẻ thân cận rằng “Bác làm ǵ kệ bác”

- Như vậy th́ tại sao bây giờ lại có phong trào kêu gọi noi theo gương “bác Hồ”?

- Xét rộng ra mối thấy tầng lớp lănh đạo sau này chỉ là cái đuôi… của tuyên truyền giáo điều máy móc, thiếu biện chứng, phản biện chứng! Vấn đề là không thể bắt buộc noi gương “bác Hồ”. Bởi cách sống muôn mặt, muôn phương, đa nguyên của “bác” đâu có phải là gương sáng! Bởi những điều “bác” đă làm nó rất khác, rất trái ngược với những lời “bác” dạy. Bởi đảng, nhà nước đă hành động muôn mặt như “bác” nên xă hội đă loạn! Trong thực tế đâu có ai sống theo lời dạy của “bác”! Tôi c̣n được biết rơ mỗi lần sắp xếp những ai được tháp tùng bác đi gặp các nhân vật nước ngoài, th́ bác thân chinh dặn ḍ thật là chi tiết, từ cách ăn mặc, cách nói năng, cách ứng xử phải như thế này, thế nọ. Và lời dặn ḍ luôn luôn được kết thúc bằng câu: “Các chú phải ăn mặc, nói năng, ứng xử thật đúng cách, c̣n bác ăn mặc ra sao, “bác làm ǵ kệ bác”. Thật sự là “ông cụ” biết việc ḿnh làm, thái độ giai đoạn, các quyết định cơ hội của ḿnh thường là không trong sáng, nên không muốn bất cứ ai được phép hành xử như… ḿnh, được phép bắt chước ḿnh! Khi gặp khách nước ngoài, đặc biệt là khi gặp người Pháp, th́ “ông cụ” ra lệnh đoàn tuỳ tùng phải ráng ăn mặc văn minh, sạch sẽ, hợp thời… C̣n “ông cụ” th́ mặc theo kiểu lănh tụ cách mạng Trung Quốc. Thư kư riêng Vũ Đ́nh Huỳnh trước khi được tháp tùng đi Pháp, th́ “ông cụ” đă bảo ông cứ mặc “complet”, thắt “cravate” cho thật đàng hoàng! C̣n “ông cụ” th́ vẫn cứ mặc theo kiểu cách mạng! Khi qua Trung Quốc thăm Mao chủ tịch, th́ “ông cụ” lại mặc một cách hơi khác đi một chút, với cái áo khoác pardessus bên ngoài cho có vẻ Tây phương, khác hẳn lối mặc của “bác Mao”. Khi sang Pháp để gặp các nhà lănh đạo Pháp, “ông cụ” c̣n phong ông Vũ Đ́nh Huỳnh làm đại tá “v́ ở bên tây, lănh đạo luôn luôn có aide de camp (sĩ quan tuỳ tùng) đi hầu cận!” Và từ đó ông Huỳnh cũng phải chịu khó tập chào cho đúng kiểu “bộ đội cụ Hồ”!

Về cách “bác” nể nang và bênh vực ông Vũ Đ́nh Huỳnh, có giai thoại do chính đương sự đă khoe ra rằng khi bị mấy uỷ viên trong bộ chính trị mách rằng “ông Huỳnh vẫn giữ thói ngông tiểu tư sản, lúc nào cũng quần áo ủi là thật thẳng, lúc nào cũng xức nước hoa “Rêve d’Or”, th́ ông cụ bênh ngay: “Ông ấy thích vậy th́ kệ ông ấy”. Việc Vũ Đ́nh Huỳnh được gọi bằng “ông” tức là đa có sự phân cách để cho thấy Vũ Đ́nh Huỳnh không phải là một “đồng chí”, nghĩa là không phải người của cách mạng, nên sẽ có ngày bị hất xuống vực thẳm một cách không thương tiếc. Và sau này th́ sự việc đă xảy ra đúng như vậy. Phải chi được “ông cụ” coi như con cháu, như gia nhân trong nhà th́ tương li, hậu vận mới khá được.

Những người thân cận c̣n kể rằng “ông cụ” rất chú ư cả tới cách nói năng, ăn mặc của cánh phục vụ. Mỗi trường hợp tháp tùng, đi ra bên ngoài, là cả một sự dặn ḍ, chỉ bảo thật kỹ từng chi tiết, vấn đề là cả một dàn cảnh làm nổi trội h́nh ảnh một lănh tụ giữa đám quần chúng b́nh dân bao quanh! Nghĩa là phải làm sao cho thật là nổi bật vóc dáng một lănh tụ, thật uy nghi, nhưng lại thật là hoà đồng, mà không bị hoà lẫn trong cảnh quan! Đây là một minh hoạ cho ngạn ngữ “chiếc áo đă làm nên thày tu”! Chính phong cách nói năng, ăn mặc của “ông cụ”, đă tạo ra một phong cách “lănh tụ cách mạng”, chứ không phải tŕnh độ lư thuyết, phương pháp lư luận! Không diễn thuyết, không viết sách để “đảng” và dân học tập, nhưng rất chú ư tới kỹ thuật dàn dựng bề ngoài: mỗi bức h́nh, mỗi kư sự phải là một “kiểu ảnh” để hậu thế chiêm ngưỡng! Phải chọn cận cảnh, viễn cảnh nổi nhất, phải cân nhắc đưa đẩy máy ảnh, máy quay tới lui nhiều lần để sao cho có một “thế đứng, thế ngồi” được “bác” chấp nhận, để lưu lại cho hậu thế!

V́ “ông cụ” là một nhà dàn cảnh chiến lược có tài, rất tỉ mỉ và khó tính. Bởi đối tượng trong h́nh, ở mọi t́nh huống, chính là “bác”, một lănh tụ luôn luôn muốn minh nắm độc quyền quyền lực.

Những ai đă trải qua, đă sống sót sau cuộc cách mạng, rồi th́ cũng đều có cái kinh nghiệm của “cụ Hồ” là phải biết vượt qua mọi trở ngại, trong mọi hoàn cánh khó khăn, để nắm bắt mọí cơ hội để vươn lên, để thành đạt, dù có phải đụng tới lương tri, đạo lư!

- Khi đă biết lănh tụ là như vậy, ai ai cũng phải chấp nhận là như vậy, th́ tôi đă có phản ứng đối phó. Một là cố gắng đổi dạng, học cách sống theo cách mạng, nghĩa là cũng áo quần nâu sồng, cũng ăn uống đạm bạc, cố tạo ra cái vỏ ngoài sống lam lũ như một nông dân bần cố. Cứ sống trong những điều kiện “vô sản”, để cố xoá đi những phô trương lỗ măng thời trẻ. Phải bằng cách này, cách khác, biết “cải thiện” ḿnh trước cái nh́n của đối tác, đối phương cực kỳ sắt thép, đối phương tức là “ông cụ”. Nhưng thật ra tất cả đều là vô ích. Bởi “ông cụ” đă có cái nh́n phân biệt, cái nh́n định kiến đối với tôi ngay từ lúc đầu như thế mất rồi. “Ông cụ” đă sắp hạng con người tôi như thế, tức là đă mặc nhiên tuyên một bản án bất thành văn, vô phương kháng cáo. Cách nh́n như thế không phải là của trí tuệ. Thật là đáng tiếc đối với một lănh tụ. V́ nó quá hẹp ḥi. Bởi cách mạng đă quen nếp hành động “chẳng thà bắt lầm chín đứa, để không cho một đứa chạy thoát”. Khổ thế đầy! Pascal, một nhà tư tưởng Pháp có viết: “Con người vừa là thiên thần, vừa là thú vật. Kẻ muốn làm thiên thần, th́ lại là làm thú vật”. Cách mạng muốn làm ông thành giải phóng con người, th́ lại là làm con quỷ bạo lực của hận thù để nô dịch con người. Lối hành động ấy là phản thần thánh, v́ là phạm tội ác!

Không giấu được phẫn nộ khi kể ra những kỷ niệm cay đắng về hai lần gặp gỡ đầy ấn tượng1 bế tắc với “cụ Hố” hồi ấy, bác Thảo nhái giọng Sài G̣n, nói với chúng tôi y như tự chế nhạo ḿnh:

- Hồi năm 1946, ở Paris, với vị thế từng được bầu làm “Đại diện cho kiều dân Đông Dương”, tưởng thế là ḿnh “ngon lành” lắm, sau lại c̣n dám to ra ngang hàng với lănh tụ, rồi có lúc c̣n ngoan cố toan tính đấu lư với đám cố vấn Tàu… Bây giờ nghĩ lại mới thấy “nói zậy” mà chưa mất mạng là may lắm!

- Theo bác th́ tại sao bác không bị thanh toán như những kẻ đă dám tỏ ra ḿnh ngang hàng, là đối trọng với “bác Hồ”?

- Cái đó là do tôi đă sớm đề pḥng; V́ thế mà tôi mới sống sót cho tới ngày nay. Thứ nhất là tôi giữ ư, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu t́m một vai về chính trị nào, tuyệt đối không mưu t́m gặp gỡ, kết thân với những trí thức, để tránh bị coi là có ư gây phe phái ở chung quanh. Bởi chung quanh ông cụ đă có quá nhiều phe phái ŕnh rập nhau. Lúc nào tôi cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. V́ tôi biết quanh tôi toàn là những con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác… của các cục “bảo vệ A này, A nọ”. Sống trong một xă hội ngu tín, của thời cuồng tín như thế không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!

- Lúc có dịp nêu những ư kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, th́ tôi luôn luôn phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng đảng”. Đă nhiều lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi chỉ ước ao được học tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng tỏ một sự đầu hàng “lănh tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót… Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn tới một thế lực đă bảo vệ tôi, đó là sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ đă tận t́nh tỏ ra chăm sóc, theo dơi hoàn cảnh và sức khỏe của tôi khi họ biết tôi đang bị ḱm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm hỏi và đôi khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ c̣n đ̣i qua tận Việt Nam để thăm tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng ông và đám bạn bè của ông rất quư trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. V́ thế, tuy bị cánh tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể của trí thức của thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đă có sự e nể đối với tôi. Lúc tôi lâm nguy tới tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ cực đoan đă chụp lên đầu tôi cái tội đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản cách mạng của bọn đệ tứ”! Nhưng v́ “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó c̣n ra những tṛ ǵ”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn. Hơn nữa, những nhận xét phê b́nh của tôi, chính “ông cụ” và mấy tay lư thuyết của đảng cũng không bắt bẻ được, nhưng v́ địa vị thượng đỉnh của “ông cụ”, v́ cố giữ “chuyên chính vô sản”, nên họ không thể chấp nhận ư kiến phản biện có tính dân chủ của tôi. Ngay trong lúc có cải cách ruộng đất, dân kêu than, khóc lóc quá th́ “ông cụ” cũng biết đấy. V́ thế mà “ông cụ” đă khôn khéo ra chỉ thị “không được dùng nhục h́nh”, nhưng chỉ thị ấy đă bị cất xó, để sau này làm sử liệu, chứ nó không hề được phổ biến, rộng răi. Bởi c̣n ư kiến có tính mệnh lệnh của Ban cố vấn, là phải thẳng tay “phát động đấu tố để tạo khí thế cách mạng”…

- Khổ thế đấy! Và v́ vậy mà tôi muốn nhấn mạnh tới hoàn cảnh phải chịu sức ép cũng không mấy vinh quang của “cụ Hồ” trong suốt thời gian phát động chiến tranh! Muốn qua sông phải luỵ đ̣! Muốn có vũ khí làm chiến tranh th́ phải nghe người ta, phải kiêng nể cố vấn, nên cũng đành phải hi sinh một phần uy quyền, chủ quyền. Chứ ḿnh có tự chủ hoàn toàn như ḿnh muốn đâu. Lúc đó lănh đạo đang bận tâm v́ chiến tranh, không ai nghĩ tới chuyện phát động cải cách ruộng đất dă man như thế. Nhưng, như tôi đă nói, trên mỗi thân phận đều có một bỏng quyền lực ma quái hơn nó bao trùm, nó ép, nó đè… Trên thân phận. Trần Đức Thảo là cái bóng ma quyền lực Hồ Chí Minh, nhưng trên thân phận Hồ chí Minh lại là cái bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao! Nhưng xét cho cùng, th́ trên tất cả những thân phận lănh tụ cộng sản, đều có cái bóng ma vô cùng vĩ đại, vô cùng áp đảo của Marxí Nhưng mà riêng đối với tôi, th́ trên tất cả và tận cùng, qua bao tiếp cận thực tại tàn nhẫn của cách mạng trong một thời gian dài, th́ nay tôi mới nhận ra là c̣n có một quyền lực lớn lao vô cùng, vô tận của sự thật, của lương tri… nó đè nặng lên đầu óc Trần Đức Thảo, nó phát xuất từ sự đau khổ của dân tộc Việt trong cuộc cách mạng này. Đó cũng là những đau khổ vô cùng của con người trong các cuộc cách mạng bằng bạo lực của hận thù ở Nga, ở Trung Quốc, ở ta, ở Campuchia… Chính v́ đă đẩy tầm nh́n lên thượng tầng của tư tưởng, đưa lư luận, lư giải tới tận cùng của lương tri như vậy, th́ phải nh́n thấy rơ cái gốc của mọi sai lầm và tội ác của cách mạng và của chính ḿnh! Muốn phân tích rơ mọi sự th́ phải là một cuốn sách vĩ đại… Bây giờ th́ chỉ có thể bàn trong giới hạn của một vài chi tiết, một vài khía cạnh mà thôi.

- Như mọi người đă thấy đấy, chỉ v́ ảnh hưởng của ư thức hệ mà chưa bao giờ ở đất nước này lại thấy có một chính quyền, một đảng chính trị lại vâng lời, lại phục tùng, lại sùng bái con đường hùng bạo của đáng cộng sản Trung Quốc đến mức đó. Cứ như ḿnh là con đẻ của đảng cộng sản Trung Quốc. Mà sự thực là như thế! Dĩ văng ngàn năm Bắc thuộc đâu dễ ǵ xoá đi được. Rồi với hàng vận cán bộ của “đảng ta” đo Trung Quốc đào tạo về mặt ư thức hệ nữa… V́ hiểu rơ t́nh trạng ấy, nên tôi cố gắng t́m luận chứng phản biện thật sáng tỏ, để thuyết phục lănh đạo, để tránh những bước mù quáng quá trớn tai hại trong giai đoạn bị thôi thúc phải chuẩn bị mở lại chiến tranh. V́ làm chiến tranh th́ phải nhờ vả, quỵ luỵ bên ngoài, tức là phải sùng bái anh cả đỏ Trung Quốc, chứ tay không th́ đánh ai được. “Ông cụ” cứ tưởng có thể làm chủ t́nh h́nh trên đất nước của ḿnh, cứ tưởng có thể tung hoành áp đảo dư luận quốc tế… nhưng kỳ thực là trên bàn cờ quốc tế, ở thời nào cũng vậy, một lănh tụ nước nhỏ luôn luôn hứng chịu sự khuynh đảo tàn nhẫn của các thế lực nước lớn. Đang lúc chiến tranh sôi động trên đất nước, mà phải chấp nhận khuyến cáo của Trung Quốc phát động cải cách ruộng đất theo y như lối “thổ cải” dă man của Mao ở Trung Quốc như thế, th́ đó là một nỗi nhục, nỗi đau của “ông cụ”. Khi phải mang bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của cách mạng ra mà bắn như thế, mà chính “ông cụ” đă nh́n nhận là ḿnh không muốn như vậy, th́ đấy là một thú nhận nỗi bất lực, một mối nhục lớn của “ông cụ”! Chung quy chính “ông cụ” cũng bị chi phối bởi những thế lực luôn luôn có cái nh́n quyền lợi, cái nh́n chiến lược toàn cảnh, toàn cầu, cái nh́n “ảnh hưởng”, “thế lực” của họ. Trung Quốc nó muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc. Tôi đă hơn một lần nhắn nhủ, cảnh giác cấp lănh đạo cách mạng rằng trong lịch sử thế giới, chưa hề thấy có trường hợp một nước lớn nào có chính sách chịu hi sinh, để mà giúp đỡ vô tư, để chi viện vô vụ lợi cho một nước nhỏ bao giờ đâu. Các nước lớn không bao giờ quên quyền và lợi của họ… Trong lịch sử nước ta từ trước tới nay, và cả về sau này, Trung Quốc đă, đang và vẫn sẽ là cái bóng ma quái vĩ đại, măi măi đè nặng lên đất nước, lên lănh đạo, lên lănh thổ của chính chúng ta!

Bác Thảo lắc đầu ỉm lặng một hồi rồi nói tiếp:

- Bởi có cái nh́n như thế nên tôi bị ganh ghét, tuy chưa bị tiêu diệt, nhưng cứ bị trừng phạt bằng cách để cho sống dở, chết dở, lúc nào cũng như có thanh kiếm treo lơ lửng trên đầu. Dù bị canh chừng, bị đe doạ, nhưng tôi vẫn kiên trl lập trường, để tiếp tục là tôi, thế nên phải sống khổ. Cứ như ḿnh muốn khổ chứ không muốn sung sướng, không muốn được ưu đăi! Bi hài là như thế!

Bác Thảo kể tới đó rồi bỗng cười rũ đến chảy nước mắt làm chúng tôi ngạc nhiên. Bác kể ra những gian nan khổ cực của bác với một niềm kiêu hănh, tự đắc. Cứ như là những nỗi đau khổ ấy là những thành tích của mối t́nh lăng mạn giữa bác với cách mạng, giữa triết học với chân lư. Lúc tâm sự, bác thường mỉm cười tê tái, trong khi mắt ngấn lệ. Chúng tôi tuy cũng có lúc phải mỉm cười theo, nhưng rồi cũng chảy nước mắt. V́ thấy nhà triết học của chúng tôi lấy tay áo chấm nước mắt mà vẫn cứ cười như đứa trẻ! Thật là thê thảm!

Rồi bác Thảo ôn lại tâm trạng ḿnh ở Paris hồi ấy. Lúc thấy phái đoàn Hồ Chí Minh về nước… cùng bốn trí thức Việt kiều, mà ḿnh th́ bị bỏ lại! Thật là mất mặt cho kẻ cứ tưởng ḿnh là một tay mác-xít có hạng, tràn trề hi vọng, tưởng ḿnh sẽ rất là tâm đầu ư hợp với nhà lănh đạo kháng chiến và cách mạng ấy!1

Bác Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay chuyến ấy là ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Vơ Quư Huân, Vơ Đ́nh Quỳnh, và bác sĩ Trần Hữu Tước. Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có nhiều kiến thức về vũ khí nên đă được tin dùng đặc biệt. Và đă được “cụ Hồ” đặt cho một tên mới là Trần Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu tiên của chiến khu, rồi sau được ca ngợi như là người đă sáng chế ra loại súng chống tăng, mang tên SKZ (Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:

- Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa. Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế.

Kể tới đó, bác Thảo lại mỉm cười tề tái! Trên mặt khô héo của nhà triết học luôn toát ra nỗi buồn, nhưng vẫn cứ giấu nó sau nụ cười mỉm. Đấy không phải là thứ cười vui, mà chỉ là một thứ cười đă phai bạc, đầy gian truân, đắng cay… muốn khóc! Đấy là thứ cười cố hữu của con người khổ ải, thường để che giấu thân phận tủi nhục, u buồn của ḿnh. Nụ cười héo hắt ấy rất thường gặp trên môi mỗi con người cùng khổ. Đến nỗi dân ta đă nổi tiếng là “cái ǵ cũng cười”, lúc đau khổ cũng vẫn cứ… cười!

Rồi bác Thảo c̣n thành thật thú nhận:

- Hồi ấy, không được cùng về với phái đoàn “cụ Hồ”, tôi cảm thấy bị coi thường, nên tự ải bị va chạm nặng. V́ vậy lại càng có quyết tâm mưu tính cho bằng được sự trở về sau này! Nay nghĩ lại mới hiểu rơ v́ sao lúc đó tôi đă bị bỏ lại, và rồi không được tin dùng sau này: chỉ v́ đă lỗ măng phạm thượng, nhưng có lẽ công và tội nặng nhất của tôi là đă có những suy nghĩ, nhận định nghiêm trọng trước mấy vấn đề lớn. V́ thế mà đă vô t́nh đụng tới những tính toán của lănh đạo, của “đảng”! Đó là việc tối kỵ không ai dám làm. Nhưng v́ tính nghiêm trọng ấy mà tôi thấy phải nói ra. Chung quạnh ông cụ người ta chỉ quen khen nịnh thôi. Tôi muốn thay đổi cách làm việc như vậy. Bởi đằng sau những vụ việc được đề cao là những hậu quả nặng nề và lâu dài có những chọn lựa tưởng là tốt đẹp, nhưng với thời gian, nó sẽ mang lại những tai hại lớn lao. Dù là chọn lựa hay quyết định của lănh đạo th́ cũng có lúc sai. Tôi không thể giữ im lặng trước những cái sai ấy. V́ thế người ta không muốn cho tôi tiếp cận lănh đạo một cách thân cận. Luôn luôn có một bức tường ngăn cách.

- Thế th́ bác chỉ được gặp “cụ Hồ” có hai lần ấy thôi à?

- C̣n nhiều lần gặp mặt sau này nữa chứ, nhưng những lần gặp ấy th́ là sự tham dự ở ṿng ngoài, nghĩa là do sự sắp đặt, để trang trí theo ư muốn của quyền lực, của cơ quan, cơ chế, chứ không phải là được mời để có tiếp xúc riêng, để tạo quan hệ thân mật với lănh tụ. Trong những lần gặp theo chương tŕnh đă sắp xếp của “tổ chức”, nên giữa “bác” và tôi, chúng tôi không hề trao đổi với nhau một câu nào có tính thân t́nh, tâm sự về một sự cố hay vấn đề nào đó… Như tôi đă được tập huấn ngay từ đầu, trước mặt “bác” tôi không được tự ư nói câu nào “ngoài chương tŕnh”, ngoài lễ tân!

- Như vậy là những lần gặp gỡ ấy, thật ra cũng là vô ích!

Cũng không hẳn là vô ích đâu. Bởi mỗi dịp nêu ra được một điều của lê phải, của sự thật, để rồi nó lọt đến tai lănh đạo hay ai đó th́ cũng như ḿnh gieo trồng được một mầm tốt. Nhưng nếu cái hạt mà minh gieo đó bị coi là hạt xấu th́ ḿnh sẽ phải trả giá. Tôi c̣n nhớ một lần gặp gỡ rất bí mật, không thể nào quên. Lúc đó là cuối năm 1964, tức là hoà b́nh sau hiệp định Genève đă gần mười năm, nhưng cả miền Bắc th́ đang sôi sục ngầm chuẩn bị mở chiến tranh nổi dậy một cách quy mô ở miền Nam. Bỗng một cán bộ Trung ương tên là Sông Trường, tới bảo “bác” ngỏ ư muốn nghe tôi phát biểu về đề tài “chiến tranh và hoà b́nh”, tại phủ chủ tịch. Và tôi được biết rơ là buổi thuyết tŕnh này chỉ dành riêng cho một số người rất hạn chế, rất thân cận của “bác”. Lệnh đó đă làm tôi suy nghĩ rất kỹ. Bởi lúc đó trong dân chúng, nhất là tại nông thôn, nơi không có tai mắt của quốc tế, đang dấy lên phong trào hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Các địa phương đang thi đua thành tích “giao quân”. Khắp nơi tràn đầy bích chương, pa-nô kêu gọi “v́ yêu nước, yêu xă hội chủ nghĩa, phải hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự”!

Thật tế là lúc ấy, trong mỗi gia đ́nh dân chúng, đang rạo rực mối lo “đảng” chuẩn bị mờ lại chiến tranh quy mô xuống miền Nam. Bởi trong dân chúng những tin tức Trung Quốc đang ùn ùn chở vũ khí nặng vượt qua biên giới vào cho ta, rồi lệnh gấp rút thu gom thanh niên đi làm “nghĩa vụ”… Do đó tôi cố t́m hiểu tại sao “bác”, là người chẳng ưa ǵ tôi, mà nay lại muốn nghe tôi thuyết tŕnh về một đề tài đang làm cho dân chúng lo âu, đang được bàn tán, tuy âm thầm nhưng rất là sôi nổi, trong thời sự.

Cán bộ phủ chủ tịch cho biết “bên trên” ra lệnh cho tôi phải chuẩn bị kỹ bài nói chuyện, và yêu cầu tôi đưa tŕnh bài đă soạn để “trên” duyệt trước. Thế nhưng tôi cố ư chỉ đưa trước một dàn bài tóm lược đại cương với hai phần chính. “Một lá cách đánh giá nhu cầu và di sản của chiến tranh. Hai là cách đánh giá nhu cầu và di sản của hoà b́nh, Và phần kết luận: cách đánh giá thắng và bại qua những di sản của chiến tranh và của hoà b́nh”. Tôi không đi sâu vào chi tiết trong dàn bài đưa tŕnh, là có ư để không gặp cấm cản những điều mà tôi muốn nói, mà có lẽ “bác” và những người chung quanh cũng không muốn tôi nêu ra. Trong bài thuyết tŕnh, tôi đă cố phân tích thật sâu sự kiện “chiến tranh” và sự kiện “hoà b́nh”, qua quá tŕnh lịch sử đương đại, với cách nh́n triết học phê phán đối với ỉịch sử. Tôi ôn lại những bài học của lịch sử, để nhấn mạnh tới sự độc hại không thể nào kể xiết của chiến tranh. Bởi nhu cầu chiến tranh đ̣i hỏi thật nhiều mưu trí, thủ đoạn. C̣n hoà b́nh bền vững đ̣i hỏi phải có trí tuệ thật là trong sáng, minh bạch. So sánh con người của chiến tranh với con người của hoà b́nh về mặt lương tri đạo đức th́ sẽ thấy rơ đâu là giá trị đích thực của chiến tranh, của hoà b́nh. Hơn nữa, hai cuộc đại chiến tranh thế giới đă kết thúc với thắng lợi của phe cắc nước dân chủ tư bản ở châu Âu, đă để lại những bài học đắt giá.

Bởi sự thật là sau mỗi lần chiến thắng, châu Âu đă thụt lùi một bước về mặt uy thế đối với thế giới, v́ suy yếu, v́ đă kiệt sức đến phải nhờ vả, phải vịn vào Mỹ để đứng dậy! Từ đó, nhất là từ sau đệ nhị thế chiến, Mỹ đă trở thành cường quốc số một, một cách không thể chối căi, c̣n châu Âu th́ đă vĩnh viễn mất hẳn vị trí đứng đầu thế giới. Các nhà sử học và xă hội học c̣n ghi nhận, về mặt văn hoá, nhân văn, về mặt trật tự, kỷ cương và đạo lư, th́ c̣n người thời hậu chiến đă bị suy thoái về tất cả các mặt ấy. Hai nước chiến bại là Đức và Nhật đă vươn lên thành hai cường quốc kinh tế nhờ họ là nước thua trận, không có quyền thành lập quân đội. Do đó dân của họ không bị gánh vác nặng nề những chi phí quốc pḥng trong một thời gian dài. Nghiên cứu về hiện tượng ấy cho phép đánh giá cái hại lâu dài của chiến tranh, dù là đă đại thắng. Bởi cái giá phải trả sau khi chiến thắng th́ rất là đắt. Những chiến công hiển hách, có thể mang ra ca ngợi trong hàng ngàn trang sách.. Nhưng nỗi đau, nỗi khổ mà các dân tộc phải chịu do hậu quả chiến tranh th́ lâu dài, không có giầy bút nào có thể kể ra cho hết. Cụ thể cho thấy cái lọi về cách sử dụng hoà b́nh một cách tuyệt đối, nghĩa là không phải dồn nỗ lực vào guồng máy chiến tranh đă cho phép các dân tộc quanh ta tránh được bao đau khổ, không bị trong t́nh trạng thua kém, tụt hậu như nước ta, dân ta. Vả lại nhờ chính sách tận dụng hoà b́nh mà Đức và Nhật đă qua mặt những nước chiến thắng như Anh, như Pháp. Kinh nghiệm ấy là một bài học quư cho nước ta.

Thực tế là t́nh trạng miền Bắc ta, cho tới lúc này (1964), cũng chưa xoá bỏ được nghèo khổ, dù là việc kư kết hiệp định hoà b́nh ở Genève đă mười năm. Đời sống nhân dân ta c̣n vô cùng tối tăm về mọi mặt. Thế mà nay ta lại phải lo mở lại chiến tranh trong những ngày sắp tới đây. Mà nước ta vẫn chưa làm ra được súng đạn, th́ dĩ nhiên phải nhờ vả trầm trọng vào nước ngoài, về mặt vũ khí, về lương thực… Sự nhờ vả ấy sẽ là món nợ vô cùng nặng nề. Nó sẽ là một di sản lâu dài của chiến tranh. Bởi chiến tranh, đối với loài người, là một độc dược với muôn vàn “hậu quả độc hại từ bên trong”, về lâu về dài. Chiến thắng chỉ mang lại phần thưởng vinh quang cho một thời gian nhất định. Nhưng di sản tai hại trầm trọng của nó, ngoài những thiệt hại về nhân mạng, về đổ vỡ trên lănh thổ, c̣n là sự đổ vỡ thấm sâu trong tinh thần, trong nếp sống, trong nếp suy nghĩ, trong đầu óc con người. Bởi chiến tranh lâu dài sẽ tồn đọng trong đầu óc, thành một thứ văn hoá chiến tranh. Nó làm cho con người trở thành hung bạo hơn, gian xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, trong hành động, trong nếp sống hằng ngày. Bởi con người chiến thắng sẽ khoe khoang, sẽ thành kiêu binh, sẽ tin tưởng vào những xảo trá, quỷ quyệt đă dùng để đánh gục quân thù! Nhưng rồi nó tồn đọng như những món nợ vật chất và tinh thần, trong thể xác và đầu óc con người và xă hội. Đó là những món nợ văn hoá trong lối sống… lối suy nghĩ, mà các thế hệ mai sau không thể nào thanh toán cho hết được. V́ thế mà người xưa, sau chiến thắng, th́ đă phải vội ra chính sách “an dân”, để cố tẩy xoá ngay lối sống, lối suy nghĩ của chiến tranh, để cho người dân an tâm mà làm ăn… Ta th́ sau khi thắng xong, là lại lo áp đảo tinh thần đề huy động dân chúng, để phát triển “xă hội chủ nghĩa”, rồi tiếp tục cổ vũ hận thù triệt để, để chuẩn bị mở lại chiến tranh!

(Cũng nhân đây, phải lưu ư rằng ở châu Âu, có hai nước đă coi nhau như kẻ thù truyền kiếp, quyết không đội trời chung là Đức và Pháp. Nhưng những lănh đạo có trỉ tuệ, biết nh́n xa, đă hoá giải được moi thù truyền kiếp ấy bằng hoà giải, để rồi Pháp và Đức ngày nay đă trở thành cột trụ của nền hoà b́nh và thịnh vượng của châu Âu, do châu Âu chứ không c̣n là do Mỹ cho châu Âu! Đấy là một kinh nghiệm, là một bài học hoà b́nh và thịnh vượng, mà ch́a khoả là sự công nhận giá trị của nhau, kính trọng nhau để cộng tác với nhau mà đi tới).

- V́ thế, khi đă có hoà b́nh mà không cấp bách và tích cực xoá bỏ cho nhanh, cho hết nếp suy tư, nếp ứng xử quá khích, xảo trá thời chiến trong xă hội, xoá sạch hậu quả của những thói quen quá trớn của chiến tranh, để cho dân thay đổi cách nghĩ, cách sống, để cho cuộc sống trở lại lương thiện b́nh thường, th́ rồi sẽ khó tránh được, những hậu hoạ xă hội suy tàn là di sản lâu dài của chiến tranh. Sau chiến tranh mà vẫn duy tŕ nếp sinh hoạt của thời chiến, vẫn phát triển các chính sách của bạo lực, vẫn quen dùng thủ đoạn tuyên truyền dối gạt của chiến tranh, th́ xă hội sẽ măi măi sống trong căng thẳng, trong những phản xạ tàn bạo… như vậy là độc tố chiến tranh đă nhiễm sâu vào con người, vào xă hội. Như vậy là di sản chiến tranh vẫn tác hại trong thời b́nh, giữa chúng ta với nhau. Vậy là những chiến thắng cuối cùng đă đưa tới toàn là tai hoạ. Chiến thắng như thế cuối cùng là một thất bại. V́ không phải là thắng, và cũng chẳng phải là lợi. Chúng ta cũng nên chú ư rằng nhờ bao tổn thất và hi sinh của ta trong chiến thắng Điện Biên, mà Trung Quốc đă có cơ hội lên mặt kẻ cả của một đại cường quốc ở hội nghị Genève khi bàn về ngưng bắn ở Việt Nam. Bởi Trung Quốc đă từng bị mất mặt khi phải kư kết chấp nhận đ́nh chiến ở Triều Tiên… Thế nên Trung Quốc đă có ư đồ phục thù trong chính sách giúp ta đánh đuổi Pháp, để gỡ danh dự. Cứ xem như việc Mao chủ tịch, vừa mới thắng Tưởng Giới Thạch, vừa mới nắm được chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, th́ đă vội xua quân qua chiếm Tây Tạng năm 1950! Rồi sau đổ đă thúc Bắc Triều Tiên mở chiến tranh để xoá ảnh hưởng Mỹ ở Nam Triều Tiên. Nhưng rồi Trung Quốc đă thất bại sau khi phải xua quân qua cứu Bắc Triều Tiên, và rồi đă phải kư một cách khiêm tốn hiệp định đ́nh chiến tại Bàn Môn Điếm, phải chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài ở Nam Triều. Tiên… Mà Nam Triều Tiên đứng vững không chỉ do Mỹ, mà c̣n là do dân ở đó không ưa “cộng sản”. Đó là những điều ta phải suy nghĩ cho kỹ để rút kinh nghiệm cho tương lai của ta. Ta phải cân nhắc kỹ lại về việc kư kết và thi hành hiệp định Genève mà ta đă kư năm 1954. Tôi muốn gợi ư ở phần kết luận bài thuyết tŕnh với kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á này: chiến tranh không phải là một giải pháp tốt. Mà những hậu quả tai hại của chiến, tranh th́ không thể lường hết được, mà cũng không thể nào thanh toán hết được.

V́ đă ư thức nỗi lo sợ của dân chúng trước viễn ảnh và nguy cơ mở lại chiến tranh, nên tôi buộc ḷng phải nhấn mạnh tới hậu quả tai hại, với hi vọng mỏng manh là nếu không thể ngăn chặn, th́ ít ra cũng tŕ hoăn được thêm một thời gian nữa dự tính mở lại chiến tranh xuống miền Nam. V́ đứng trên quan điểm của con người trong lịch sử mà xét, những tiếng gào khóc của hàng triệu sinh linh trong chiến tranh và sau chiến tranh, dù cho có bao nhiêu bia tượng, đền đài miếu mạo ghi công, tưởng nhớ đến muôn đời sau, th́ cũng không thể nào an ủi được những nỗi đau, không thể nào đền bù được những mất mát và tàn phá do chiến tranh gây ra, mà dân chúng đă phải gánh chịu măi măi cho tới sau này.

Để chấm dứt bài thuyết tŕnh, tôi đă chậm răi nói dằn từng chữ:

- Có một sự thật có thể gây tranh căi, nhưng không thể nào chối căi được, là chiến tranh luôn mang theo những hậu quả vô cùng tai hại. V́ nó làm băng hoại xă hội, v́ nó phá hoại hạnh phúc con người… Chỉ có hoà b́nh mới tạo cơ hội xây dựng được no ấm và hạnh phúc, tạo ra được một xă hội có căn bản luân thường đạo đức, trật tự kỷ cương.

Nghe tới câu ấy, “bác” thay đổi thái độ: đang ngồi nghe một cách vô cảm, với dấu hiệu mệt mỏi, bỗng cau mặt, đứng phắt dậy, mím môi, chau mày, có vẻ không vui ra mặt, rồi vỗ tay sơ sài, lẹt đẹt, làm như thế “bác” chỉ chờ cho tôi chấm dứt. Gần chục người chung quanh, h́nh như đa số là của “bộ chính trị”, cũng phải vội vă đứng đậy vỗ tay hời hợt theo cho phải phép. Rồi “bác” vừa đi ra, vừa ngoảnh mặt nói vọng lại với tôi:

- Chú Thảo nói hay lắm. Cám ơn chú! Bây giờ bác phải về làm việc.

Tôi đă cố quan sát thật kỹ thái độ, dáng điệu lúc bác ngồi nghe. “Bác” đă giữ vẻ mặt trầm tĩnh cho tới lúc đứng dậy, đổi ra mặt cau có, rồi vứt lại một lời cảm ơn, như miễn cưỡng, để vội vă đi ra, bước thật nhanh, không vui chút nào khi rời pḥng hội. Những người chung quanh cũng phải vội vă chạy theo. Chỉ có một người bước lại gần, tươi cười nói khẽ và vội một câu, như để an ủi tôi, đó là tướng Giáp:

- Được “bác” khen như thế là tốt lắm. Thế là thành công đấy!

Nhưng tôi th́ đứng lại đó, bơ vơ, lo âu, suy nghĩ về câu khen “nói hay lắm” mà “bác” vứt lại khi bước ra khỏi nơi họp. Tối cứ băn khoăn ngẫm nghĩ về thái độ của lănh tụ với câu “khen” ngắn ngủi ấy. Chờ măi hồi lâu, cho tới khi một cán bộ của phủ chủ tịch bước tới để dẫn tôi ra về bằng cổng sau…

Đấy là thêm một lần, tôi đă có dịp t́m hiểu cách ứng xử của “ông cụ” đối với tôi. Thật sự là cuộc gặp gỡ, buổi thuyết tŕnh ấy đă không làm “ông cụ” vui. V́ nội đung bài thuyết tŕnh đă nhấn mạnh tới nhũng hậu quả vô cùng tai hại của lá bài chiến tranh! Và rồi tôi cũng không vui với lời khen mỉa mai “nói hay lắm!” (nhưng ư không hay?) ấy. Bởi tôi biết việc kư và thi hành hiệp định Genève như thế, là để chuẩn bị mở lại chiến tranh, tức là vĩnh viễn xé bỏ hiệp định! Bởi trong hiệp định, có các khoản cam kết của các nước chù tŕ hội nghị dùng đế bảo vệ cách thi hành, nhưng chẳng thấy ta dùng tới những cam kết ấy. Ngoài ra, tôi c̣n nhắc khéo tới ư đồ bành trướng của Trung Quốc trong vụ vội vă “giải phóng” Tây Tạng… Nhất là trong lúc toàn miền Bắc ta c̣n nghèo khổ mà đă lăm le mở lại, mở rộng chiến tranh xuống miền Nam! “Ông cụ”, với nét mặt nghiêm trang, lạnh lùng, có vẻ đă mỏi mệt, nên đă không giấu được thái độ bực bội, như là vừa làm một thử nghiệm không vừa ư, với một kẻ “có vấn đề”, nên nét mặt đă chuyển ngay sang cau có, khó chịu vào phút chót ấy. Và câu “Chủ Thảo nói hay lắm!” đă như một gáo nước lạnh hắt vào mặt tôi. Bởi nếu thật sự đồng ư với tôi, dù là chỉ một phần nhỏ thôi, th́ ít ra cũng lại gần tôi mà trao đổi vài câu, và bắt tay để nói lời khen ấy. Nhưng đây lại là một câu nói miễn cưỡng vứt lại phía sau, trong khi vội vă bước ra khỏi pḥng hội. Chung quanh tưởng đấy là một lời khen, nhưng kỳ thực chỉ có tôi hiểu đấy là một lời phê phán nặng nề: “Nói th́ hay lắm, nhưng ư tứ th́ không hay chút nào”! Chỉ có tôi là người trong cuộc, đang sống trong ṿng cương toả của “Người”, mới cảm nhận, mới hiểu rơ ư nghĩa thâm thuư của từng câu, từng chữ của “Người”! Rồi tôi lại nghĩ cho dù “ông cụ” có muốn kéo dài thêm thời gian hoà b́nh để kiến thiết xử sở, nhưng c̣n có uy lực của Mao nó ép phải mở lại chiến tranh th́ sao? Vấn đề nó thâm sâu, tàn nhẫn và phúc tạp vô cùng!

- Thế sau lần gặp đặc biệt ấy, bác c̣n được gặp lại cụ Hồ nữa không?

- Cũng c̣n, nhưng những lần gặp sau này th́ thật ra là chỉ thấy “ông cụ” thôi chứ không được tới gần. Bởi những lúc đó, tôi chỉ là kẻ tháp tùng ở ṿng ngoài, như một cán bộ tới góp mặt trong một buổi tiếp tân, chứ không phải là tới để có thể trao đổi vài câu với “ông cụ”. Vả lại, v́ tôi không biết a dua, tâng bốc, nịnh nọt như mọi người, nên không khi nào được bố trí để “ông cụ” tỏ vẻ thân thiện, nói chuyện với tôi. Nhưng tôi cũng đă biết, trong nhiều buổi tiếp tân, lễ hội, lúc “ông cụ” xuất hiện, tươi cười đảo mắt nh́n nhanh mọi người, nhưng cái nh́n ấy bỗng trở thành nghiêm nghị, ngập ngừng, dừng lại đôi chút, rồi quay quá chỗ khác khi thấy tôi: Có lẽ lúc đó “ông cụ” nhận ngay ra “kẻ có vấn đề” là tôi cũng có mặt ở đây. Cảm nhận do kinh nghiệm đă trải qua, tôi biết đối với ban lănh đạo sau này, do nhận định tôi vẫn là “kẻ có vấn đề”, nên các lănh đạo khác cũng dị ứng, luôn luôn giữ khoảng cách, tránh không tới gần tôi để trở chuyện, dù chỉ là xă giao, khi họ nhận ra tôi ngay trong đám đông. Sở dĩ tôi thường được mời tới dự các buổi họp mặt có tính tuyên truyền và ngoại giao, như vài trí thức khác, v́ Trung ương có ư dùng sự có mặt của chúng tôi như một yếu tố trang trí, ra điều có đông đủ các thành phần trí thức. Trong những dịp đó, chỉ có vài vị khách nước ngoài là muốn lại nói chuyện với tôi, v́ họ đă biết tôi từ trước…

Đă hơn một lần, tôi được nghe mấy trí thức khoa bảng than rằng “ông cụ” rất cảnh giác với những kẻ có bằng cấp. Chỉ những kẻ khiêm tốn, tạng khúm núm vâng lệnh, ngoan ngoăn đi theo phục vụ “bác” từ thủa hàn vi, th́ sau này mới được tin dùng, và được đề bạt cất nhắc lên. “Ông cụ” là một mẫu lănh đạo c̣n mang nặng tâm thức thời phong kiến phương Đông cổ xưa, cũng y như Mao Trạch Đông, rất tự tin vào tài đa mưu, túc trí của ḿnh, nên coi đám học thức “không bằng một cục phân”. Hơn nữa, “ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong ṿng thân cận “ông cụ”, không hề có một chuyên viên tri thức nào cố bằng cấp tốt nghiệp Đại học cả. Chỉ toàn là những hầu cận, cận vệ ít học được “ông cụ” đào tạo, để phục tùng, th́ sau đều được “ông cụ” đề bạt lên thành tướng, thành giám đốc, thành bí thư v v… C̣n giới học thức chỉ được làm việc ở ṿng xa bên ngoài. Bởi “tổ chức” muốn bố trí để “ông cụ” nổi bật trong đám người ít học, y như một đại bàng chúa tể, bày lượn trên đỉnh Thái Sơn của quyền, lực, ngó xuống chốn sơn lâm chính trị thấp kém bên dưới với con mắt nghi kỵ, khinh mạn, với cái nh́n vô cùng sắc bén, thấu hiểu đầu óc từng người… để dễ phân biệt kẻ cận thần, với những đối thủ tiềm ẩn. “Ông cụ” có tâm thức cảnh giác của một lănh tụ cách mạng như Stalin, như Mao… Khốn nạn cho kẻ nào bị “tổ chức” đánh giá như là một địch thủ tiềm năng đối với “ông cụ”! Tôi nhận thấy các nhà sử học khi nghiên cứu về “bác Hồ”, đă chỉ căn cứ trên những tư liệu của đảng cộng sản, nên không thể nào nh́n rơ sự thật; không thể nào hiểu rơ cái biện chứng duy tâm, duy ư chí của lănh tụ, nên họ không thể hiểu nổi “ông cụ”. Bởi họ chỉ nh́n thấy “lănh tụ” qua lăng kính đẹp đẽ, sáng chói của bộ máy tuyên truyền. Không biết nên đánh giá như thế nào đối với nhũng bộ óc thông thái, uyên bác “kinh điển” mà cứ trích tư liệu tuyên truyền của đảng cộng sản như là trích ra từ một thử thánh kinh! Họ chỉ là những ông thầy bói mù được sờ vào, không phải là một con voi, mà là một con khủng long ba đầu, chín đuôi!

Có một điều rất đảng tiếc là các nhà sử học khi t́m hiểu về “cụ Hồ” đă bỏ qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực do chính đương sự là tác giả… Đó là ư nghĩa của những biệt hiệu hay những tên giả mà chính “cụ Hồ” đă tự đặt cho minh qua từng giai đoạn mưu t́m con đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát t́m cách tiến thân, t́m đường hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng nước ngoài khá ngộ nghĩnh! Nhưng đáng cầu ư là từ khi tự đổi tên là Tất Thành (1911) (với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ hành đạt…), rồi cho tới, sau này th́ bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa, coi ḿnh là bậc Chí Minh! (1945). Nói chung là với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế đă phản ánh một cách chân thực, những bước chuyển biến trong đầu óc của “ông cụ”. Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước, có ư nghĩa trong hành tŕnh vươn lên, đi tới để trở thành lănh tụ. Đấy là quá tŕnh diễn biến của sự h́nh thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lư chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (“Ái Quốc”), là một lănh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh)! Thật ra th́ trong xă hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể là do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử mà được người đời sau công nhận là xuất sắc, là xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng đây lại là do chính “đương sự” ngay trong hiện tại đầy vấp váp, mà đă tự ḿnh “tặng” cho chính ḿnh! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu ốc tinh táo, có liêm sỉ, một bộ năo minh triết th́ không bao giờ dám tự ư xưng ḿnh là “Vướng”, là “Ái Quốc”, là “Chí Minh”… như thế. Thật khó mà giải thích một kẻ tự coi minh là “ông vua”, là bậc “quân tử” siêu phàm, mà lại có hoài băo làm một nhả cách mạng, một chiến sỹ vô sản, cộng sản! Sự công khai tự tôn vinh ḿnh lên một cách quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh…! Đây chỉ là những biểu hiện của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ măng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lí trí, liêm sỉ, đạo lư… Khi tự xưng tụng minh một cách thượng đỉnh, tối cao như thế th́ chỉ có thể là v́ đă quá khao khát danh vọng. Đấy rơ ràng là một khát khao hành động của một cuồng vọng. Ngoài ra c̣n có thể t́m hiểu nội tâm, chỉ hướng của nhân vật lịch sử này qua một công tŕnh phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng cầu mang nặng một khát vọng trong hai tập sách tuyên truyền “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” để thấy rơ từng bước chuyển biến tâm lư, từ lúc chỉ mong được nhận vào học Trưởng Thuộc Địa của “mẫu quốc Pháp” với hi vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở thành một lănh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ măng của cuồng vọng như thế, mà “ông cụ” đă tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo, một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lư để ”cướp quyền”, để thành công, để chiến thắng! Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch của lịch sử! Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái ḿnh như thế, chúng ta có thể hiểu “lănh tụ” là người cố đầu óc, có tâm trí, có đạo lư như thế nào! Napoléon, Hitler cũng đều đă là những lănh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tinh quái như thế! Bởi họ c̣n thua “bác Hồ” ở chỗ họ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính ḿnh! Thật t́nh, một người hết ḷng v́ nước v́ dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, th́ không thể tự khoe ḿnh, tự viết sách để ca tụng ḿnh một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy. Không ít người bênh vực nói “nhờ vậy mà “ông cụ” đă làm nên lịch sử”. Xét tới tận cùng lư luận trên những cơ sở như thế, cho phép ta giải thích những điều đă định hướng cho những hành động, những chọn lựa “khó hiểu, khó chấp nhận” của “bác Hồ”! Lịch sử đă mang dấu ấn của một tham vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn như thế. Hậu thế, phải đặt trên cơ sở phân tích thực tại đó, để mà có thể hiểu rơ vấn đề công tội, đạo đức của ”ông cụ”…

- Cứu xét như thế, th́ bác thấy những chọn lựa nào, những phán quyết định nào của “ông cụ” là thuộc về công, phần nào là thuộc về tội?

- Không thể dễ dàng đưa ngay ra một lời đáp thoả đáng cho câu hỏi rất quan trọng này. Có lẽ; phải nhiều thế hệ sau, có khi phải hàng trăm năm sau, qua những công tŕnh nghiên cứu tập thể nghiêm túc, khách quan th́ may ra mời có thể đưa ra một kết luận có giá trị. Nhưng tôi nêu ra vấn đề là muốn mỗi người chúng ta, tự xét xem dân tộc đất nước đă thự hưởng những ǵ, đă chịu đựng như thế nào những di sản, những hậu quả mà sự chọn lựa lịch sử của “cụ Hồ” đă mang lại… rồi từ đó mà tự đưa ra lời giải đáp chân thực cho riêng ḿnh. Khi cân nhắc những chọn lựa, những quyết định có tính lịch sử của “cụ Hồ” th́, về lâu, về dài, sẽ thấy phần lợi, phần hại là như thế nào. Tôi tin chắc rằng mỗi người dân, từng trải nghiệm đầy đủ những hậu quả của những chọn lựa hay quyết định ấy, sẽ có thể rút ra một kết luận công bằng để mà luận công tội cho “ông cụ” mà sẽ không cần phải tranh căi với ai… Cái đó là tuỳ mỗi trải nghiệm của mỗi người, tuỳ theo những vui sướng, những đau khổ hôm qua và hôm nay, của mỗi người.

- Nhưng bác có thể nêu ra chọn lựa nào, quyết định nào đă mang tính lịch sử trọng đại của cụ Hồ được không?

- Thú thật là tôi đă từng có nhận xét phê phán về những chọn lựa và quyết định tốt và xấu có tính lịch sử của “ông cụ” trước vài cán bộ cao cấp trong “đảng”, khi nêu ra những thắc mắc lớn như dựa vào ư thức hệ cộng sản để giành dộc lập th́ là tốt hay xấu, nhất là khi so sánh với những nước đă giành được độc lập quanh ta mà họ đă không dùng tới ư thức hệ ấy… Nhưng chung quanh đă can tôi, đă khuyên tôi không nên đụng tới những điều nguy hiểm nhậy cảm, có thể bị mất mạng đó. Có người đă bỏ chạy không dám ngồi nghe tôi phân tích v́ sợ liên luỵ… Kể lại chuyện này để cho các anh thấy việc đánh giá công tội ông cụ là việc làm vô cùng nguy hiểm, vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh hiện nay ở trong nước, đó là điều không thể nào làm được…

- Nhưng ít ra th́ bác cũng có thể nêu ra vài thí đụ chứ?

- Như tôi đă nói, đánh giá sự chọn lựa này là tuỳ theo người, tuỳ theo hoàn cảnh. Những cán bộ đảng viên nhờ “đảng” mà đă có cuộc sống giàu sang, có và địa vị th́ dĩ nhiên họ sẽ nói tốt cho “bác Hồ”. Những người phải gánh chịu phần thiệt thời và đau khổ v́ những chính sách của “bác và đảng” th́ họ sẽ nói là xấu. Riêng trường hợp của tôi th́ lúc đầu tôi cho đó là một chọn lựa tốt, là đúng, nhưng rồi càng về sau, tôi càng nhận ra rằng chọn lựa ấy đă đưa tới t́nh trạng không thể sửa đổi, không thể thích nghi với xă hội ta, với văn hoá của tổ tiên ta, v́ cứ dập khuôn theo đúng mô h́nh nước ngoài, nhất là của Mao, th́ đó thật sự là một chọn lựa xấu, rất xấu, v́ nó hoàn toàn sai, sai từ cái gốc học thuyết, sai từ lư luận… Tôi chỉ mới hé mở, nêu ra sơ sơ như thế mà đă bị vĩnh viễn đẩy ra bên lề chính trị. Nhưng v́ thế mà “ông cụ” vẫn muốn theo dơi đầu óc tư tưởng, lư luận của tôi… Nếu cứ bảo lưu cái ư thức hệ “duy nhất đúng” này th́ dĩ nhiên sẽ có ngày nó bị đào thải bẵng sự đổ vỡ thảm khốc! Và cho tới nay, ở vài nơi, ta đă thay nhiều lần xảy ra những đổ vỡ như vậy.

- Thế c̣n các lănh đạo khác, sau “bác Hồ”, th́ họ có chú ư tội tư tưởng của Trần Đức Thảo không?

- Vẫn có chứ! V́ họ lúc nào cũng e ngại, nghi ngờ tôi. V́ tôi lúc nào cũng cố bắc cầu, bắn tiếng, t́m cách truyền đạt những điều hay, lẽ phải của sự thật, Thế nên lúc náo họ cũng muốn theo dơi xem ư kiến của tôi là như thế nào, tuy họ rất e ngại và không ưa những ư kiến ấy. V́ những góp ư của tôi luôn luôn hướng về chân thiện mỹ, nên đôi khi họ cũng đồng ư cho tôi gặp một cách miễn cưỡng.. Tôi c̣n nhớ lần gặp gay go với tổng bí thư Trưởng Chính, sau cái vụ tôi vùng lên muốn đấu lư với cố vấn Trung Quốc. Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẩn th́ rất gờm tôi, v́ biết tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. C̣n một lần gặp riêng ông Lê Duẩn th́ rồi ông ấy cũng không ưa tôi, v́ lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư, ông ta muốn tôi chấp bút viết hồi kư cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả tiếng đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả lời thẳng là tôi nghe ông nói mà không hiểu ǵ cả! V́ thế sau này ông ấy cũng cay ghét tôi, đến nỗi không muốn sự có mặt của tôi ở những nơi ông đi qua… Lúc tôi vào Sài G̣n th́ được nghe những câu chuyện ly kỳ của phe chủ chiến đến cùng, mà đứng đầu là cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ… Phe này đă gây bè phái, rồi nắm được đa số trong bộ chính trị, đến mức đă chèn ép, cô lập được chính cả “cụ Hồ” trong giờ phút nghiêm trọng. Bởi lúc ấy “ông cụ” h́nh như muốn xây dựng một miền Bắc xă hội chủ nghĩa cho thật là ấm no trước đă. Vơ Nguyên Giáp là người “nhất trí” với “ông cụ”. V́ thế mà cánh Lê Duẩn đă phê phán, phao ra lập luận là “Giáp sợ Mỹ”. Chính cánh này c̣n t́m cách triết hạ uy tín của Giáp bằng cách tung tư liệu chứng minh Giáp là con nuôi tên trùm mật thám Marty, Giáp thắng trận Điện Biên là nhờ mấy tướng Trung Quốc “bày binh bố trận”. Trong giới đảng viên cao cấp có cả một giai thoại ly kỳ về “âm mưu cất cái mũ phớt”, v́ Giáp là đảng viên duy nhất vẫn ưa đội mũ phớt kiểu công tử Hà Nội khi đi t́m cách mạng! Giai thoại này chứng tỏ chung quanh “ông cụ” có nhiều phe cánh ĺnh chống nhau, ngầm hạ uy tín của nhau rất là tản nhẫn: Vả điều đó cho thấy “ông cụ” lúc lên tới đỉnh cao quyền lực th́ đă lâm vào hoàn cảnh của một phù thuỷ không c̣n điều khiển được đám âm binh hung bạo, tuỳ tiện, hỗn xược đo chính ḿnh đă tạo

 

Chương 13

 

 

Thân phận những con rối!

 

Rồi bỗng bác Thảo tự gỉễu chính ḿnh:

- Lúc ấy tôi tự mắng tôi: “Mày muốn làm cái anh vô sản chính cống nên bây giờ túng quẫn, c̣n than khổ, than đói nỗi ǵ nữa?” Thật sự là cảm thấy chính ḿnh đang là thẳng ngớ ngẩn. Bị mấy ông nhà văn, nhà thơ chế giễu là tên ngớ ngẩn! V́ hắn không biết noi gương “bác Hồ”, nên bị thằng lớn nó đ́, thằng nhỏ nơ giỡn mặt. Thế là nổi lên tiếng tăm của anh gàn, anh bướng, anh khùng. Lức nào cũng sống như một anh hề ngơ ngác để chung quanh giễu cợt. Nhưng khổ nỗi là không được no đủ như anh hề trong gánh hát mà chỉ là anh hề đói khổ trong cuộc đời! Bỗng thấy anh hề Trần Đức Thảo sống sao mà ngu si, đần độn quá, nên nhịn cười không được. Phải bật phá lên cười, cứ cười như người… điên. Mà điên thật! Cười đến phát khóc! Ha! Ha! Hà! Bố mẹ nuôi nấng, cho sang Tây ăn học, nay trở thành thằng điên, thằng khùng trong xă hội! Ha! Ha! Ha!

Kể tới đó, bác Thảo ngưng cười, thở dài, lắc đầu, nhưng rồi bỗng lại bật tiếng cười rũ rượi, hồn nhiên, cười đến chảy nước mắt, phải lấy tay áo chấm mắt mà vẫn c̣n cười sặc sụa! Chúng tôi kinh ngạc, đầy thắc mắc v́ cơn cười lạ lùng ấy. Đấy là cơn cười đậm nét cay đắng, đau khổ, chứ không phải v́ vui. Nhưng bác lại có vẻ tự đắc v́ chính nỗi gian truân, khổ ải của ḿnh. Bác hănh diện giăi bày cái khốn khổ ấy như nêu một thành tích của một trí thức Chúng tôi nh́n cảnh ấy mà không cười theo được, v́ thấy thảm quá.

Đă hơn một lần chúng tôi ngồi bàn với nhau về nụ cười Trần Đức Thảo! Bởi thật sự là trong những lời tâm sự ấy, chẳng có ǵ vui để cười. Cảm tưởng là con người này không phải sinh ra để vui sống, để làm một thẳng hề, mà chỉ có thể là một thân phận bị lưu đầy, trong một đại bi kịch.

- Tại sao bác lại có thể bật cười như vậy? Bác không thấy sống như thế là bi thảm sao?

- Tai tôi bỗng nhớ lại một mẩu chuyện cười, nó khơi dậy cả một giai đoạn bi hài trong cuộc chiến tranh được gọi là “chống Mỹ cứu nước”.

Lúc đó dân chúng đă kể cho nhau nghe để mà cười cay đắng với nhau, Đó là vào đầu năm 1973, khi vừa kư kết hiệp định Paris để kết thúc việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. “Đảng” rầm rộ tuyên truyền là ta đă buộc được Mỹ phải kư kết hiệp định để rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đảng nói đấy là cuộc đấu trí “thần kỳ” giữa hai bộ óc được coi là mưu trí nhất của thời đại! Phe ta là đồng chí Lê Đức Thọ, phe Mỹ là Henry Kissinger. Tại Hà Nội, một số trí thức bên ngoài “đảng” và tôi đă hết sức ṭ ṃ, theo dơi, t́m hiểu các điều khoản bí mật đă được thoả thuận ngầm với nhau của hiệp định tái lập hoà b́nh tại Việt Nam đă được kư kết ở Paris năm 1973 có một số bí mật của phía ta, th́ rồi chúng tôi cũng đă biết phần lớn về phía Mỹ th́ dĩ nhiên là phải dựa trên những tiết lộ rất phong phú của báo chí Mỹ và thế giới. Chúng tôi có hai thắc mắc lớn trong chính sách của Mỹ lúc ấy. Một là tại sao cuộc tổng tấn công nổi dậy do ta bí mật phát động thật là bất ngờ, hồi Tết Mậu Thân 1968, ở miền Nam, nhưng ta đă hoàn toàn thất bại, lực lượng của ta tại miền Nam bị kiệt quệ, bị tổn thất nặng nề v́ nhân dân miền Nam không nổi dậy tiếp tay với ta như ta đă trù liệu. Vậy mà Mỹ lại nhương bộ, chấp nhận các điều kiện của ta, đặc biệt là điều kiện phải để cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng do ta chủ động ở miền Nam được tham dự hội nghị ngang hàng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, gọi là Việt Nam Cộng Hoà. Thắc mắc lớn thứ nh́ là cuộc oanh tạc của Mỹ vào miền Bắc năm 1972, lúc đó ta vô cùng bối rối, đến mức nếu nó đánh bom kéo dài thêm vài tháng nữa th́ ta sẽ phải nhượng bộ trong bất cứ điều kiện nào. Vậy mà bỗng Mỹ ngưng ném bom, để cho cuộc thương thảo ở Paris bước vào giai đoạn kết thúc, mà cả thế giới đều thấy là có lợi cho ta. Phía ta th́ khoe đó là do tài trí của trưởng đoàn Lê Đúc Thọ.

Bác Thảo kể thêm:

- Trong dân gian lúc đó, có giai thoại được phổ biến rất rộng răi, rằng đồng chí Lê Đức Thọ đă tiết lộ với vài nhà báo thân cận một thành tích đấu trí với Kissinger, khiến hắn từ đó phải nể mặt đồng chí Thọ. Mẩu chuyện đấu trí vui ấy đă được phổ biến trong các tầng lớp nhân dân, như một thành tích “thắng lợi vẻ vang” của “ta”!

Chuyện kể rằng lần đầu tiên bí mật gặp riêng Kissinger ở vùng ngoại ô Paris, Lê Đức Thọ ch́a tay trước để bắt tay Kissinger, tên này cũng vui vẻ ch́a tay ra và hai bên xiết tay nhau. Sau đó, Kissinger chơi tṛ khinh bỉ ta, y tḥ tay vào túi lấy khăn “mù-xoa” lau bàn tay vừa bắt tay Lê Đức Thọ, rồi bỏ lại khăn tay vào túi quần! Đồng chí Lê Đức Thọ liền có phản ứng tức th́, đồng chí cũng rút khăn ra lau tay, nhưng sau đó vứt bỏ luôn khăn tay xuống đất chứ không bỏ lại vào túi! “Kissinger từ đấy về sau không dám giở tṛ ǵ nữa”.

Kể xong câu chuyện “đấu trí” kiểu trẻ con ấy, bác Thảo nói:

- Sự khoe thành tích đấu trí như vậy, đă làm anh em trí thức Hà Nội nực cười. Trí tuệ ǵ, ngoại giao quốc tế ǵ cái tṛ láu cá vặt đó. V́ sự thật, ở bên lề hội nghị, toàn là những nhân nhượng quan trọng rất bí mật trong cuộc thương thảo giữa hai bên, mà phần quyết định trọng điểm là do thoả hiệp giữa Trung Quốc với Mỹ! Sau này có lần gặp riêng nhà báo cộng sản người Úc Winfred Burchett, ông này giải thích tận t́nh cho tôi hiểu về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết “vấn đề” Việt Nam! Theo Burchett th́ Mỹ nhúng tay vào miền Nam Việt Nam v́ coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bế quyết tâm bảo vệ Nam Việt Nam, v́ đấy là một “tiến đồn của thế giới tự do”. Điều này có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng này không để nó lọt vào trong bức màn sắt của khối cộng sản. Nhưng Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt “Bắc Việt Cộng sản” để tiến tới thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối với Mỹ luôn luôn nằm trong sách lược của kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Nam Việt Nam đă bị sa lầy v́ tốn kém và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ, đứng đầu là Kissinger, đă đề xa một giải pháp khác. V́ đă không bảo vệ được thị trường miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh, th́ phải quay qua giải pháp t́m thị trường thay thế bằng con đường hoà b́nh: cách này ít tốn kém mà bền vững hơn. Bởi Mỹ, trên nguyên tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đă làm cho “cộng sản” kiệt sức, th́ đó là lúc tốt nhất để đưa “địch” ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi thấy cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam hồi 1972, đă đủ cho Hà Nội thấm đ̣n, th́ Mỹ liền ngừng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện, thuận lợi cụ thể, để Hà Nội chịu kỷ kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hoà b́nh thay thế cho lá bài chiến tranh. Cũng để tỏ rơ chính sách của Mỹ như thế, liên hạm đội 7 rất hùng hậu quả Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam, vậy mà lực lượng hùng hậu ấy đă đứng ngoài nh́n hải quân Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa (Paracels) của Nam Việt, hồi 1974. Sự án binh bất động này có nghĩa rơ là Mỹ không coi Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi đại quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, Mỹ đă chỉ đánh cầm chừng để giữ đất, để dung hoà chứ không hề có ư đẩy chiến tranh đến tận cùng ra miền Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở miền Bắc. Dù là đă oanh tạc miền Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hoà b́nh, nhằm đánh địch băng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài đó sau này đă làm cho Hà Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội, tuy đạt chiến thắng, nhưng lại phải chấp nhận mọi điều kiện để Mỹ nó bỏ cấm vận. Rồi sau đó là Hà Nội lại trải thảm đỏ long trọng đón rước lănh đạo Mỹ trở lại. Từ đó, chính thức mở cửa cho vốn của khối tư bản tràn vào tự do tung hoành trên toàn bộ nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ xă hội chủ nghĩa. Trong chế độ này không chấp nhận các cuộc đ́nh công đ̣i quyền lợi của các công đoàn thợ thuyền. Một chế độ như thế thật là lư tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Bây giờ th́ kết cuộc đă rơ rệt của ván bài “ai thắng ai” trong cuộc đấu trí ấy. Bây giờ đă lộ rơ ai là mưu trí, ai là trí tuệ. Nực cười và bi thảm là như thế.

Kể tới đó, tâm sự tới đó, bác Thảo bật cười, nhưng rồi lại nghiêm nét mặt, thở dài chán nản:

- Công cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại đồng… như vậy là đă hoàn toàn tan vỡ, sau khi đă hi sinh tính mạng của hàng bao nhiêu vạn bộ đội! Bây giờ th́ không c̣n phải chống Mỹ cứu nước nữa. Giờ đầy là phải t́m lối thoát ra khỏi chế độ bao cấp, dẹp bỏ mục tiêu tự tức tự cường, phải bám theo Mỹ để cứu nước. Cả một nền kinh tế toàn cầu dưới sự áp đảo của đồng đô-la Mỹ, cả một nền văn hoá sống cuồng, sống vội, hừng hực sinh lực thực dụng của văn hoá Mỹ, nay nó tự do tràn vào như thác đổ, nhậu một xứ sở đă bị kiệt quệ đến xương tuỷ v́ chiến tranh và cách mạng. Một nền văn hoá nông nghiệp rệu rạo đă bị kiệt sức đến trống rỗng, sau bao năm chiến đấu “tự lực tự cường”, chỉ biết hỉ sinh và chịu đựng, nay làm sao cưỡng lại lối sống no nê, phè phỡn kiểu Mỹ như thế! Tương quan lực lượng giữa một nền kinh tế lạc hậu với nền văn hoá nghèo túng và ḱm kẹp như vậy th́ làm sao cưỡng lại trước sức tràn ngập của nền kinh tế dư thừa và của nền văn hoá tự do sống cuồng, sống vội của Mỹ! Tới đây ta, sẽ thấy tuổi trẻ nông thôn cũng th́ đua “quần ḅ, áo phông”, cũng son, cũng phấn ḷe loẹt như ở bên Mỹ thôi!

Giờ đây cả nước đều “phấn khởi hồ hởi” v́ được “hoà nhập”! Cửa đă rộng mở để cho vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào! Giờ đây, trước mắt mọi người, tên Thảo này bỗng chỉ c̣n là thân phận của một con rối, đă lỗi thời về tư tưởng, đă quá cổ hủ v́ không biết làm “con phe, con phẩy” để “kinh doanh”. Tôi nay chỉ mang thân phận một con rối đau đớn. Bởi đă thấy rơ trước tất cả nguy cơ tai hại của sự phát triển quá trớn, không giới hạn của khối tư bản. Giờ đây quê hương ta đang cuồng nhiệt lao vào đà phát triển xổi th́ theo ư hướng của đồng USD, của những thế lực siêu đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Sự thật là đằng sau các đại công ty mang danh hiệu là của Đài Loan, của Đại Hàn, của Singapore th́ đều là của đồng đô-la Mỹ! Thế là thiên nhiên giàu, đẹp của ta đă và đang bị tàn phá không thương tiếc. Tôi rất đau ḷng đứng nh́n sức mạnh tung hoành của đô-la Mỹ trên đất nước ta. Dân ta nay mừng rỡ được hội nhập kinh tế tư bản. Các nước quanh ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thể chiến thứ hai cùng với ta, nhưng do họ không có thứ “lănh đạo thần thánh”, nên họ không phải hi sinh như ta, không phải đổ ra nhiều xương máu như ta. Và họ đă giành được độc lập và ấm no trước ta cả nửa thế kỳ… Như vậy cái công lao, cái tài lănh đạo thần thánh ấy, sự thật chúng là công hay là tội? Rốt cuộc nay th́ đă phải trải thảm đỏ đón mời Mỹ trở lại! Trong khi đó Tàu đang ức hiếp ta, đang gậm nhấm vùng đất, vủng biển của ta, vẫn đang công khai tiếp tục trắng trợn lấn chiếm một số hải đảo ở vùng Trường Sa, Hoàng Sa của ta! Và ta vẫn cứ kiêu hănh hát vang bài ca “đại thắng”! Đại thẳng ǵ mà giang sơn gấm vóc tổ tiên để lại nay đă bị tiêu hao vào tay mấy “đồng chí vĩ đại” như thế? Đau ḷng lắm! Đau ḷng lắm!

- Con một thắc mắc này nữa muốn hỏi bác, có phải Mỹ vẫn đang duy trỉ ván bài lá cờ vàng ở Mỹ để sau này t́m cách đánh phá, lật đổ ta phải không?

- Tôi tin chắc là không phải vậy. V́ nước ta nay hoàn toàn là một thị trường vững chắc của phe tư bản rồi, th́ nó tính đánh phá ta làm ǵ cho phí công sức, cho xáo trộn thị trường của nó. Vấn đề lá cờ Vàng là một phản ứng hoàn toàn do ta gây ra. Phải nhớ rằng lúc đầu, cuộc cách mạng tháng tám đă thành công hoàn toàn, th́ lúc đó đă làm ǵ có lá cờ vàng. Lúc đó cả nừớc đều vui mừng trung lên cờ đỏ sao vàng: Đó là giai đoạn cả nước đồng ḷng đứng lên cướp chính quyền để giành độc lập… Nhưng sau đó là giai đoạn tiến hành cách mạng xă hội chủ nghĩa, bắt đầu trưng cờ đỏ búa liềm tràn lan ra ở khắp nơi. Bắt đầu chính sách loại trừ thành phần “con đẻ của thực dân phong kiến”, loại trừ “các đảng phái phản động”. Chính từ lúc này là bắt đầu triệt để phân loại, phân chia dân tộc ra làm nhiều thành phần… v́ cuồng tín chủ nghĩa đă đẩy ra bên ngoài xă hội một số đông người yêu nước nhưng không yêu xă hội chủ nghĩá! Và là cờ vàng đă phát sinh ra từ đó, rồi đă trở thành một biểu tượng “quốc gia” để đối đầu với lá cờ đỏ sao vảng “của cộng sản”! Sự chia rẽ dân tộc, sự đối đầu ấy là do đâu? Tại ai? Ngày nay vấn đề nhậy cảm này, thực chất là rất dễ thấy và rất dễ hiểu. Việc cả triệu người di tản vào miền Nam năm 1954, rồi sau ngày 30 tháng tư, 1975 là cuộc tháo chạy của cả triệu người liều chết lao ra biển, và đă trở thành phong trào “thuyền nhân” đă làm cả thế giới xúc động. Những h́nh ảnh cho thấy đấy là một thảm hoạ của dân tộc mà mỗi người chúng ta trực tiếp có trách nhiệm. Nói rơ ra th́ đau đớn lắm… Vấn đề lá cờ vàng này không ai có thể giải quyết ngoài những người Việt chúng ta với nhau. Nhưng là phải giải quyết hết sức trí tuệ, chứ không thể dùng mưu kế dối gạt, cũng không thể giải quyết bằng bạo lực và hận thù. Phức tạp và khổ tâm lắm! Đau ḷng lắm!

- Bác nói ngoài chúng ta ra không ai có thể giải quyết vấn đề lá cờ vàng, là sao?

- Th́ như tôi đă nói, chỉ có chúng ta mới hiểu rơ vấn đề ấy. V́ thế mà đă tới chính sách “hoà giải, hoà hợp dân tộc”… Nhưng chỉ là nói thôi chứ chưa hề làm, thực tế là chưa hề có nỗ lực hành động “hoà giải” nào cả! “Hoà hợp” th́ lại càng không có. Chỉ toàn là những cú phá hoà giải, phá hoà hợp thôi. Hoà giải là phải nh́n nhận nhau, tôn trọng nhau. Ngay sau tháng tư 1975, cách mạng đă khẳng định bằng lời tuyên truyền rằng trong cuộc chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước của đại gia đ́nh dân tộc ta, giữa chúng ta không có kẻ thắng, người thua, chỉ có nước Mỹ thua thôi. Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam đă ra lệnh cho quân lính của miền Nam buông súng, để tiết kiệm xương máu. Tuy vậy trong thực tế cho tới nay, người của chế độ cũ ở miền Nam vẫn bị đối xử như là địch, là thù, là nguỵ… với biện pháp giam giữ hàng loạt, trong một chính sách trả thù đại trà, với kế hoạch ”học tập cải tạo tập trung”. Bao nỉiiêu vạn công chức và sĩ quan của miền Nam đă bị giam giữ vô hạn định rất tàn nhẫn, trong nhiều năm, trong các trại tập trung bị che giấu trong các vùng rừng sâu, nước độc như vậy th́ làm sao coi đó là ḥă giải hay là hoà hợp được!

Tây Đức đă thống nhất với Đông Đức, có xảy ra cảnh tù đày hàng loạt như thế đâu! Gần ta hơn th́ việc Trung Quốc, sau khi cố dùng sức ép của vũ lực để đánh phá triệt hạ Đài Loan, làm măi mà không được, nay th́ họ đành có chính sách thật sự hoà giải, hoà hợp với Đài Loan bằng sự công nhận, sự tôn trọng Đài Loan rồi đó! Cờ ”thanh thiên bạch nhật” trên các phi cơ thương mại Đải Loan đă tự do bay vào Trung Quốc đấy! Bài học tốt đẹp ấy, sao chúng ta không học hỏi? Tại sao ta cứ cố duy tŕ t́nh trạng thù hận, rất trái với tinh thần thống nhất dân tộc như vậy? Đây là thảm kịch nan giải của người Việt Nam chúng ta! Mà tôi coi đó như là thảm kịch của riêng những người ưa suy tư như tôi và dĩ nhiên là của cả đám môn đệ “bác Hồ”!

Nói tới đó, rồi bác Thảo im lặng hồi lâu. Lúc này chúng tôi thấy bác Thảo nổi bật như một người, lúc cuối đời, đầu óc trĩu nặng tâm tư, đầy ân hận, hối hận rất u buồn, đau đớn, và đang t́m cách ǵ đó để giải toả thảm kịch của chính ḿnh!

Mà bác Thảo khi nói tới bi kịch Việt Nam, thảm kịch Việt Nam th́ thường liên tưởng tới “bác Hồ”. Thấy cứ nhắc hoài tới “bác Hồ”, nên tôi hỏi:

- Nghe bác nói thế, tối vẫn có cảm tưởng là bác mang tâm tư oán trách “cụ Hồ” và đảm đàn em lắm phải không?

- Tôi đă nói rồi. Nêu ra thảm kịch này không phải là để gây thêm oán, thêm thù. Khi kể ra những trải nghiệm vui, buồn của của dân tộc, của hôm qua và hôm nay, th́ không thể không nhắc tới “ông cụ”. Khi nhắc tới nhũng “thắng lợi vẻ vang”, không thể quên được những mất mát những đau đớn mà nhân dân vẫn c̣n phải gánh chịu dài dài như không bao giờ kết thúc. Rơ ràng là trong bi kịch của đất nước ta, chiến thắng là công, nhưng chiến tranh là tội. Công và tội gắn liền với nhau. Đối với một thời đau khổ, đối với một lănh tụ có trách nhiệm, th́ nói tới công lao của lănh tụ, th́ đương nhiên cũng phải nhắc tới tội lỗi của lănh tụ. V́ vậy mà phải phân tích, t́m hiểu cho cặn kẽ đâu là công, đâu là tội đích thực của lănh tụ, để t́m hiểu giới hạn trách nhiệm của những quyết định nặng nể hậu quả nghiêm trọng trong lịch sử cận đại. V́ thế nên phải t́m hiểu cặn kẽ “ông cụ”, phải nghiên cứu, phân tách những chuyển biến tư tưởng qua từng bước thay đổi, từ những giai đoạn đổi tên, đổi họ, từ những tính toán khởi nghiệp, từ lúc đă tự chọn cho ḿnh những cái tên như “Tất Thành”, rồi là “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”…! Nội việc bỏ họ Nguyễn, lấy lại họ gốc là Hồ cũng là cả một chứng nghiệm tâm lư chính trị cần được nghiên cứu. Phải chỉ ra cho dân, cho chế độ, cho cả “đảng”, thấy rơ, hiểu rơ “ông cụ” là người thế nào, đă bị tham vọng đam mê chi phối từ trong nội tâm, tới ở bề ngoài ra sao.., để từ đó nhận ra những giá trị tương đối, hiểu rơ trách nhiệm hạn chế của “ông cụ”…

- Như thế là bác muốn đả phá tham vọng của “bác Hồ “ phải không?

- Tôi không đả phá, nhưng tôi chỉ ra đấy là do tham vọng, do cuồng vọng không ǵ lay chuyển nổi của “ông cụ”. Bởi đă sống trong nỗi đau của dân tộc, đă có trăn trở của con người triết học trong triển khai bạo lực cách mạng, nhất là sau kinh nghiệm tàn nhẫn của cải cách ruộng đất, nên tôi đă ư thức được rằng chính “ông cụ” đă phải cố ư sa vào sai lầm lớn khi tuyệt đối tuân theo sự thúc đẩy của Mao, nên tôi thấy phải can đảm, phải thẳng thắn, phải có tham vọng nêu ra tất cả sự thật lịch sử rất tàn nhẫn liên quan tới “ông cụ”!

- Trời đất! Bác mà cũng có tham vọng, thật sao? Tham vọng ấy có lớn không? Có sánh được với tham vọng của “bác Hồ” không?

- Nói về tham vọng của tôi th́ thật sự là tham vọng của “bác Hồ” không tham vào đâu cả!

- Bác giỡn đùa hay lắm. Như vậy là bác cũng là bậc tổ sư kiêu ngạo đấy!

- Tôi không giỡn, tôi không kiêu ngạo, nhưng sự thật là tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hô” nhiều lắm!

- Bác giễu c̣n hay hơn cả chú hề trong rạp xiếc rồi đấy!

- Tôi không giễu! Đây là tôi nói thật. Mà thằng hề cũng có tham vọng của nó chứ.

- Thế tham vọng của bác là cái ǵ? Là bác sẽ làm ǵ?

- Là tôi sẽ xây dựng tại Việt Nam một lâu đài.

- Lâu đài ấy bao lớn?

- Phải nói đó là một lâu đài vô cùng vĩ đại sống ở đâu cũng thấy nó.

- Ai sẽ sống trong lâu đài ấy?

- Ai cũng có quyền, sống trong lâu đài ấy. Cả nhân loại đều có thể tới sống trong lâu đài ấy. Tham vọng của tôi là lo t́m hạnh phúc đích thực cho toàn thể nhân loại!

- Trời đất! Bác định xây lâu đài ấy ở đâu?

- Ở ngay trong đầu mỗi con người. Đó là một lâu đài tư tưởng. Cho tới nay, không một người Việt Nam nào đă có một tham vọng toàn diện như vậy, kể cả “bác Hồ”. Mưu đồ phát triển một cuộc cách mạng mà cả nhân loại mong chờ th́ đấy không phải là một tham vọng vĩ đại sao? Cuộc sống gian khổ của dân ta và của tôi đă chuẩn bị vật liệu để tôi xây cất ngôi lâu đài ấy. Đấy là một lâu đài của tinh thần và lư tưởng dân chủ, của một nền công bằng xă hội chân chính, nền móng của lâu đài ấy là công lư nghiêm minh, thắp sáng bởi đạo lư. Lâu đài ấy sẽ không chấp chứa những ǵ thuộc về xảo trá, hận thù, thủ đoạn ma quỷ. Sống trong lâu đài ấy con người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lư tưởng bằng lương tri, trí tuệ, bằng luật pháp nghiêm minh, với sức mạnh của công lư, công bằng, chứ không phải bằng bạo lực của hận thù. Trong lịch sử loài người, chưa có ai xây được một lâu đài như vậy. Đă có vài nhà lănh đạo nỗ lực xây dựng một vài lâu đài kiểu ấy. Nhưng khi xây, th́ đă đúng tới những động lực của hận thù, dùng tới phương pháp của sự độc ác, gian xảo, nên đă làm hư hỏng hết cả. Bởi trong một xă hội lạc hậu, con người tốt th́ hiếm, nhưng con người xấu xa, hư hỏng th́ nhiều. Những lâu đài kiểu ấy, khi xăy dựng xong th́ luật pháp của nó đă bị biến thành luật rừng, xă hội của nó chỉ là gian trá, quỷ quyệt… Những thứ lâu đài ấy chỉ làm cho con người thêm khổ, xă hội thêm loạn. Lâu đài của Trần Đức Thảo sẽ là thứ lâu đài trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rơ quyền sống của ḿnh, quyền dân chủ băng lá phiêu của ḿnh… Một lâu đài như vậy không phải là vĩ đại sao? Ha! Ha! Đấy không phải là một cuồng vọng cao hơn, lớn hơn, đẹp hơn, trong sáng hơn là cuồng vọng của “bác Hồ” rất nhiều hay sao? Các anh thử trả lời tôi đi!

- Chi có thể hỏi lại bác là lâu đài ấy có phải là cũng không tưởng, cũng là quả duy tâm, quá siêu h́nh hay không?

- Không hể có ǵ là không tưởng hay duy tâm, siêu h́nh ǵ đâu. Nền tảng của lâu đài ấy: toàn là những đ̣i hỏi của t́nh trạng thực tế xă hội đen tối, bế tắc của cách mạng hiện nay. Những ǵ tôi quan sát hằng ngày, trong cái hiện thực đau đớn của cuộc cách mạng trước mắt, th́ tất cả những cái đó đă chất vấn tôi, đă quy trách nhiệm cho tôi. Tôi không thể thờ ơ trước những nhức nhối của con người, của xă hội, Những chất vấn ấy, những thôi thúc ấy bắt tôi phải hành động theo khả năng lương tri và tri tuệ của tôi. Do đó lâu đài của tôi là do hiện thực xă hội đ̣i hỏi và đặt nền tảng. Nghiệm sinh thực tại tàn nhẫn đă đặt nền móng cho cuồng vọng của tôi, để cho lâu đài ấy thật sự là có nền tảng duy vật sử quan. C̣n tham vọng của “bác Hồ” th́ khác hẳn. Tham vọng của “bác Hồ” th́ một phần do học thuyết sách vở chưa đọc kỹ, tư duy xổi th́ chưa tiêu hoá được, một phần c̣n là do mưu trí chính trị cực kỳ cơ hội mà ra… Đây là tôi nói và làm sự thật. Không có lâu đài ấy th́ loài người c̣n khổ, c̣n lâu mới t́m được hạnh phúc… Tôi đă nghiền ngẫm, thiết kể cho ngôi lâu đài ấy từ lâu rồi. Bởi hàng ngày trong đầu luôn luôn có cuộc xung đột giữa cái tôi khao khát hành động với cái tôi lo sợ sẽ bị xử tiêu nếu lộ ra ư hướng phản biện. Một bên là quyết phải làm một cái ǵ cho đất nước và dân tộc, chẳng lẽ cứ im lặng như đầu hàng… một bên là sự khôn ngoan muốn bảo vệ tính mạng, nói thẳng ra là cái sự hèn v́ sợ. Trong suốt bốn chục năm qua, tôi không sợ sống vất vả về điều kiện vật chất, mà tôi đă sống rất căng thẳng v́ trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc xung đột với chính tôi giữa cái tôi triết học với cái tôi khôn ngoan sống hèn trong chế độ đầy sai trái này. Cuộc xung đột ấy đă bước tới phần kết thúc khi tôi được vào sống ở Sài G̣n, chịu ảnh hưởng của người Sài G̣n…

- Khi nh́n nhận có một cuộc xung đột như vậy, với mộng ước xây dựng một toà lâu đài như vậy, th́ có phải là bác đă quá không tưởng và kiêu ngạo không thua ǵ Cụ Hồ hay không?

- Tôi cũng xin thành thật trả lời rằng mỗi khi nghĩ tới công việc của một nhà triết học, th́ tầm cỡ của mộng ước là rất cao, rất sâu, rất rộng… nên nó dễ bị hiểu lầm là một thứ kiêu ngạo, ngông cuồng không tưởng. Tôi v́ triết học mà nghĩ, mà làm, chứ không phải v́ kiêu ngạo! Nếu kiêu ngạo th́ đă không bị cái sợ chi phối gần cả đời người!

- Nhưng một lâu đài như thế th́ nó có tính khả th́ hay không?

- Nó rất có tính khả thi!

- Trong thực tế th́ bác sẽ xây dựng nó bằng cách nào?

- Bằng một cuốn sách. Và tôi đang hoàn thành cuốn sách ấy. Marx cũng đă xây dựng một lâu đài như thế, và cũng bằng một cuốn sách, chỉ tiếc là có nhiều người từ cuốn sách, từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, th́ họ đă trở thành ác quỷ. Cuốn sách của tôi là một món nợ mà tôi phải trả cho triết học, cho nhân loại, chẳng những thế mà c̣n là món nợ mà tôi phải trả cho dân tộc, v́ cái mộng về nước lúc đó của tôi của tôi là xây dựng một mẫu mực, một mô h́nh cách mạng mà dân ta mong đợị. Bởi thế mà lâu đài của tôi, tức là cuốn sách của tôi, trong đó, nhân dânh chân lư, tôi sẽ đặt nặng những vấn đề nhân bản, công lư và dân chủ, bằng những cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền lực, với những cơ sở lư luận và pháp lư, để những ai từ đó đi ra sẽ không thể trở thành ác quư. Chính v́ lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra, những lănh tụ đă đă thành những ác quỷ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng sản đă bị hi sinh một cách oan uổng, vô ích… và ở nước ta đă có hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ mồ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và rồi cũng đă có hàng triệu người đă liều chết bỏ nhà bỏ của chạy ra biển gây thảm cảnh “thuyền nhân” sau năm 1975 … làm cả thế giới rơi lệ. Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, v́ đă hiểu, đă nếm mùi lâu đài “thế giới đại đồng” của Marx, nên họ đă liều chết bỏ chạy! Là v́ họ muốn đi t́m nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự!

- Bộ bác cũng băn khoăn với khát vọng đi t́m tự do và hạnh phúc sao?

- Ai mà không có khát vọng đi t́m tự do và hạnh phúc! Khổ nỗi là con người không biết làm sao t́m. Và đă có bao dân tộc, đă bị lănh tụ, theo chỉ dẫn của Marx, mà đă dẫn dân vào con đường bế tắc chứ khỡng tiến tới được thế giới đại đồng!

- Theo bác th́ có thể t́m tự do hạnh phúc ở đâu?

- T́m ở nơi không có con quỷ quyền lực và con quỷ chiến tranh nó ám. T́m ở nơi có nhà nước biết dùng phần lớn ngân sách để lo cho phúc lợi của nhân, dân, chứ không dùng ngân sách nhà nước để củng cố đảng cầm quyền, để chuẩn bị những cuộc chiến tranh phiêu lưu, để làm những điều không tường để củng cố cho một “đảng” được vĩnh viễn cầm quyền, để phát triển triệt để guồng máy đàn áp để đảng tồn tại, mà coi nhẹ việc tạo phúc lợi cho nhân dân! Người ta bỏ đi v́ họ không muốn bị hi sinh, mà là họ muốn t́m tự do hạnh phúc, ở nơi công an không canh chừng dân chúng như canh tù, không làm khổ nhân dân v́ thủ đoạn vu khống, chụp mũ. Phải biết rằng: chỉ có quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con người. Kẻ vênh váo, cảm thấy vui khi làm khổ, làm nhục con người th́ không phải là người mà là quỷ, là kẻ bị con quư quyền lực nó ám trong đấu. Mà quỷ ấy là ai? Là ǵ? Quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ư đồ gian xảo, hung bạo của quyền lực. Quỷ ấy là ư thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con ngườ́ lao vào đam mê t́m thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỷ kế, để mưu đồ cùng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, v́ chúng đă làm khổ con người! Xét như vậy là thấy rơ là quỷ nó vẫn ở với người, vẫn ở trong trong con người lănh đạo. Bàn sâu vào thực tại của quỷ ở quanh ḿnh th́ bi thảm lắm! V́ chính trị và chiến tranh cách mạng là cơ hội thao túng của quỷ. Quỷ nó quậy trong đầu những người nắm quyền lực để làm chính trị, làm chiến tranh. Quỷ lộng hành v́ không cơ chế nào kiểm soát được nó! Nó bảo đảm với con người chính trị, con người chiến tranh là mau trí của nó sẽ mang lại chiến thắng để tồn tại lâu dài. Bi kịch của ta là do nó đă tạo ra niềm tin tất thắng khi tận dụng bạo lực và hận thủ! Chính cái niềm tin tất thắng ấy đă đầy đoạ con người, đă xoá đi tính nhân bản trong chính sách! có lúc phải mở chiến tranh, như để giành độc lập, là đúng. Nhưng dùng con đường chiến tranh cách mạng một cách trường kỳ, vô hạn… để bành trướng chủ nghĩa, để giải quyết các vấn đề, để mưu t́m thế độc quyền, độc tôn cho ư thức hệ, tức là cho đảng nắm toàn quyền yêu nước, toàn quyền ban phát tự do hạnh phúc cho con người là sai. V́ đó là con đường của thảm hoạ, của tội ác…,

Khi thấy bác Thảo đang trong cơn phẫn uất, thao thao giải thích gay go, sôi nổi như thế, tôi muốn lái qua những đề tài khác có tính b́nh tĩnh hơn, liên quan tới bản thân bác hơn, nên tôi hỏi:

- Bác nghĩ sao khi bị chung quanh chê bai, chế giễu bác là người khùng, cứ như kẻ sống ngơ ngác trước cuộc đời?

- Tôi đă nói rồi, chẳng thà làm thằng khùng hơn là làm thằng đểu, thằng ác, thằng lưu manh, thằng gian dối. Tôi làm thằng hề ngơ ngác trước cuộc đời v́ không hiểu nổi tại sao có nhiều kẻ sống gian dối, lưu manh, độc ác, quỷ quyệt mà họ cứ vênh váo tự đắc? Và tại sao chung quanh biết thế là sai, là ác, mà không dám có phản ứng, lại c̣n hùa nhau vào nịnh nọt, tâng bốc cho cái ác, cái gian dối cứ tiếp tục? Nịnh nọt như thế là đồng loă với cái gian ác. Tôi nghĩ đă không thể làm thằng nịnh nọt, th́ chẳng thà cứ làm thằng khùng, thằng hề th́ ít tội hơn… Vả lại thẳng khùng, thằng hề cũng dễ thoát chết hơn dưới bàn tay của kẻ ác.

- Nghe nói có lúc bác bị “đi thực tế” để cải tạo tư tưởng, bằng cách phải đi cắt cỏ, đi chăn ḅ, rồi lại c̣n đánh mất ḅ nữa, phải không?

Nghe câu hỏi, nét mặt bác Thảo biến sắc, má ửng đỏ lên, như bị nhắc tới một điều làm bác xấu hổ! Có vẻ như bác không muốn nhắc tới những chuyện như thế. Ngẩn ngừ, im lặng, như nhớ lại điều ǵ. Rồi bác đáp với giọng bực bội:

- Hừ! Giai thoại Trần Đức Thảo bị đi chăn ḅ ở nông trường Ba V́ đă được loan truyền rộng răi. Đấy thật là một điều đáng xấu hô! Mà không phải là xấu hổ cho Trần Đức Thảo đâu. Xấu hổ là xấu hổ cho cả nước ấy chứ! Làm nhục một trí thức như thế, là lối hành xử của một nước man rợ, không có văn minh văn hoá! Đấy chung quy chỉ là sự ganh tức của đám người, v́ ít học, nên căm thù trí thức, coi trí thức toàn là con đẻ của giai cấp bóc lột, của bất công xă hội… Họ đă thuộc ḷng câu “trí thức không băng một cục phân”, th́ làm sao họ đối xử tốt với tôi được! Mà một con ḅ lúc ấy là quư hiếm, đắt tiền lắm! Ai có ḅ mà dám để cho Trần Đức Thảo chăn! Mà có nơi nào có nhiều ḅ đâu mà đánh mất dễ dàng như thế được. Cứ y như cái anh ăn mày rêu rao bị mất của! Có thể là mấy ông cán bộ báo cáo lên trên như vậy để có cơ hội mà ngả ḅ đánh chén với nhau thôi. Ha! Ha! Ha! Các anh không thể ngờ rằng ở nông thôn lúc ấy, người ta chỉ ŕnh trong chăn nuôi của tập thề có dấu hiệu dịch gà, dịch heo để vội giết cả chuồng cho không gây lây truyền. Thế là cả vùng bỗng vui lên v́ có thịt mà ăn, mà lại rẻ! Ha! Ha! Ha! Khốn khổ và vui thế đấy!

Vẫn với một nụ cười nhạt nhẽo, bạc phếch, cay đắng, không chứa một chút ǵ vui. Thật sự là mỗi lần thấy bác Thảo cười, tôi lại cảm thấy đau ḷng, thấy bác thật là đáng thương hại… V́ đấy chỉ là thứ cười đau đớn!

- C̣n chuyện này nữa: Phạm Huy Thông, hồi ở Pháp cũng là bạn thân của bác phải không? Sao trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, ông ta đấu tố bác nặng quá vậy?

- Anh chàng ấy hồi ở Pháp th́ tôi có biết nhưng không thân có khi y c̣n ganh ghét tôi nữa. V́ lúc tôi được bầu làm Đại diện Kiêu dân Đông Dương, để đọc diễn văn bênh vực quyền lợi cho dân ḿnh, th́ có nhiều kẻ, nhiều phe ganh tị lắm. Có phe cộng sản đệ tứ trốt-kít, có phe cộng sản đệ tam, có cả phe thân Đức, thân Nhật nữa. Trong khi đó th́ Thảo này không thuộc phe cánh nào, mà lai được bầu. Thế nên sau này, nhân vụ đấu tố nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm) th́ Phạm Huy Thông đă ngả theo phe Tố Hữu để tố khỗ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ. Cách thức tố cáo, buộc tội tôi như thế đă làm cho y sau này bị xấu mặt, chứ tôi th́ chẳng hề ǵ. Có thể nói là những lời lẽ đấu tố nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm đă làm xấu mặt cả đám văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những ǵ mà mỗi trí thức đă viết ra, th́ đều phơi bày cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém của nó. Sau này Thông c̣n bị khinh bi và bị chụp lên đầu tội làm gián điệp cho Nhật. Bởi bị quy cho tội là đă viết bảo cáo t́nh h́nh cách mạng Việt Nam gửi qua Ṭkyo, cho thằng cháu ở bên ấy. Rồi thằng cháu ấy gửi tiền về cho. Nghe nói Nhật Bản nó gửi nhiều tiền đến nỗi bị cướp vào nhà nên đă mất mạng…

- Vậy là bác nói xấu Phạm Huy Thông rồi đấy!

- Con người đă có hành động như thế th́ làm sao nói tốt cho được, phải không?

- Bây giờ xin lỗi bác để hỏi về một chuyện tế nhị và không vui, là tại sao gia đ́nh bác bị tan vỡ? Có phải là đă có sự bạc t́nh, phụ nghĩa bỏ nơi bị túng quẫn, để về nơi có ấm no phải không?

- Chuyện buồn đó cũng đă gây nhiều thắc mắc: Thật ra th́ chúng tôi quen nhau và đă hứa hôn với nhau từ hồi c̣n trẻ ở Paris. Đấy là mối t́nh trong sáng giữa chúng tôi. Rồi khi có hoà b́nh ở miền Bắc, th́ cô ấy tự động về, và cứ nằng nặc đ̣i cưới ngay. Bất chấp điều kiện, sống của cả hai đứa lúc đó đang bị đối xử rất miệt thị như là kẻ thân Pháp. V́ thế mà phải sống trong những hoàn cảnh rất vất vả, chật chội, túng thiếu, khổ sở. Bởi lúc Nhất về th́ trong xă hội vẫn đang kỳ thị rất tồi tệ với những ai bị coi là kẻ dính líu đến Pháp, từ Pháp về, do Pháp đào tạo! Lúc đó cái ǵ mang màu sắc của Pháp đều bị tẩy chay nặng. Chính tôi lúc đó cũng đang bị xua đuổi, kiềm chế rất khốn khổ. Thể mà cô ta cứ nằng nặc đ̣i làm đám cưới… Nên kết hôn với nhau xong là rất khó sống. Đến khi Nhất xin đứa con nuôi về th́ như giọt nước tràn li. V́ đă khó khăn, chung đụng, chật chội, nay với đứa con nuôi ốm yếu khóc lóc cả đêm, nên lại càng khốn khổ. Do vậy đă khiến Nhất phải mang con ra ở riêng. Rồi v́ thương tôi mà đ̣i li dị.

- Sao lạ vậy? V́ thương mà lại đ̣i li dị à?

- Nhất đă phân trần, giải thích trong nức nở nghẹn ngào là do đă chia sẻ và đă hiểu rố lư tưởng của tôi. Rằng sự trở về quê hương của tôi là v́ tự do hạnh phúc của dân tộc, của nhân loại, chứ không phải v́ tự do hạnh phúc của riêng tôi. Sự thật là Nhất ra đi và đ̣i li dị, là muốn trả tự do cho tôi, để tôi tiếp tục đi cho trọn con đường lư tưởng của tôi, để tránh cho tôi cái gánh nặng gia đ́nh. Bị gia đ́nh tan vỡ như vậy tôi rất buồn. Nhưng cuộc li hôn của chúng tôi mang tính thần lư tưởng mà người bên ngoài không thể hiểu. Bởi chúng tôi đă chia tay nhau không do phụ t́nh, phụ nghĩa ǵ cả, Sau này th́ Người Khắc Viện ở Pháp về, có điều kiện gia đ́nh may mắn hơn tôi, nên đă t́m gặp lại Nhất. Và hai người cũng đă từng biết nhau ở Paris. Khi hai người quyết định lấy nhau, th́ Viện có lại nói chuyện với tôi. Tôi đă cám ơn Viện là người có điều kiện để lo cho Nhất. Và tôi chúc Viện và Nhất sẽ được hạnh phúc; Nếu phải quy trách nhiệm về sự đổ vỡ này, th́ hoàn toàn là do tôi. Tôi đă không có khả năng làm nhiệm vụ một chủ gia đ́nh… Đấy là một đổ vỡ, một thất bại lớn trong đời tôi. Do sự kém cỏi không biết tháo vát, xoay sở trong cái xă hội này. Bởi khi đi hiến thân cho một lư tưởng th́ gánh nặng gia đ́nh là một trở ngại lớn. Và biết vậy nên sau này tôi vĩnh viễn chọn cảnh sống cô đơn. Trở ngại ấy th́ chính “cụ Hồ” cũng đă gặp, nhưng cách trút bỏ gánh nặng gia đ́nh của “ông cụ” th́ khác với trường hợp của tôi…

- Khác là như thế nào?

- Th́ mọi ngưồd đều dư biết là “ông cụ” đă lần lượt ăn ở với nhiều phụ nữ một cách nghiêm túc, từng đă chính thức lập gia đ́nh, từng đă có con ở Âu, ở Á, nhưng “ông cụ” đă v́ cuồng vọng chính trị, mà phải chứng tỏ ḿnh là người thanh khiết thanh cao, cộ đức độ “cách mạng” (cách mạng có cấm ai lấy vợ đâu!…) nên “ông cụ” đă phải phủi tay từ bỏ tất cả vợ con! Dù vào lúc đỉnh cao quyền lực cho phép, th́ “ông cụ” cũng đă tử bỏ việc t́m kiếm, không muốn nh́n nhận lại gia đ́nh vợ con đă có. Do đấy mà đă sinh ra bi kịch của bản thân “ông cụ”. V́ buộc phải chấp nhận thân phận sống cô đơn cho tới chết. Chỉ v́ muốn tự tạo ra huyền thoại của một lănh tụ thần thánh, nên ”ông cụ” đă bị tai tiếng; v́ đă phạm ba tội: một là mạo nhận minh là bậc chân nhân chỉ biết nói thật và làm thật, điều này không một nhà chính trị nào có thể giữ được. Hai là “ông cụ” đă tự coi minh là một thứ quân tử của thời phong kiến, chứ không phải là một chiến sĩ cách mạng vô sản thời hiện đại! Ba là muốn đội lôt một thánh nhận để nêu gương sống thanh cao khắc khổ như tu hành, đă biết hi sinh hạnh phúc gia đ́nh! Những sự thận thánh hoá giả tạo đó là do tâm thức vẫn mang nặng ảnh hưởng của thời phong kiến, nó vừa lạc hậu, vừa dối trá. Chính v́ vậy mà “ông cụ” thường dặn đám cán bộ thân cận rằng: “bác làm ǵ kệ bác!” Và do đó mà việc hô hào “sống theo gurơng bác Hồ” là một việc làm sai trái rất ngớ ngẩn, v́ cuộc sống muôn mặt của “bác” không thể là một tấm gương. Nhưng sự thật là cả “đảng” và cả dân, cho tới nay, chưa hề có ai sống thanh cao theo tấm gương giả tạo ấy. Mà họ chỉ chọn cách sống như con người xoay sở muôn mặt, muôn hướng của ”bác Hồ”!

- Bác nói về cụ Hồ như vậy, th́ là bác muốn bênh hay bác muốn chống?

- Ấy đấy, các anh lại muốn hiểu lầm tôi! Th́ tôi đă nói rơ nhiều lần rồi! Khổ lắm! Tôi đă kể nhiều về ”ông cụ”, đấy chính là muốn phân tích khía cạnh số phận bi thảm của lănh tụ chính trị trong con người “ông cụ”. Dĩ nhiên là tôi không nói nhiều thêm về những ǵ người ta đă nói quá mức để tâng bốc “ông cụ”. C̣n tôi th́ muốn nhấn mạnh tới những khía cạnh bi thảm, tiêu cực đă bị che giấu trong những quyết định, chọn lựa của “ông cụ”. Những khía cạnh ấy là thuộc về mặt trái, lề trái. Khi nhắc lại những vụ việc huy hoàng, vĩ đại th́ họ đều nói “đấy là nhờ có công lao của “ông cụ”!” Tâm thức cuồng tín, ngu tín thường ưa nghe kể về những huyền thoại đă thần thánh hoá “ông cụ”. Nhưng khi ôn lại bao di sản, hậu quả tai hại, gian nan, khổ ải của chiến tranh mà nhân dân phải gánh chịu, th́ họ không dám chỉ ra rằng những cái ấy cũng đều phát xuất từ những chọn lựa, những tính toán rất quỷ quái của “ông cụ”. Bởi đấy toàn là những hành động trí trá, muôn mặt của “ông cụ”. Những sự chọn lựa ấy đă gây ra nhiều thống khổ… Thế nên bây giờ mà bàn luận về công và tội của “cụ Hồ” th́ sẽ dễ biến thành tranh căi, có thể đi tới xung đột. T́nh trạng đó không phải là do lỗi của bên bênh lẫn bên chống.

- Vậy th́ là lỗi do đâu?

- Ta phải hiểu hoàn cảnh kẻ sùng bái cũng như kẻ oán hận. V́ cả hai đều là nạn nhân đáng thương hại của những bài toán lịch sử, của sự chia cắt đất nước do chính lănh đạo đă kư kết với ngoại bang. Như tôi đă nói: là trên thân phận “bác Thảo”, th́ có cái bỏng ma của “bác Hồ”, nhưng trên thân phận “bác Hồ” lại có bóng ma của các bác Lenin, bác Stalin, và nhất là của bác Mao. Mà trên thân phận bác Mao, lại cỏn có cái bóng ma vĩ đại rất ám ảnh, rất thúc đẩy của cụ tổ Marx…! Nói riêng về thân phận nước ta, th́ ngoài bắc đă bị hai cái bóng ma bao trùm, là hai anh cả đỏ Liên Xô và Trung Quốc, chúng thúc bách chế độ chuyên chế phải tận lực phát triển xă hội chủ nghĩa để đi giải phóng miền Nam, dù là cả miền Bắc c̣n đang ch́m trong t́nh trạng nghèo đói! (Sự thật là khi bộ đội miền Bắc ta đánh chiếm được miền Nam, th́ là ta đă nuốt vào bụng “con ngựa thành Troa” của khối tư bản… để rồi khi ta kiệt quệ nên lâm cảnh tự diễn biển thành chư hầu của khối tư bản!) C̣n ở miền Nam th́ cũng bị cái bóng ma kinh khủng của bàn tay lông lá Mỹ. Nó đă khuynh đảo toàn điện, nó giết lănh tụ, nó liên tiếp thay đổi lănh đạo, gây ra hỗn loạn đến mức tan ră chính trị, rồi th́ nó nản chí, phủi tay, bỏ đi. Nhưng rồi ta đă phải khổ công điều đ́nh xin “hội nhập”, để mời nó quay lại làm ông chủ toản diện…! Đấy là thảm cảnh của ta, của cả hai miên đất nước ta, của dân tộc ta. Tất cả đất nước ta nay đă trở thành con mồi cho đế quốc nước lớn xúm vào cắn rỉa, gậm nhấm, trước th́ bằng cách chia cắt lănh thồ ta chia rẽ dân tộc ta, nay th́ bằng cách biến ta thành một thứ thuộc địa của khối tu bản của các nước lớn. Suốt trong thời chúng ta đánh nhau, th́ mấy đế quốc lớn ấy đă trắng trợn họp mặt vui vẻ với nhau để mặc cả, để chia vùng ảnh hưởng trên đầu chúng ta. Tựu trung th́ chúng ta đă phải chịu toàn là những giải pháp, những chọn lựa ngoài ư muốn của dân tộc ta, nhưng hoàn toàn là theo ư muốn của mấy thế lực nước lớn! Nêu ra thảm kịch này, không phái là để gây thêm thù oán nước lớn, mà là để hiểu rơ hoàn cảnh và vấn đề giữ vững chủ quyền, bảo vệ quyền lợi của ta, một nước nhược tiểu, trước các thế lực nước lớn. Bởi dĩ nhiên những nước lớn luôn luôn lo phát triển quyền lợi của họ.

Ngưng lại, im lặng một hồi, như để dằn cơn xúc động xuống, bác Thảo lại tiếp:

- Chúng ta phải hiểu rằng thời thế đă ép chúng ta phải chấp nhận như thế. Nhưng, khi xét tội, th́ tất cả những kẻ có trách nhiệm đều ẩn mặt. Cách làm việc, cách sống, cách hành động của chế độ, kể cả của bàn tay tham lam các nước lớn đă luôn luôn được hoá trang rất kín đảo, chúng chỉ phô ra bộ mặt thật hào phóng, thật là tốt lành, đẹp đẽ… Cách hành xử của mấy đế quốc là như vậy. Tất cả những trách nhiệm ẩn mặt đó đă tạo ra những hoàn cảnh lịch sử tàn nhẫn mà lănh đạo đă chấp nhận, để rồi chúng ta chỉ là những nạn nhân. Chính họ đă làm hỏng lịch sử và đă làm khổ chúng ta. Có những nhà lănh đạo chính trị, trong đó dĩ nhiên là có cả “ông cụ”, cứ tưởng ḿnh tài giỏi, cứ tưởng ḿnh đă tạo ra những trang sử oai hùng cho dân tộc, cứ tưởng ḿnh có tài khuynh đảo các nước lớn, tưởng rằng minh đă xoay vần được lịch sử… theo ư ḿnh, nhưng cuối cùng mới nhận ra là nước ḿnh vẫn nằm trong ṿng cương toả của mấy thế lực nước lớn. Và chính lănh đạo ta cũng chỉ là con rối trong tay các nước lớn ấy. Các nước lớn “đàn anh” đă tuồn súng đạn cho chúng ta đánh nhau. Họ đă bố trí, dàn dựng cho mỗi phe một lư tưởng, một chính nghĩa, để mỗi người chúng ta cứ nhắm mắt cầm súng để diệt kẻ thù đối diện… quên hẳn kẻ thù ấy chỉ là anh em một nhà! Lănh đạo ra lệnh “tất cả phải là một đạo binh, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến!” Cả nước phải là một trại lính. Tất cả phải sẵn sàng chấp nhận hi sinh… v́ tổ quốc xă hội chủ nghĩa…! Bên đối diện cũng hô hào tất cả phải v́ lư tưởng tự do dân chủ! Rốt cuộc, mỗi người, mỗi bên đều tự giam ḿnh trong mỗi lư tưởng, mỗi hoàn cảnh. Hà Nội muốn là anh hùng của xă hội chủ nghĩa. Sài G̣n cũng muốn là anh hùng của chính nghĩa quốc gia tự do! Đấy thật sự toàn là những anh hùng bi thảm. Bởi với cái nh́n khách quan, thấu suốt những hoàn cảnh lịch sử như thế, th́ thấy rơ ḿnh và “kẻ thù” đối diện, ở bên chiến tuyến, cũng chỉ là những nạn nhân. Và những lănh đạo tài giỏi rốt cuộc đều là kẻ đă làm hỏng lịch sử! Những sự nghiệp, dù vinh quang, th́ cũng chỉ nhất thời, nhưng thực ra di sản lâu dài của sự nghiệp ấy chỉ là làm khổ dân… Sự nghiệp được coi là vĩ đại của Napoléon, của Hitler, của Stalin, của Mao, của “bác Hồ”… trong thực chất đều là những sự nghiệp đă mang lại muôn vàn đau khổ cho nhân dân, dù cho họ đă tạo ra những giờ phút vinh quang huy hoàng. Thực chất đấy chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, nhất thời, nhưng đau khổ th́ lâu dài… Trường hợp tâm tư “ông cụ” th́ cũng thê thảm lắm chứ không vinh quang ǵ đâu. Tin tưởng ḿnh là tay phù thuỷ thần thánh, mưu trí vượt bậc, qua mặt được đám đàn ém, qua mặt và đánh thắng được những nước lớn, nào ngờ rồi chính ḿnh lại là tay phù thuỷ đă bị đám âm binh đàn em cô lập trong thân phận ngồi trên đỉnh cao quyền lực mà bị tước mất quyền làm người có hạnh phúc gia đ́nh, có vợ con như mọi người! Cứ tưởng lợi dụng được các nước lớn, nào ngờ các nước lớn đă dùng ḿnh làm con bài để mặc cả, chia chác ảnh hưởng và quyền lợi giữa chúng với nhau. Cuối cùng ngày nay để lại cho dân một di sản phong kiến kiểu mới, một đảng độc tài tham nhũng, thối nát vô phương cứu văn. Vậy mà vẫn cứ có thái độ kiêu binh, tự đắc, tưởng ḿnh là thần thánh, là trí tuệ, là anh hùng! Thế nên khi nói tới lănh đạo, tới chế độ, nếu chỉ bênh hay chống thôi, th́ đấy chỉ là cái nh́n nông cạn, một chiều. Lịch sử luôn luôn là muôn mặt, muôn chiều, luôn luôn là một sự cộng sinh của nhiều xu hướng tốt - xấu, thiện - ác. Lịch sử đă tạo ra thời cuộc, với những cá nhân lănh đạo, với những mưu đồ của những thế lực chính trị quốc tế, với những ctiọn lựa vị kỷ, những tính toán tàn nhẫn.... Thật ra là tôi rất khiếp phục sự thông minh quá sắc bén, tôi rất ngán ngẩm những “mưu thần chước quỷ”, rất cơ hội của “ông cụ”. V́ thế mà nay về già rồi, qua bao trải nghiệm đau đớn, tôi đă thấy phải tự giải thoát ḿnh khỏi căn bệnh ngu tín, cuồng tín băng cách giải mă những mảng tối bí ẩn của lịch sử, giải mă lănh đạo với những hành động phức tạp, đă phá tan lương tri và đạo lư. Xét cho cùng th́ đằng sau những chiến thắng vang dội, là biết bao nhiêu sai lầm và tội ác đă bị che giấu. Bởi thế, tôi thấy nay cần phải can đàm, thẳng thắn giải mă chính “ông cụ”. V́ “ông cụ” là người luôn luôn ẩn mặt sau những đường lối, chính sách, quyết định tai hại như chọn thể chế xă hội chủ nghĩa Mác-Lê, như chọn lối cải cách ruộng đất của Mao, như quyết định dùng chiến tranh xé bỏ cả hai hiệp định hoà b́nh… Ngay trong bản thân và trong cuộc đời tư và đời công, “ông cụ” đă từng bước, qua mặt, loại bỏ được tất cả đối thủ tiềm năng cạnh tranh, có thể đối đầu với “ông cụ”, để gạt ho ra khỏi địa bàn chính trị ở quốc nội và quốc tế. “Ông cụ” đă từ vị trí lu mờ ở trong nước, từ t́nh trạng đă bị Đệ Tam Quốc tế dứt khoát loại bỏ ra bên lề, không cho phép giữ vai tṛ lănh đạo trong phong trào cộng sản Đông Dương. Vậy mà “ông cụ” đă lật ngược lại mọi t́nh huống, qua mặt tất cả những “trở ngại” trong đảng như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, kể cả Trường Chính… để rồi vẻ vang vươn lên làm tổng bí thư kiêm chủ tịch nước năm 1945! Đây là một sự kiện lịch sử, cho tới nay, chưa có tư liệu nào làm sáng tỏ những phương cách mà ông cụ đă dùng để qua mặt tất cả các đối thủ từng có hậu thuẫn của Đệ Tam Quốc tế… để vươn lên đỉnh cao quyền lực như vậy. Có khá nhiều giai thoại về những quỷ kế của ông cụ, để qua mặt những lănh đạo các phong trào. Họ là kẻ đă cả đời vào tù ra khám ở trong nước, đă từng được đào tạo chính quy, với hậu thuẫn của Đệ Tam Quốc tế… vậy mà cuối cùng họ cũng bị đẩy vào hàng thứ yếu, chôn vùi vào quên lăng, như trường hợp cay đắng của Trần Văn Giàu. Tôi đă gặp được vài cán bộ lăo thành đă từng sống và làm việc ở Trung Quốc lúc ấy. Và họ dă kể ra những điều cạnh tranh, thanh toán bí ẩn này.

- Bí ẩn là như thế nào?

- Đại khái họ kể rằng khi biết ḿnh đă bị Đệ Tam Quốc tế, tức là phía Liên Xô loại ra, “ông cụ” đă khôn khéo mưu t́m sự tiến cử ḿnh bằng cách khác, nghĩa là tạo cơ hội cho ḿnh được chính thức đưa về bởi một thế lực tại chỗ, tức là bởi “Mao lănh tụ”. Bởi ông cụ biết Mao có đầu óc muốn làm thủ lănh các phong trào cộng sản của châu Á. “Ông cụ” bắt đầu bằng bước nhẫn nhục vào làm việc cho Bát Lộ Quân của đảng cộng sản Trung Quốc, để rồi từ đó tạo điều kiện được phong trào cộng sản Trung Quốc tấn phong, ủng hộ đưa trở về, để ép các khu uỷ, xứ uỷ từ trong nước ra, phải chấp nhận “ông cụ” làm lănh đạo duy nhất của phong trào cách mạng Việt Nam sau các đại hội ở Ma Cao và Hồng Kông… Cho dù bước tiến thân thực tế này đă gặp phản ứng gay gắt từ phía “Đệ Tam”. Nhưng rồi do Mao dàn xếp, nên đă qua mặt những sự phản đối này. Bởi các cấp lănh đạo phong trào ở trong nước th́ đa số đều là những kẻ từng được đào tạo, từng sống trong một thời gian dài nhờ sự nâng đỡ của đảng cộng sản Trung Quốc. Đấy là một bằng chứng cho thấy “ông cụ” là một nhà chính trị “thần sầu, quỷ khốc” về mặt tư tưởng, th́ do ảnh hưởng của thời nho học lúc trẻ, nó đă ăn sâu vào tiềm thức, nên “ông cụ” luôn luôn chứng tỏ phong cách, hành động, mang nặng tư tưởng phong kiến nho giáo nhiều hơn là tư tưởng cách mạng Mác-Lê. “Ông cụ”, tuy ca ngợi tư tưởng Mác-Lê, chưa bao giờ thấy “ông cụ” bàn sâu về lư luận và tư tưởng Mác-Lê. Vậy mà ông cụ lại nổi danh và được sùng bái như một lănh tụ cách mạng mác-xít! Bởi ông cụ luôn luôn là người biết chụp bắt đúng cơ hội. Nhiêu người không hiểu được điều này, nên họ cứ tưởng rằng “ông cụ” luôn luôn đi trên con đường chính đạo, chính quy! v́ thế mà họ đă tin vào cồng đức liêm khiết của “ông cụ”, để rồi phong thánh, phong thần cho “ông cụ” Họ cứ lẫn lộn mưu kế, quỷ kế chính trị với trí tuệ, với đạo lư. Họ c̣n cổ vơ dân chúng lập đền thờ “bác Hồ” đế cúng bái, khói hương cứ y như đối với một ông bụt! Việc thần thánh hoá này thật sự là một việc làm có tính duy tầm phong kiến vừa ngu tín, vừa phản cách mạng. Phải lưu ư rằng “ông cụ” là một nhà chính trị đă làm những điều mà không một người cộng sản nào dám lám là đă dám chính thức xoá tên “Đảng Cộng Sản”, để đổi thành “Đảng Lao Động”… không một nhà tranh đấu giành độc lập nào dám kư hiệp định “sơ bộ” chấp nhận để cho binh lính Pháp chính thức được trở lại Bắc bộ, để êm thấm đuổi được đám quân Tường ra khỏi Bắc bộ. V́ quân Tưởng lúc ấy là lực lượng của Đồng Minh sang giải giới quân Nhật, nhưng có ư đồ hậu thuẫn cho cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tưởng Tam, Vũ Hồng Khanh của Việt Cách, Việt Quốc… Hành động này đă làm cho nhân dân cả nước kinh ngạc. “Bác Hồ” c̣n mưu trí công khai cho lập thêm hai đảng chính trị khác là đảng Xă Hội và đảng Dân chủ… Đấy chỉ là quỷ kế che mắt dư luận íhé giới, đi tạo h́nh thức đa nguyên, đa đảng, cứ như thật sự có tự do dân chủ. Thực tế th́ khác. Vụ này đă làm cho chính Stalin bực minh sửng sốt, nhưng nhờ đó mà đă lừa được một vài lănh đạo của khối “Đồng Minh”, lừa được đám trí thức, quan lại ngây thơ ở trong nước, làm cho họ lầm tưởng, rằng “cụ Ḥ” chỉ mưu tính thành lập một chế độ dân chủ đa đảng thật sự như kiểu của phương Tây!

Phải ghi nhận rằng lănh tụ Hồ Chí Minh là một nhà chính trị “mưu thần chước quỷ”, chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá c̣n hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc! Một bậc chân nhân, quân tử không ai dám có những hành động trái sự thật một cách nham hiểm như thếl Nhưng đấy lại là những thứ mưu trí cao siêu về chính trị. Đạo đức không phải là vấn đề được đặt ra trong chính trường. Nhưng những người cộng sản ít học th́ không hiểu, nên lại muốn nêu giá trị đạo đức ra: để thần thánh hoá “ông cụ”, nên họ đă làm “ông cụ” bị bêu xấu, lật tẩy! Những ca ngợi thần thánh ấy đă gây ra hiểu lầm tai hại về di sản đạo đức thuần h́nh thức “của ông cụ”. Bởi người dân ai cũng biết giá trị đạo đức của “ông cụ” rất là hạn chế. Ai cũng nghĩ rằng những đ̣n chính trị muôn mặt độc đáo của “bác Hồ” như thế là một như cầu để thành công! “Bác” từng đánh lừa được dư luận Âu-Mỹ, khi chép lại câu mở đầu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, rồi ngay sau khi cướp được chính quyền lúc đầu, th́ đă cho thành lập một chính phủ đại đoàn kết quốc gia rất đẹp mắt, gồm đại diện của phong kiến, của các đảng phái đối lập và mời cựu hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn. Nhưng chính phủ đại đoàn kết ấy chỉ là cái vỏ, và cũng chỉ tồn tại được có vài tháng. Bởi sau đó; th́ đă có lệnh ngầm cho bộ trưởng bộ nội vụ Vơ Nguyên Giáp thẳng tay dẹp bỏ các đảng phái, coi họ như những “đảng phản động”. Bảo Đại th́ bị lừa đưa sang Côn Minh rồi bị vứt lại ở đó v v… Tất cả những đ̣n chính trị xảo trá vô cùng nham hiểm ấy, cuối cùng th́ đă thu quyền lực vào trong tay một người, một đảng, khiến thiên hạ phải khiếp phục. Nay th́ “đảng” cứ gượng ép dạy dân về thứ “đạo đức Hồ Chí Minh”. Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ hội, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút ra bài học rằng muốn sống, muốn thành công như “bác Hồ” th́ phải biết sống muôn mặt: vừa nói đạo đức, vừa làm thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là lối “đạo đức” thực tiễn của cách mạng, xu hướng ấy nay cũng vẫn c̣n rất phổ biến và rất phát triển trong chế độ xă hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường! Kết quả là người dân cũng nói năng, lư luận thật có vẻ là đạo đức cách mạng, nhưng đồng thời lại cứ hành động với đủ thứ mưu mẹo gian xảo kiểu “tư bản man rợ”, trong mọi ngành, đặc biệt là trong giáo dục, trong y tế, cả trong thoa học và xây dụng…! Thế nên nay chỗ nào cũng “có vấn đề”, cũng hỏng! V́ thế mà ngày nay mọi giá trị đều suy đồi. Phâiĩ tích kỹ về cách làm lịch sử của “bác Hồ” th́ thấy có sự hiểu lầm trầm trọng về bài học “đạo đức” của “bác”. Và từ đó mới nhận ra do đâu mà có t́nh trạng nhân t́nh thế thái suy đồi tồi tệ như ngày nay. Bởi “bác Hồ” chỉ có thể coi như một mẫu mực thành đạt về chính trị, chứ thật sự là “bác” không thể nào là một mẫu mực về mặt đạo đức. Sự tôn sùng “ông cụ” như thánh nhân đă tạo ra thứ đạo đức giả, rất tai hại cho hậu thế. Bởi “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc th́ biến có thành không, lúc th́ biến không thành có.

Với cái nh́n của ư thức hệ, chúng ta đă quên hẳn rằng tiềm lực của mỗi quốc gia, là ở trong ư thức thuộc về cùng một dân tộc, cùng một lịch sử, cùng một ngôn ngữ, cùng một đất nước! Không thể quên rằng nội lực một dân tộc là nền tảng đạo lư ngay thẳng do lổ tiên để lại. Nhưng lịch sử nước ta th́ đă trải qua những giai đoạn đau buồn dẹp bỏ di sản đạo đức của tổ tiên để đón nhận thứ “đạo đức cách mạng mác-xít”. Chấp nhận việc chia cắt lănh thổ dù chỉ là tạm thời, nhưng việc đó thực sự đă chia rẽ dân tộc, đă tạo ra sự phân biệt đối xử v́ khác “ư thức hệ” mà coi nhau như kẻ thù. Rồi thời gian qua đi, ta mới nhận ra rằng cả hai bên thù địch nhau ấy đều là cùng chung giống ṇi, cùng chung một truyền thống văn hoá. Xưa kia, theo Trịnh hay Nguyễn, theo đàng Trong hay đàng Ngoài, theo Nguyễn Huệ hay Gia Long ǵ th́ bây giờ cũng đều là cùng là con dân, đồng bào đất Việt cả. Bây giờ ai cũng thấy xấu hổ v́ những mâu thuẫn nhau, thù địch nhau một cách ngu xuẩn, tồi tệ của thời ấy. Ai lại đào mả nhau, mang sọ nhau ra làm b́nh nước tiểu để trả thù! Thật là thô bạo, thấp hèn, dă man quá. Kể ra những hành động độc ác như thế th́ chẳng khác nào tự tố giác sự thấp kém của dân tộc, giống ṇi của ḿnh. Rồi thời nay th́ cái sự chia cắt, chia rẽ do ư thức hệ xă hội chủ nghĩa, nó c̣n ghê gớm hơn gấp bội thời phân tranh Trịnh Nguyễn khi xưa. Thế nên, tuy nay đă hết chiến tranh rồi, đă có hoà b́nh rồi, những nước lớn thù địch đă bắt tay nhau để cộng tác phát triển… vậy mà ta vẫn cứ luẩn quẩn trong sự thù hận nhau, quyết không đội trời chung… Chế độ cách mạng, sau khi chiến thắng, đă dung túng sự thẳng tay đập phá hết di sản có giá trị của “nguỵ quân nguỵ quyền” của miền Nam trong mọi lănh vực… Ta lại c̣n trả thù cả người chết khi ra lệnh đập phá, nhục mạ cả những nghĩa trang của quân đội “nguỵ”, ta làm vậy chính là ta tự sỉ nhục chính nghĩa và danh dự của ta, ta đă nêu gương thấp hèn để dạy dân cách sống, cách nh́n như của lũ côn đồ thô bạo… Ta đă vẽ ra h́nh ảnh “nguỵ” với nét mặt của ác quỷ. Ta đă quên hẳn rằng: “nguỵ” ấy là cùng một chủng tộc, cũng là anh em trong huyết thống của một đại gia đ́nh dân tộc! Sự độc ác luôn luôn hiện diện trong thái độ thù địch, đối địch. Sự thật cho thấy khi đă coi nhau là kẻ thù th́ rất dễ phạm tội ác. Có lo-gích của chiến tranh nào, của cách mạng nào mà không hề gây tội ác? Lén lút ném lựu đạn, ám sát nhau ở thành thị và nông thôn không phải là tội ác sao? Đấu tố, chụp mũ những tội danh mơ hồ như “tội phản cách mạng” không phải là tội ác sao? Vậy mà nay, “đảng” đă công khai khoe thành tích ám sát, ném lựu đạn ở vùng địch, khoe lén lút đưa đại quân, len lỏi rừng già Trường Sơn vào nam, để xé hiệp định Genève, xé hiệp định Paris…. Để rồi bị mưa bom, trải chất độc da cam…! Hành động như thế là gây hoạ lên đầu dân vậy mà coi đó là những thành tích vinh quang! Khi đă chấp nhận, con đường chiến trành th́ đừng oán than cái ác mà chính ḿnh đă chọn và dân đă phải gánh chịu. Người ta bảo chiến tranh cũng có những quy luật quốc tế của nó. Chi có những kẻ dại khờ mới tin vào những quy luật ấy. Như khi “đảng” kư hiệp định Genève, là biết sẽ chẳng thể tôn trọng nó. V́ thế “đảng” chỉ rút ra bắc một phần lực lượng, phần c̣n lại, để mai phục, sẵn ở miền Nam, chờ cơ hội ra tay mở lại… chiến tranh. Lúc kư hiệp định Paris cũng vậy, “đảng” đă ra tay trước, bằng cách lén lút ngầm tuôn vũ khí và bộ đội vào Nam bằng mọi cách. Hai hiệp định Genève và Paris theo định nghĩa là để chấm dứt chiến tranh, là để duy tŕ hoà b́nh, nhưng “đảng” đă kư để dùng chúng chuẩn bị mở lại chiến tranh cho rộng hơn, ác liệt hơn! Tôi đă nh́n thấy những bước mưu trí quá trớn ấy rất là độc hại. V́ là quá tham lam nguy hiểm, nên tôi đă cố bám theo “bác” và “đảng” để chỉ ra những hậu quả vô cùng tiêu cực của việc tái phát động chiến tranh như thế. Chung quanh ta, ở khắp vùng Đông Nam Á, chẳng có một nước nào đi theo con đường chiến tranh trường kỳ và triệt để như thế.. Họ đă cố tránh hiểm hoạ của chiến tranh.

Chiến tranh bao giờ cũng là giải pháp tồi tệ nhầt đế giải quyết vấn đề. Giải pháp chiến tranh chỉ là cơ hội để thi thố mưu mẹo lừa gạt. Giải pháp hoà b́nh mới là cơ hội để triển khai trí tuệ, xây dựng những cái tốt đẹp, vững bền. Hậu quả của hai giải pháp chiến tranh và hoà b́nh là rất khác nhau. Lúc thay “bác và đảng” quá kiêu căng tin vào chiến tranh, tin vào bạo lực, tôi đă t́m cách nói thẳng rá rằng trong nhiều lănh vực, do chiến tranh, chúng ta đă không thật sự làm chủ tinh thế mà chỉ là những con rối, những thằng hề đáng thương hại trên bàn cờ quốc tế.

- Làm như vậy, là đă cản đường của “bác Hồ” mà không sợ bị trừ khử sao?

- Tôi biết lúc ấy lănh đạo rất hiếu thẳng, rất cuồng tín, v́ đă nhiệt liệt cam kết sẽ mang lại chiên thắng để kích thích tinh thần chiến đấu, để vận dụng ḷng yêu nước. Trong lúc ấy th́ dân chúng đang rất lo ngại “đảng” sẽ mở lại chiến tranh. V́ ai cũng đă thấy sức tàn phá của bom đạn Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Triều Tiên. Xứ sở ấy đă từng bị sự tham chiến của Mỹ san thành b́nh địa… Không dân tộc nào muốn có chiến tranh, không muốn có những chiến thắng hao tổn xương máu như thế. Chẳng có dân tộc nào muốn có chiến tranh để trở thành anh hùng. Dân lúc ấy chỉ âm thầm cầu mong cho có hoà b́nh. Nhưng lănh đạo cách mạng th́ tin tưởng rằng phải dửng bạo lực cách mạng để không chế, áp đảo tinh thần, để ép cả nước phải chấp nhận chiến tranh, biến cả nước thành trại lính, cả trẻ con, phụ nữ cũng phải là những tay súng. Trước nguy cơ sẽ mở lại chiến tranh ở miền Nam, tức là sẽ phải nêm trải chiến tranh ở mức độ thảm khốc như đă thấy bên Triều Tiên ấy, nên tôi đă liều ḿnh chỉ cho giới trí thức và thành phần đảng viên cao cấp thấy rằng phăi coi chừng lănh đạo cũng có thể sai lầm v́ tham vọng. Mà mưu tính mở lại chiến tranh trong điều kiện phải nhờ vả hoàn toàn vào Trung Quốc là một cuộc phiêu lưu vô cùng nguy hại… Chọn lựa tiếp tục đi theo con đường chiến tranh như thế th́ không thể lên án kẻ thù là độc ác. Bởi như thế là không biết tự xét trách nhiệm của chính ḿnh. Sự chọn lựa con đường chiến tranh, mà lại là thứ chiến tranh trong mục đích bành trướng cách mạng, mà măi sau này tôi mới nhận ra là chính con đường đó đă đưa tới thảm hoạ! Đẩy lư luận cho tới tận cùng của trải nghiệm, càng về lâu về dài, càng thấy rơ có ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử: đối với đất nước và dân tộc, bởi nó đă để lại di sản vô cùng trầm trọng, lợỉ bất cập hại. Đó là chọn chủ nghĩa xă hội của Marx để xây dựng chế độ, chọn chiến tranh xoá hiệp định hoà b́nh để bành trướng xă hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao và đảng cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí… V́ nhận thấy như thế mà tôi nguyện sẽ không tiếp tay để gây chiến tranh trường kỳ, để gây oán thù triền miên. Với nguy cơ làm gẫy đổ nền tảng đạo đức và lương tri trong xă hội. V́ thế mà tôi phải tỉnh táo để giữ vững bản chất trí tuệ. Khai triển sự thù hận để hành động th́ dễ, nhưng đấy là con đường đầy hậu quả bi thảm! Nêu ra tội lỗi, độc ác của đối phương th́ dễ, những nh́n ra tội lỗi, sai lầm của chính ḿnh th́ rất khó. V́ thế mà tôi phải cố phân tích cái hại của chiến tranh, nhất là những hậu quả trầm trọng khôn lường của thời hậu chiến là lúc phải đương đầu với t́nh trạng mất lương tri, mất đức hạnh, mất nhân phẩm của con người. Cái đó mới là những vấn đề nan giải, tác hại lâu dài. V́ như vậy là xă hội sẽ loạn! Bởi cho tới nay, tổ quốc “đă sạch bóng quân thù”, nhưng cái nếp dùng thủ đoạn gian xảo độc ác vẫn được duy tŕ, tồn tại trong sinh hoạt của xă hội vẫn dùng những thủ đoạn gian xảo, trí trá để tiếp tục đàn áp, hành hạ anh em, chỉ v́ bất đồng chính kiến… Càng sống trong thứ hoà b́nh nuôi dưỡng căm thù và bạo lực với quá nhiều thủ đoạn gian xảo như thế, “đảng”, ngày càng bị suy yếu đi, càng bị dân oán ghét. Xă hội tiếp tục hỗn loạn, tiếp tục suy đồi đạo đức chính là v́ thế. C̣n lâu ta mới rũ bỏ được nếp sống thủ đoạn gian xảo, trí trá mà ta đă tích cực khai triển trong chiến tranh. Trong hoà b́nh, nếp sống đầy thủ đoạn ấy đă làm xă hội ta loạn, dân ta điêu linh khốn khổ, nước ta bị tai tiếng là thiếu ngay thẳng, thiếu đạo đức trước quốc tế là do vậy….

- Bác suy nghĩ thế là có quá bi quan không?

- Không có ǵ là quá bi quan cả! Đấy không phải, là những lời tiên tri của tôi. Đây chỉ là những ghi nhận hiện tượng đă và đang diễn ra trước mắt. Sự thật là ngày nay, ta đang thấy t́nh trạng suy vi tinh thần, đạo lư như thế. Từ hồi trở về nước, tôi đă tâm nguyện làm cách mạng là sẽ phải t́m cách cố tránh những sai lầm bi thảm của cuộc cách mạng ở Nga. Rồi khi Stalin chết, tội ác của ông ta bị tố cáo, tôi lại càng kỉên tŕ với lập trường là phải làm sao cho cuộc cách mạng ở nước la sạch sẽ hơn, lương thiện, khác hẳn với cuộc cách mạng cuạ Nga, khác với cuộc cách mạng của Trung Quốc của Mao. Tôi đă không ngừng gợi ư là phải cố tránh chiến tranh và củng cố hoà h́nh cho miền Bắc thật sự được có đỏi sống ổn định, thật sự ấm no, hạnh phúc trước đă… V́ thế mà tôi lại càng bị phe cánh hiếu chiến nghi ngờ, ghét bỏ!

- Vậy là bác cũng là kẻ phản chiến hay sao?

- Thực ra ai biết suy nghĩ sâu và xa th́ rồi cũng sẽ phải là người phản chiến. V́ biết rằng sau mỗi cuộc chiến tranh, tuy con người sẽ khôn hơn, nhưng chắc chắn là nó cũng sẽ quỷ quyệt, gian xảo hơn. Nó sẽ coi nhẹ lương tri, đức hạnh, mà coi nặng phần mưu trí, thủ đoạn. V́ mưu trí và thủ đoạn đă đưa tới chiến thắng. Xă hội do tin vào mưu trí và thủ đoạn nên nó sẽ suy đồi. Đó là quỷ luật tâm lư xă hội. Tôi muốn tránh việc gây thù, gây oán là v́ vậy. Công việc của tôi phải là công việc của trí tuệ, không thể dùng thủ đoạn, dùng mưu trí! Tôi không đi t́m chiến thắng, tôi đi t́m con đường đưa tới gần sự thật và công lư. Triển khai bạo lực thù hận lẫn nhau th́ luôn luôn là một bi kịch. Đạt tới sự thật và công lư mới là thắng lợi bền vững. Người ta làm công tác hồ́ tưởng những đau khổ của chiến tranh là để tránh cho chiến tranh không tái diễn, chứ không phải để hâm nóng lại tâm thức thù hận, để dùng nó làm ng̣i nổ cho một cuộc chiến tranh khác, sẽ bùng lên ác liệt hơn, tàn nhẫn hơn. Ở ta t́nh h́nh thù hận cho tới nay th́ vẫn nặng nề lắm. Vẫn có nhiều người cứ như tin rằng chỉ có thể tồn tại, chỉ có thể sống c̣n nhờ… thù hận, biết nhận diện kẻ thù. Họ luôn luôn thấy ḿnh bị bao vấy bởi đủ thứ kẻ thù! Họ tin rằng kẻ thù nào họ cũng có thể đánh thắng. Họ tin rằng muốn tiến tới, th́ phải đánh thắng những kẻ thù. Nhưng có một thứ kẻ thù mà họ không bao giờ thắng nổi, đó là tâm thức tự giam chính ḿnh trong ṿng thù hận, thù địch, cứ để con quỷ thù hận làm chủ trong đầu. Mư đă coi ư thức hệ cộng sản là kẻ thù. Nhưng Mỹ đă biết ngưng những hành động tàn phá của chiến tranh đúng lúc. Dù c̣n dư dă sức mạnh tàn phá để chiến thắng, nhưng Mỹ đá không t́m thắng lợi bằng cách tận diệt chế độ cộng sản ở Việt Nam, mà Mỹ đă đổi chiến lược là sẽ t́m thắng lợi trong hoà b́nh, khi nước ta bước tới giai đoạn kiệt quệ về kinh tế. Rồi từ đó, sẽ ép ta phải mở cửa mời Mỹ trở lại… Mưu trí khác với trí tuệ là ở chỗ đó. Khi ta xé hai hiệp định đă kư, th́ ta khoe là đă dùng sự mập mờ của chữ nghĩa, “phong ba băo táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam”, dùng hiệp định để chuẩn bị mở rộng chiến tranh! Tôi thấy lối suy nghĩ ấy là tṛ choi không thông minh chút nào, mà c̣n là rất có hại cho tương lai của đất nước và dân tộc. Chơi tṛ nuôi oán, nuôi thù để lúc nào cũng thấy thù trong, giặc ngoài… Tưởng đó là sự khôn ngoan, sáng suốt! Duy tŕ một tâm thức phản hoà b́nh bằng chữ nghĩa là tự gieo hoạ trong đấu ḿnh, tự phá hoại trong tâm hồn của ḿnh. Nguy hại là như vậy. Nay th́ đất nước mang đầy thương tích, lănh thổ bị gậm nhấm một phần đảng kể, xă hội th́ cứ ngày càng hỗn loạn v́ kỷ cương, đạo đức cứ suy đồi như tuột dốc! Dân nay thụ động trong nếp sống gian xảo, thấp hèn, chỉ cố chạy theo đồng đô-la. Chính quyền th́ luôn luôn hô hoán; phải cảnh giác trước nỗi sợ “diễn biến hoà b́nh” mà Trung Quốc đă cài vào đầu ta! Rốt cuộc là ta đă làm được một việc mà Trung Quốc muốn, nhưng Trung Quốc đă không làm được ở Triều Tiên, đó là muốn đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương! Khi có kư hiệp định Paris th́ tôi biết rồi Trung Quốc nó sẽ tiếp thêm vũ khí để thúc ta tiếp tục đánh để đẩy Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam để trả thù Mỹ như nó muốn…! Và ta đă làm theo nó, nhưng rồi sau v́ quá kiệt quệ nên ta đă phải mở cửa mời cả Pháp lẫn Mỹ trở lại… Với bao máu xương đă đổ ra cho chiến thắng, rốt cuộc là ta chỉ làm tṛ múa rối mang danh mang lợi về cho Trung Quốc! Giải quyết vấn đề bằng chiến tranh như thế chỉ là mắc mưu, mắc bẫy của Trung Quốc! Các nước quanh ta đă không chấp nhận chơi cái tṛ tai hại ấy của Trung Quốc. Và nay th́ ta đang cố chạy theo để bất kịp những thành tựu no ấm, thịnh vọng của các nước quanh ta!

Nói tới đó, bác Thảo, với nét mặt buồn thảm, lắc đầu nh́n chúng tôi, vẫn mỉm cười, thật tê tái:

- Bao nhiêu phân tích t́nh h́nh một cách sâu và xa của tôi đă không được lănh đạo lắng nghe. Bởi lănh tụ và “đảng” chỉ đam mê t́m thắng lợi trước mắt, mà không nghĩ tới những hậu quả của t́nh trạng đất nước bị tàn phá, con người bị tàn phế v́ bom đạn, bị nhiễm độc bởi thuốéc khai quang… Nêu ra những nguy cơ ấy, tôi bị coi là kẻ bi quan v́ đă “đọc nhiều sách vở của phương Tây”, đă chạy theo xu hướng triết học của thực dân! Bởi lănh tụ và “đảng” chỉ tin thờ, sùng bái mấy cái ông thấy mác-xít như Stalin, như Mao… “ông cụ” không hiểu rằng giá trị căn bản của con người nói chung, của chân lư nói chung, th́ ở đâu cũng vậy, ở thời nào cũng vậy. Thật ra th́ những danh nhân triết học với cắc hệ tư tưởng chỉ là đề tài để tôi nghiên cứu và giảng dạy. Kể cả đối với Marx cũng vậy. Đó là ngành nghiên cứu của tôi. C̣n tư tưởng của tôi, th́ đă được hoàn cảnh thực tại của đất nước, đă từng bước mở tâm, mở trí cho tôi, để tôi cải đổi tư tưởng ấy, trong nỗ lực phân biệt đâu là mưu trí, đâu là trí tuệ. Tôi không mác-xít, tôi không giáo điều, mà tôi cũng chẳng xét đi, xét lại ǵ cả. Bởi thực tại đă định hướng, đă nung đúc tôi thành người có ư thức tôn trọng sự thật. Những ǵ tôi nói ra với lănh đạo chỉ là những tiếng nói của sự thật, của lương tri. Vậy mà họ vẫn cứ kiêu căng khoe chiến thắng, nhưng trong thực tế, họ chưa hề biết xoa dịu được những nỗi thống khổ của chiến tranh mà nhân dân phải gánh chịu. Thế mà nay họ vẫn tiếp tục gây oán, nuôi thù và kể lể công lao chiến thắng! Cái tâm lư trong xă hội ta bây giờ nó quá tàn nhẫn thế đấy! V́ sao? V́ chúng ta vẫn mang nặng quá nhiều mặc cảm trong tâm trí. Mỗi người chúng ta đều đă bị giam hăm trong những hoàn cảnh lịch sử riêng biệt của chính ḿnh, vẫn chưa t́m ra lối thoát khỏi tâm trạng bị giam hăm trong hoàn cảnh đó. V́ thế, kẻ nọ, người kia vẫn cứ nh́n nhau như kẻ thù, như “cộng sản”, như “quốc gia”…! Mối nguy là kẻ thù vô cùng tham lam độc ác đứng ngay trước mặt, mà chúng ta không thấy! Chỉ thấy kẻ thù ngay trong đám anh em với nhau thôi. Khổ thế đấy! Ở trong nước hiện nay, chính quyền, đặc biệt là cánh công an, vẫn là dùng thủ đoạn chụp mũ, vu oan, để gây thêm kẻ thù trong dân. Thù hận là do đó. Tội ác là do đó! T́nh trạng nay là bế tắc hoàn toàn! Và chính tôi cũng đă từng là một đồng loă gây ra sự bế tắc ấy. Làm sao gỡ bỏ được gông cùm của sự chia rẽ, chia cắt? Đấy là một thử thách nan giải, v́ chúng ta chưa hiểu rơ những uẩn khúc tàn nhẫn của thời cuộc, của lịch sử và thân phận nhược tiểu của chính dân tộc ta. V́ thế mà tôi đă không thể trốn ḿnh trong những than thở, trăn trở vụn vặt như mọi người, mà là tôi phải đứng dậy, phải phẫn nộ, mà là tôi phải phản đối, phản kháng, phải t́m ra lối thoát. Trước những sai lầm quá trầm trọng, tôi không thể quên nhiệm vụ sống c̣n của người trí thức. Ngay từ hồi ấy, chỉ có luật sư Nguyễn Mạnh Tưởng và tôi là đă dám công khai lên án, đă dám phản đối lănh đạo. Bởi thế, cái đám cán bộ tuyên huấn, tuyên giáo lếu láo, bảo hoàng hơn vua, đă làm đủ cách để đàn áp tinh thần tôi, và c̣n mưu tính sẵn sàng tiêu diệt tôi. Nhưng chủng c̣n chờ lệnh.

Nghe câu kết luận buồn thảm như vậy, chúng tôi không khỏi suy nghĩ về thân phận của chính ḿnh. Chúng tôi muốn đưa bác trở về sớm, v́ hôm sau, bác c̣n phải chuẩn bị thuyết tŕnh tiếp một chương khác trong cuốn sách của bác. Nhưng không ngờ rằng chiều thứ ba ấy lại là thêm một khúc rẽ vô cùng bi thảm trong cuộc đời của bác.

Vào buổi chiều thứ ba 12 tháng tư, năm 1993, bác Thảo mang bài thuyết tŕnh đă in bằng sao ảnh (photo-copie) tới nơi thuyết tŕnh là Nhà Việt Nam, để bán. Ít ai biết được ràng bác Thảo lúc ấy đang vô cùng lạc quan tin tưởng vào những ǵ bác sắp sửa công bố qua các buổi thuyết tŕnh này. Bác từng vui vẻ tâm sự với chúng tôi rằng đây là những bước kết thúc cung hành tŕnh đi t́m sự thật. V́ kể như bác đă truy ra thủ phạm của cái sai, cái ác trong cách mạng, trong ư thức hệ. Đấy “sẽ là một thành tựu trong cuộc đời và sự nghiệp triết học của Trần Đức Thảo”.

Những bất ngờ thay! Vừa bước tới trước “Nhà Việt Nam”, th́ một nghịch cảnh quá tàn nhẫn đang chờ đợi bác! Tại đây anh Dũng, người trực phiên, nhưng lại đứng ở ngoài đường, chỉ vào hai cánh cửa cũ kỹ bị khoá bằng xích sắt để báo tin buồn: sứ quán ra lệnh đóng cửa Nhà Việt Nam để từ nay không cho bác Thảo tổ chức diễn thuyết ở đó nữa. Thính giả đành bỏ về. Nhưng một số bực tức đứng lại tranh luận, như muốn gây gổ, đấu khẩu với anh Dũng. Rồi vợ chồng bà B́nh và ông Jaeques tới. Đây là hai thính giả Việt kiều trung thành mà cũng là có vai vế kỳ cựu của Liên hiệp Việt kiều, khi thấy cửa khoá, đă nổi nóng bẻ khoái mở rộng cửa, lớn tiếng mời mọi người vào:

- Nhà Việí Nam này là của Liên hiệp Việt kiều, chứ có phải là của sứ quán đâu mà sứ quán có quyền ra lệnh đóng cửa.

Bác Thảo lắc đầu, chán nản rồi tỏ ra rất phẫn nộ. Bác cho biết v́ đa số thính giả đă bỏ về, nên bác không c̣n hứng để thuyết tŕnh nữa. Bác mím môi, mặt tái mét, trông rất bi thảm. Thấy vậy, anh Lê Tiến, một trong những người sáng lập hội thân hữu Trần Đức Thảo, kéo bác và tôi vào ngồi cạnh chiếc bàn nhỏ, trong gian, pḥng nhỏ sau hội trường để t́m lời an ủi. Trong căn pḥng nhỏ ấy, tất cả trăn trở, nghiền ngẫm được giữ kín bấy lâu nay trong đầu, giờ đây, được bung trải ra minh bạch và thẳng thắn. Rất may là tôi đă kịp thời ghi âm được một phần của đoạn chót(1). Bác Thảo lúc th́ nói gay gắt, lúc th́ đập tay xuống bàn để nhấn mạnh.

Xin coi mục “Phụ lục” ở phần cuối, chép lại nguyên văn, từ băng ghi âm, những lời tâm sự, cũng như những lời trăn trối của Trần Đức Tháo, lúc phẫn nộ v́ bỗng bị cấm không cho mượn nơi thuyết tŕnh để giới thiệu cuốn sách đang được h́nh thành để nói về sai lầm của Marx đă đưa tới sai lầm và bế tắc của lư thuyết đấu tranh tranh giai cấp.

 

Chương 14

 

 

Nêu đích danh thủ phạm!

 

Bực bội nói ra những lời trăn trối, trong đó tóm gọn sơ đồ cuốn sách đang trong nguy cơ không thể hoàn thành, bác Thảo giải thích:

- Trong cuốn sách đó, tôi thẳng thắn đánh giá lại tư tưởng Marx khi soạn ra phương pháp cách mạng đấu tranh giai cấp, dùng hận thù giai cấp đánh gục giai cấp tư sản, để xây dựng thế giới đại đồng với một xă hội không cỏn giai cấp bóc lột. Lenin, Stalin, Mao, rồi Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Fidel Castro cho tới Pol Pot… mỗi con người ấy, ở vị trí lănh đạo, đă tuỳ tiện khai triển cách mạng theo lời dạy của Marx. Qua những kinh nghiệm lịch sử ấy, cùng những d́ sản thảm khốc của nó, tôi đă giải mă Marx, Lẻnine, Mao, Hồ, Kim, Pol… để chỉ ra rằng ư thức cách mạng đă sai từ gốc, nghĩa là từ Marx. Đặc biệt là bác Thảo đă nhắc đi nhắc lại câu “Chính ông Marx sai”!

- Chính tôi, trong những bước đầu nghiên cứu, đă thấy giai đoạn ḿnh tự nguyện làm môn đệ của Marx, sùng bái Marx với tất cả ḷng nhiệt thành của tuổi trẻ, là giai đoạn cuồng tín, cứ nghĩ ḿnh phải một ḷng đi theo Marx như một tín đồ tin theo vị chúa cứu thế trên con đường giải phóng con người khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Bởi cuộc cách mạng này đă dựng lên cả một hệ thống chính trị chuyên quyển giam hăm, kim kẹp con người. Hệ thống chính trị ấy lại c̣n bóc lột giai cấp lao động gấp bội phần so với sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Mà quyền lực chuyên chính lại không cho phép công nông phản đối sự bóc lột ấy. Tạĩ sao kỳ lạ vậy?

- Nay già rồi tôi mới nhận ra là tất cả những sai trái ấy đều là do sự cuồng tín vào lư thuyết, vào ư thức hệ nên đă dẫn lối tới những bước quá trớn… Thế rồi các lănh tụ, từ Lenin trở đi, đều đă tuỳ tiện theo cảm hứng mà suy diễn, mà đề ra nhưng chính sách, những phương pháp triệt để, những hành động tuyệt đối, để rồi gây ra những tội ác của cách mạng!

Khởi đầu, nhà tư tưởng đă tung ra một học thuyết thật hấp dẫn, thật là cuốn hút nhân loại, nhất là thành phần nhân loại lao động nghèo khổ… Nhưng rồi học thuyết ấy, ư thức hệ ấy đă làm khổ con người, đă nô dịch con người, đă phản bội con người và đă không hề giải phóng con người!

- Cuốn sách của tôi chứng minh rơ rằng chính cái phần xây dựng mô h́nh thế giới đại đồng của Marx đă làm hỏng học thuyết. Trừ ra khi phê phán chủ nghĩa tư bản, Marx đă sử dụng những sự kiện đă xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xă hội đương thời, để đả kích xă hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước qua phần lư luận căn bản để xây dựng xă hội mới bằng cách nêu mô h́nh thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, th́ Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. V́ cái mô h́nh thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ư thức “đấu tranh giai cấp”. Cái mô h́nh ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai! Làm như vậy trong lư luận, là Marx đă mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đă có, đă thấy. Đấy là lối lư luận với một nền tảng siêu h́nh, đúng là thứ biện chứng của Hegel! Biện chứng đó không c̣n có chút ǵ là duy vật sử quan nữa.

Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đă biến nó thành ư thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xă hội không c̣n giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ư niệm siêu h́nh của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô h́nh ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính ḿnh. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xă hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đ̣n bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xă hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không c̣n cảnh người bóc lột người v́ quyền tư hữu đă bị băi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lư luận như công nông nào mà không mê.

Như vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc một cách sung sướng: v́ ḿnh sẽ không c̣n bị bóc lột, ḿnh sẽ làm chủ! Con người từ đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xă hội không c̣n giai cấp “sẽ” thành h́nh trong tương lai! Lời hô hào “vô sản thế giới hăy đoàn kết lại!” đă vang dậy khắp trái đất rồi vang lên khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian”, đă thôi thúc giai cấp bị bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản! Hoan hô con người mới xă hội chủ nghĩa, là con người vô sản chân chính. Lúc đó, các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ là một tổ quốc vô sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xă hội mới trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu mọi giới lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đă náo nức ủng hộ; đă sùng bái Marx. Đây là b́nh minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của giai cấp lao động! Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi của cả nhân loại.

Cả thế giới đă bị lung lạc v́ luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm hi vọng tràn trề của nhân dân lao động, với ḷng cằm thù “giai cấp bóc lột” sôi sục trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích của xă hội tư bản!

Rồi bác Thảo lắc đầu giải thích, trong nước mắt;.

- Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ư thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xă hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ư thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời c̣n là muông thú, khi khơi dậy tâm lư hận thù! Lư thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ư chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lư luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lư thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!

Với niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ư thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng” trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lănh tụ là vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển cuộc cách mạng xă hội theo ư thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó! V́ nó!

Thế nhưng cho tới nay, những ai đă từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao ḥ hét vận động… đều đă thấy rơ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đă được thấy tận mắt, đă được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người mới xă hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đă nhận ra một cách khách quan và đau đớn rằng việc xay dựng xă hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác, v́ đă trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đă trói buộc, giam hăm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, th́ nó đă không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn c̣n bị bóc lột. Trong xă hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!

Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đă không hiển hiện trong một chế độ xă hội chủ nghĩa nào cả. Sau này th́ “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy” đă lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ư thức hệ ấy là đă dụng cụ hoá, đă nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hăm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đă giải phóng con người! Con người lao động đă chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. V́ ḿnh cũng là của… “đảng”!

V́ trong thực tại của xă hội chủ nghĩa mới, vẫn c̣n giai cấp bóc lột. Đó là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đă cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lư xă hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi măi sau này người ta đặt cho chế độ ấy, cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao cấp”.

Đặc biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích luỹ lâu dài mà có được, này đă bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ kư của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ ḅn mót của công, cướp đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! V́ cái ǵ cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy! Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng. Rừng, núi, sông ng̣i, ao hồ… bị con người mới trong xă hội vô sản mới ấy phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đă tỏ ra là con người tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những ǵ là của chung bất kể luật pháp! V́ là của chung nên ai cũng nghĩ là ḿnh cũng có quyền xâm phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo tŕ! Trong thực tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xă hội, đă trở thành nhà tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xă hội cho gia định, họ hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ kư của quyền lực trong tay họ!

Khi thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường của xă hội, và nay đă thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! V́ đấy là của chung!

Marx đă không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xă hội xă hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đă phát triển một cách lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lănh đạo trong “đảng”, cũng đă trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế vương trên đầu nhân dân, để rồi t́m cách truyền ngôi, truyền gia tài cho con cái!

Thực tại cho thấy trong xă hội mới “xă hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản ḱnh chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn c̣n bị bóc lột, thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi h́nh thức sinh hoạt khác trong xă hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”! Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay “đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần! “Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lư! Và ”đảng” tự tuyên xưng “đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân” từ đây là nhăn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!

“Đàng” c̣n ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xă hội chủ nghĩa là yêu nước”

Quan sát những hiện tượng đă xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là tại Sài G̣n sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đă bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đă trở thành những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất động sản không lồ đă lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này. Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đă được đánh giá hàng bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!

Đó là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đă không hề tiên liệu.

Sai lầm cơ bản của lối lư luận ấy là đă mang cái mô h́nh ảo của tương lai, đặt nó lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là từ một học thuyết mơ hồ, siêu h́nh ấy, Lenin muốn suy diễn ra sao cũng được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi đến Pol Pot lại càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!

Rồi bác Thảo nhấn mạnh:

- Tôi ra đi kỳ này, là với dự tính qua Paris để công bố, trong cuốn sách, những lư luận chứng minh sự sai lầm bất đầu từ lư luận siêu h́nh của Mars, rồi từ đó bước tới sai lầm trong phương pháp hành động dùng hận thù làm đ̣n bẩy, để từ đó tuỳ tiện xúc phạm quyền sống của con người.

Thế nhưng trong sáu tháng vừa qua tại Paris, sau những trao đổi với vài nhà tư tưởng tiến bộ hiện đại, trong đó đáng kể nhất là những góp ư của giáo sư Boudareỉ, th́ tôi đă đẩy lư luận truy lùng thù phạm gây ra “sai lầm và tội ác” ấy tới điểm tột cùng: chẳng những sai lầm do lư luận, do phương pháp hành động, mà trước cả những điểm đó là sai lầm của khái niệm, của học thuyết, của ư thức “đấu tranh giai cấp”! Đó là cái gốc của mọi sai lầm, cái gốc của mọi hành động quá trớn, cái gốc của bế tắc. V́ đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp bóc lột, nhưng rồi lại nảy sinh một giai cấp bóc lột mới. Chính cái học thuyết; cái ư thức “đấu tranh giai cấp” ấy đă dẫn tới t́nh trạng con người vẫn bị bóc lột. Và con người không hề được “cách mạng” giải phóng.

Ỷ thức đă sai v́ nó ḱm kẹp con người, dụng cụ hoá con người. Con người mới” ấy đă bị chủ nghĩa cuồng tín (fenatisme) và chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme) xỏ mũi lôi vào con đường của giáo điều, theo một thứ “tín ngưỡng cộng sản… V́ thế trên đường đấu tranh giai cấp để đi tới tương lai và hạnh phúc, nhưng cứ đi hoài mà không bao giờ tới đích! Đấy là thảm kịch lớn nhất của thế kỷ XX, tức là của chính chúng ta. Tác giả của học thuyết, của ư thức hệ ấy chính là ông Marx. Chính Marx là thủ phạm đă gây ra mọi sai lầm và tội ác!

Diễn giải như vậy rồi bác Thảo than thở:

- Tôi tính ít ra cũng phải bốn tháng nữa th́ mới có thể hoàn thành cuỗn sách với kết luận hoàn toàn mởi mẻ và khách quan về mặt triết học. V́ cũng phải lướt qua những bước biến đổi của xă hội, thông qua các giai đoạn phát triển của vật chất, của vũ trụ, trải nghiệm vấn đề môi trường bị tàn pha do phát triển… chứ không thể nhảy ngay tới kết luận giản dị là mọi sự xấu xa đă xẩy đến là do học thuyết sai lạc của Marx.

- Thật là bi thảm cho một nhà triết học như tôi, khi đă quyết tâm cống hiến cả đời ḿnh cho lư tưởng cách mạng vô sản. Nhưng rồi cuối cuộc đời, tôi mới khám phá ra rằng ḿnh đă bị lạc hướng vào con đường cách mạng không tưởng, con đường độc ác, không lối thoát, mà Marx đă vạch ra.

Để g̣ ép con người phải chấp nhận cái phương pháp xây dựng không tưởng này, các đảng cộng sản cầm quyền đă phải dung tới chính sách tuyên truyền dối trá: “cứ nói hoài th́ người ta phải tin!” Rồi dùng những phương pháp khùng bố tinh thần bằng cái sợ trước bạo lực, trước những trừng trị, tù đày và tử h́nh hàng loạt mà không cần xét xử bằng toà án… V́ “cái sợ sẽ chi phối cả suy tư lẫn hành động”!

Xét cho cùng th́ thủ phạm, gây sai lầm cơ bản ấy không phải là Lenin, không phải Stalihe, hay là Mao. Cũng không phải là Pol Pot… v́ tất cả những nhà “lănh đạo dân tộc” ấy, đều do ư thức hệ mác-xít dẫn lối, do “đảng” nhào nặn ra… tất cả đều do một “thiện ư”(!) muốn xây dựng một xă hội không giai cấp như Marx đă chỉ ra, để cho loài người được hưởng thứ thiên đường không giai cấp của giới vô sản trên trái đất!

Phải thẳng thắn mà ghi nhận rằng cho tới nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đă thực hiện được đúng một h́nh thức xă hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là một chế độ vô sản, một xă hội không có tư hữu, không có tiền tệ để đừng làm dụng cụ bóc lột. Đó chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đă xây dựng tại Campuchia, sau năm 1970. Trong suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các chế độ xă hội chủ nghĩa khác đă im lặng đồng t́nh, đồng ư, v́ tin là trong chế độ Pol Pot ấy thật sự là chỉ có giai cấp vô sản. V́ thế lúc ấy, không một nước xă hội chủ nghĩa nào đă dám lên tiếng phê phán, bắt bẻ để phản biện lại cuộc cách mạng của Pol Pot! Kể cả Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc đă ủng hộ nó triệt để, và cả Việt Nam cũng đă nh́n nhận chế độ ấy! Tất cả khối xă hội chủ nghĩa và nhiều nước trên thế giới, kể cả Liên Hiệp Quốc, cũng đă nh́n nhận chế độ của Pol Pot, trong suốt mấy năm nó tồn tậi! Đấy là một thử nghiệm cụ thể cao nhất của tư lưởng Marx trong công cuộc cách mạng vô sản. Nhưng…

Nhưng cho tới cuối năm 1977, khi Pol Pot bắt đầu công khai gây căm thù mang tính chủng tộc với Việt Nam, coi người Việt là kẻ thù của người Khmer, và bắt đầu thực thi chính sách phân biệt chủng tộc để bài xích, rồi sau là gây xung đột ở biên giới với Việt Nam, th́ chính quyền xă hội chủ nghĩa ở Hà Nội mới xua quân đánh chiếm thủ đô Phnom Penh, và áp đặt ở đó một chế độ xă hội chủ nghĩa theo kiểu thông thường của khối “xă hội chủ nghĩa”, mà ở đó vẫn c̣n mâu thuẫn giai cấp, vẫn c̣n mầm mống tư sản bóc lột… Lúc đó người ta mới dám phát giác chế độ Khmer đỏ của Pol Pot là chế độ diệt chủng đẫm máu. Dù sao th́ đấy cũng là chế độ thuần tuư vô sản duy nhất đă thành h́nh trên trái đất! Tuy nó đă là một chế độ của tội ác không thể tha thứ!

Thủ phạm, kẻ gợi ư, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lănh đạo, trong: đó có cả Poi Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu ấy chính là Marx! Lời tiên tri sẽ “xoá bỏ giai cấp” của Marx đă mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ đă lao ḿnh vào tội ác! Tại những nước đă có chính quyền vô sản triệt để “của giai cấp công nông” (Sự thực là của “đảng” cầm quyền, của nhà nước do đảng cộng sản nắm giữ), chính giai cấp công nông trung thực, tại các chế độ ấy đă bị bóc lột và đàn áp một cách vô tội vạ! V́ đă không c̣n được ai bảo vệ, nên giai cấp công nông đă ngậm ngùi, nguyền rủa Marx, coi Marx là một nhà tiên tri khốn nạn, đă lừa đảo, lấy cái khát vọng thế giới đại đồng không có bóc lột làm bả lừa dối công nông!

Cách mạng ta đă hứa với dân rằng: “đảng” là đày tớ của nhân dân, lo trước, vui sau dân”. Nhưng mặt trái của lời hứa ấy là “đày tớ” nay đă giành hét đặc quyền, đặc lợi, ngang nhiên vui sướng trên đầu nhân dân. T́nh trạng này vẫn c̣n kéo dài dài cho tới nay. Đó là một chính sách hết sức trơ trẽn, chướng mắt, công khai, trong thời buổi khó khăn, mà “đảng” giành hết đặc quyền, đặc lợi cho cán bộ đảng viên cấp cao, cho các “diện” thuộc “gia đ́nh cách mạng”! Người trong gia đ́nh của “đảng”, của quan chức cách mạng th́ được ưu tiên sống no ấm, được mua hàng tốt, hàng ngon ở cửa hàng riêng (Nổi tiếng đă đi vào ca dao là chợ Tôn Đản ở Hà Nội). Chết th́ được chôn tại nghĩa địa riêng! (Nghĩa trang Mai Dịch). Con cái của “đảng” đi th́ được ưu tiên cho điểm cao, được ưu tiên vào học trong các trường tốt… Được ưu tiên nhận học bổng du học nước ngoài!

Thực tế là nhà nước vô sản cứ tuỳ tiện tiêu xài công quỹ, cấp phát bừa băi đất đai để phục, vụ riêng cho phe, cánh của “đảng”, cứ thực thi chính sách tiêu xài hoang phí ấy rất tự nhiên, coi đấy là “công bằng xă hội”. V́ bao công lao đi tới chiến thắng là do “đảng”! Khi dân chúng tỏ ra công phẫn th́ “đảng” hứa sẽ sửa sai, sẽ đọc lại Marx để sửa sai… Nhưng rồi vẫn cứ mang ông Marx ra làm b́nh phong…

Đến nay tôi phải thành thật thú nhận là ḿnh đă một thời đam mê, mù quáng coi Marx là người dẫn đường không bao giờ sai lầm! Giờ đây th́ phải thoát ra khởi sự u mê, bằng cách chứng minh, lư giải, theo phương pháp triết học, qua một “lô-gích vừa biện chứng, vừa h́nh thức”, để hiểu rơ tại sao sai, sai lầm đă bắt đau từ đâu, từ khâu nào, vào lúc nào và do ai!

- Thật là nhục nhă cho sự ngu tín ấy, v́ trong thê giới ngày nay, phần lớn nhân loại đă biết sống theo ư thức sinh tồn, theo lương tri của trực giác, với khả năng thực tế nghiệm sinh, biết phân biệt thiện ác, đúng sai. Con người đă biết sống theo luân thưởng đạo lư tự nhiên do truyền thống tổ tiên, ông bà truyền dạy, mà không cần học tập, lư luận theo một chủ nghĩa hay một ư thức hệ chuyên chính nào cả.

Thực tại cho thấy không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản, không một ai bằng lỏng với cuộc sống trong chế độ kinh tế nhà nước độc quyền, qua sự phân phối hách dịch như bố th́ bởi tập thể. Phải xếp hàng cả ngày để mua những thứ hàng rất tồi về phẩm chất, rất hạn chế về số lượng, thường thiếu hụt về cân, đo, tại các cửa hàng “mậu dịch” nhà nước. Vậy mà cứ tuyên truyền đề cao “mậu dịch là bà nội trợ đảm đang của toàn xă hội”, coi đấy là công cụ nuôi dân của “bác và đảng”! Thật ra là ai cũng muốn phấn đấu để thoát ra hoàn cảnh vô sản túng thiếu như thế, để trở thành con người hữu sản, có quyền tư hữu, quyền sống, quyên tự do sản xuất, tự do kinh doanh! Dân giễu gọi chế độ bao cấp và hạn chế đó là chế độ Xếp Hàng Cả Ngày!

Vả lại, chính lănh tụ các đảng cộng sản cầm quyền, cũng sống theo băn năng của những con người đại tư sản, với sự hưởng thụ những đặc quyền, đặc lợi. Họ dẫm lên chủ nghĩa tập thể mà sống, nhưng họ bắt dân phải tôn thờ chủ nghĩa ấy! Tư duy cách mạng đâu phải là làm như vậy? Vô sản ǵ cái lũ gian dối, tham lam ấy! Công nông ǵ cái lũ cán bộ mang ban chất nhà giàu kếch sù, ưa sống xa hoa hỗn xược ấy! Chúng chỉ là những tay chính trị gian tà quư quái, tận dùng thủ đoạn dối trá, đội lốt công nông, để giữ chuyên quyền chính trị cho phe, cho “đảng” và cho chính chúng mà thôi.

Rồi Thảo thành thật thú nhận:

- Phát động hận thù giai cấp là đă đẩy lùi c̣n người trở về với bản năng muông thú, phải cắn nhau để giành ăn ở thời nguyên thuỷ, dù là nói “để tạo niềm tin tất thắng”! Lư thuyết đấu tranh giai cấp ấy trong thực té là một sự phản tiến bộ, phản văn minh, văn hoá. Trước đây, v́ tuyệt đối tin vào Marx mà tôi cứ lúng túng, cứ luẩn quẩn trong lư luận, cứ lẫn lộn trong mấy bậc phủ định, để tránh phủ định ông Marx! V́ tin rằng nếu có sai lầm là do ḿnh, chứ ông Marx không thể nào sai! Nay tối thấy phải can đảm, phải khách quan mà phân tích kỹ lại tất cả, qua sự hiểu biết về vận động của sự kiện thời gian hoá (mouvement de la temporisation), bằng cách soạn ra một cuốn sách, để cho thấy con người và xă hội đă biến thái tồi tệ như thế nào trong ư thức “đấu tranh giai cấp”. Và rồi sau này c̣n cần có nhiều công tŕnh nghiên cứu, đánh giá thật khách quan, vô tư khác nữa về những tiết lộ của lịch sử, từ các hồ sơ mật, cất giấu kỹ trong các kho lưu trữ của các đảng cộng sản cầm quyền nữa, để cho nhân loại thấy rơ tầm tác hại vô cùng, vô tận của ư thức hệ “đấu tranh giai cấp” ấy.

Với vẻ mặt buồn bă, sầu thảm, v́ thấy rơ rằng minh đă là kẻ đồng loă, là kẻ đă đồng hành với tội ác trong một thời gian quá dài, đă gây quá nhiều đau khổ cha con người, bác Thảo lắc đầu thở dài:

- Khố thế đấy! Làm cách mạng dân tộc để giành độc lập là đúng quá rồi, là đẹp quá rồi! Nhưng lại đem ông Marx vào! Chỉ v́ muốn xây dựng cho bằng được cái thế giới đại đồng không tưởng ấy mà các đảng cộng sản và các môn đệ của Marx đă phải dùng đủ thứ phương cách, đủ thứ thủ đoạn nham hiểm, tồi tệ… Bởi biết rằng dùng thủ đoạn là xấu, là ác, là tội nên cứ phải che giấu, cứ phải bóp méo sự thật để tô hồng, rồi từ đó rất sợ phản biện, rất sợ đối lập, rất sợ tự do báo chí, nghĩa là rất sợ những định chế bảo vệ sự thật, sợ tất cả những ai đă nh́n thấy và muốn nói ra sự thật! Người lănh đạo ngay thẳng, một chế độ trong sạch, tôn trọng sự thật, tôn trọng công lư th́ đâu có lư do ǵ mà sợ những quyền dân chủ tối thiểu ấy.

- Giờ đây, “đảng” đành phải ngả hẳn sang kinh tế thị trường của khối tư bản. Chính sách ấy thật ra là mang tố chất phản cách mạng xă hội. Làm như vậy chỉ cốt để chế độ và “đảng” tồn tại… “Đảng” vẫn phải nói vớt vát rằng đó là “nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa”, tức là vẫn c̣n phải mang ông Marx ra làm b́nh phong! Nhưng khốn nỗi chính ông Marx cũng đă sai! Tôn thờ ư thức hệ mác-xít là duy tŕ tư duy sai lầm từ cái gốc tổ tông của cách mạng, nghĩa là từ Marx! Nói kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa là nói dối, là vẫn mang thứ biện chứng không tưởng, siêu h́nh của Marx ra để bảo vệ chính sách “đổi mới”, một chính sách đă bước ra ngoài hệ thống tư tưởng mác-xít…

Sự thực ở ta, nay không phải là đang áp dụng chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa”, mà thực tế là ta đang thi hành thứ “chủ nghĩa xă hội theo định hướng kinh tế thị trưởng”! Nghĩa là ngày nay “đảng” vẫn duy tŕ h́nh thức cai trị của chế độ chuyên chính, nhưng là theo một thứ chủ nghĩa tư bản mới rất tàn nhẫn, nhưng vẫn là thử lư luận của xă hội chủ nghĩa. Thứ chủ nghĩa tư bản mới dă man này ở Mỹ không có. V́ ở đó dân có quyền của dân, dân được phép phê phán, thay đổi đảng cai trị không vừa ư dân, bằng lá phiếu. C̣n ở nước ta, thực sự là sự “đổi mới” này, là đang theo một thứ chủ nghĩa tư bản rất mới so với thời bao cấp trước đây, nghĩa là nay cái ǵ cũng bị coi là hàng hoá, cái ǵ cũng có thể rao bán: từ lư thuyết, nghĩa vụ, từ con người, tử trẻ thơ tới thanh niên, phụ nữ, cái ǵ cũng có thể bán, bán cả tài nguyên, cả đất đai, lănh thổ, cả sức lao động cho nước ngoài, cốt để thu đô-la về!… V́ tất cả đối tượng đều được coi là hàng hoá để kinh doanh buồn bán, để sinh lợi nhuận… V́ thế mà trong thực tế, nay đồng đô-la Mỹ đang làm chủ nước ta! Độc hại của sự định hướng theo kinh tế thị trường này là đă coi các nghĩa vụ cao quư, thiêng liêng chất như giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa coin người. th́ nay những nghĩa vũ đó cũng đều là hàng hoá, cũng phải chịu luật hạch toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Do vậy mà nghĩa vụ chức năng thiêng liêng, thuần tuư phục vụ con người, nay đă hoàn toàn bị phả sản. Phát triển xă hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường như hiện nay là sự thống trị của tư bản man rợ, là một sự phá hoại tinh thần về mọi mặt, từ lương tri tới lư tưởng, từ trật tự kỷ cương tới truyền thống văn minh, văn hoá của tổ tiên… Tất cả nay đều bị đồng đô-la lũng đoạn, hoạch định, xỏ mũi lôi đi vào một cuộc sống cuồng nhiệt quá trớn. Bây giờ là thời tự do sa đoạ, tự do chui luồn luật lệ. Để cho giới trẻ mặc sức bị cuốn hút theo lối sống phù phiếm, sống cuồng, sống vội, sống giả. Và cứ tưởng thế là văn minh, là hiện đại, ai ngờ đó chỉ là thử phản văn minh, là đi tụt lùi, là thứ phản văn hoá v́ nó mất gốc, mất lư tường, mất trật tự kỷ cương mà tổ tiên đă dày công xây dựng… Tại các nước dân chủ như ngay tại nước Mỹ, chính sách kinh tế thị trưởng luôn luôn bị quyền tự do dân chủ kiềm chế, bị tự do báo chí canh chừng, nên nó không thể tự do tung hoành phá phách được, v́ ở đó có sức phản bác của người dân. V́ dân ở đó có quyền dùng lá phiếu của ḿnh để lật đổ một chính phủ không tôn trọng và bảo vệ quyền dân. Ở nước ta cho tới nay, lá phiếu chỉ là tṛ đùa dân chủ của “đảng”, để tô đẹp bề ngoài cho chế độ. Thực tế là chế độ ta nay đă không hề bảo vệ dân. Thực chất của lá phiếu ở ta là nó không có quyền lực ǵ cả. Nó chẳng thể đào thải được một chính quyền tham nhũng thối nát đă bị dân chúng oán ghét, nguyền rủa.

- Giờ đây phải lấm sao cho mọi người thấy rơ sự thật là như vậy. V́ chỉ có sự thật ấy mới giải thoắt, giải phóng được con người khỏi những “giấc mơ vô sản không tưởng”, với tất cả đam mê cuồng tín và ngu tín của nó! Nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx th́ không bao giờ thoát ra được t́nh trạng bế tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta.

Rồi bác Thảo lại thú nhận một cách đau đớn:

- Nay tôi già rồi mới nhận ra điều ấy. Gần đất xa trời rồi mới có cơ hội để nói ra. Khổ thế đấy! V́ vậy mà quyền lực đă muốn bịt miệng tôi, đă xua đuổi tôi ra khỏi quê hương… Tôi đă chấp nhận ra đi, dù là vào lúc tuổi già, sức yếu, để có cơ hội thét lớn cùng thế giới rằng: “Thủ phạm gây ra đại bi kịch này cho nhân loại, chính là Marx!”

Từ lúc tôi khám phá ra là tôi đă sai lầm, đă một thời đúng trong hàng ngũ của tội ác, đă mù quáng cả tin vào ư thức đấu tranh giai cấp của Marx, th́ sự tỉnh thức ấy làm tôi thấy sung sướng. Bởi như thế là tôi đă tự giải thoát chính tôi, đă tự giải phóng tôi. Tôi đă trở lại thành con người tự do. Tôi đă đạt tới tâm trí thanh thản, trong sáng của con người tự do, tư tưởng không c̣n bị gông cùm của ư thức hệ! Và nay dĩ nhiên là tôi phải phủ nhận tất cả những ǵ đă viết lúc đang sùng bái Marx!

Những ǵ đă viết mà dựa vào Marx, th́ vẫn báo hàm một định kiến, một ngộ nhận, một căn bản không tưởng, từ đó có thể dẫn đến những sai lầm khác, có thể phạm vào tội ác. Bởi một phần tư tưởng tranh đấu của Marx, lúc nào cũng như cái bóng ma quái, muốn thúc đẩy con người lao vào các hành động quá trớn, quá khích, do hận thù và bạo lực cách mạng, để giải quyết các vấn đề cơ bản của xă hội, của con người. Thật sự là trong chiều dài lịch sử nhân loại, bạo lực cách mạng xă hội chủ nghĩa đă không hề giải quyết được vấn đề bất công trong xă hội loài người và cũng chưa hề giải phóng được ai!

Trong thực tế, chính Milovan Djilas, nhả lănh đạo và cũng là nhà văn của Nam Tư (cũ), đă tố cáo sự tồn tại của giai cấp thống trị trong những cuốn như “Giai cấp mới”, “Đất đai không công lư”. Djilas là cây viết cộng sản đầu tiên đă mạnh mẽ nêu ra sai lầm và tội lỗi của chế độ xă hội chủ nghĩa trong tất cả các tác phẩm của ông, tuy ông ta chưa chứng minh được những sai lầm ấy về mặt triết học! Nhưng ông ta đă thấy chúng là sai lầm, là tội ác trong thực tại.

C̣n tôi, v́ đă sống trong thời suy mạt của “xă hội chủ nghĩa”, nên đă thấy rơ về mặt triết học, kể từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, th́ tất cả những ǵ xảy ra trên thế giới sau ngày 30 tháng tư năm 1975, đều đă làm chứng cho một sự thật đă bừng sáng, v́ hoà b́nh ở Việt Nam là một mốc thời gian, đưa tới giai đoạn mà sự thật đă chứng minh rằng, dù đă phá tan cơ cấu kinh tế tư bản, nhưng rồi đă không thể h́nh thành một xă hội chủ nghĩa vô sản nào, một chính quyền vô sản nào cả! V́ thế mà nay cái gọi là Đệ Tam Quốc tế nay đă sụp đổ hoàn toàn, từ căn bản tư tưởng, từ bên trong xương tuỷ của nó! Cái gọi là tinh thần, là nghĩa vụ quốc tế vô sản, là Đệ Tam Quốc tế ấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, là một tấm màn che mắt, là một con số không. Đệ Tam Quốc tế chỉ là công thức giúp để quốc sô-viết giữ lại toàn thể di sản đế quốc do các Sa hoàng để lại. Toàn thể khối Liên xô tại Đông Âu đă sụp đổ từ bên trong v́ sự trống rỗng tư tưởng giải phóng của nó. Cuộc cách mạng vô sản của Pol Pot đă bị bộ đội cộng sản Việt Nam dẹp tan, cuộc chiến tranh ngắn ngày do đảng cộng sản Trung Quốc phát động chống chế độ cộng sản ở Việt Nam năm 1979… tất cả các cuộc chiến tranh ấy chỉ là hành động của thực dân đế quốc bành trướng kiểu mới. Về mặt kinh tế, sự đứng dậy ngoạn mục của Trung Quốc, của Việt Nam… cũng là do thành phần tư sản, tư bản đỏ đă bùng lên cấu kết mạnh mẽ với tư bản man rợ nước ngoài, rất lấn át, rất tàn nhẫn, rất vô luật lệ, để tung hoành. V́ thế nó đă phát triển rất nhanh, rất ngoạn mục, những cũng vô cùng tai hại!

Chân lư của sự mở mang, phát triển ngoạn mục ở Trung Quốc, ở Việt Nam là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà nhân dân lao động đă phải trả giá: thợ thuyền vẫn bị bóc lột sức lao động với đồng lương rẻ mạt, nông dân bị bóc lột bằng hành động cướp đất, đuổi nhà! Nhà nước tư bản đỏ đă bóc lột bằng cách tận thu, tích luỹ vôn tư bản để phát triển một sự phồn vinh giả tạo “hoành tráng” bề ngoài, mà không lo ǵ cho đời sống khổ cực của đám dân nghèo khổ ở nông thôn, ở vùng sâu, vùng xa. Tại Trang Quốc, dân lao động bị bóc lột rất dă man: lương rẻ mạt, lao động không an toàn. Con số tai nạn lao động ở Trung Quốc cao nhất thế giới.

Thật là tội nghiệp cho thành phần cùng dân lao động bây giờ bị bóc lột mà không có ai bênh vực. Trước các vụ oan ức chồng chất v́ bị bóc lột, bị mất đất, mất ruộng, mất nhà! Lao động trong điều kiện tính mạng luôn luôn bị đe doạ! Và mỉa mai thay: cái bóng ma của Marx nay lại hiện ra để kêu gào “Ở đâu có bóc lột, ở đó phải có đấu tranh”, nhưng đâu tranh để bị đàn áp, tù đày… bởi v́ đây là một nhà nước của chuyên chính tư bản chủ nghĩa đỏ. Nó nhân danh “nhân dân”, nó có trong tay một guồng máy công an cực kỳ thủ đoạn và thô bạo! Sai lầm, tội lỗi của Marx, chính là cái ṿng luẩn quẩn của ư thức “đấu tranh giai cấp” như thế; Dẹp bỏ giai cấp mà vẫn c̣n giai cấp. Dẹp bỏ bóc lột này th́ lại mọc ra thứ bóc lột khác, tàn nhẫn hơn, kinh khủng hơn bao giờ! Bởi sự bùng phát tư bản đỏ là một tội h́nh của “đảng”, phát xuất từ gợi ư của Marx. Mà ”đảng” sai th́ bất trị, không có một cơ chế nào hay một đạo luật nào trừng trị được “đảng”. Nay người ta nói tới tư bản chủ nghĩa man rợ, nhưng người ta quên rằng cái gốc của nó, chính là do cái xă hội chủ nghĩa ấy, là do cái ư thức thô bạo của “đấu tranh giai cấp” ấy.

Rồi bác Thảo lắc đầu than một cách thất vọng:

- Bây giờ th́ tôi thấy nhiệm vụ là phải nêu ra sự thật, phải lật ra cái mặt trái, mặt thật của “đấu tranh giai cấp”, phải chỉ cho rơ đấy là thứ vi-rút vô cùng độc hại! V́ đấy là thứ xă hội chủ nghĩa phản nhân đạo. V́ vậy mà nay, các cuộc thuyết tŕnh của tôi đă bị áp lực, bị đe doạ phải ngưng lại. Nay th́ tôi không c̣n diễn đàn để công bố sự thật ấy! Và thế là cuốn sách có xu hướng giải thoát, giải phóng của tôi đă bị bóp chết trong trứng nước!

Anh Lê Tiến tới lúc này thúc giục:

- Bây giờ có lẽ bác phải làm sao hoàn thành cuốn sách cho được nhanh lẹ, cho nóng hổi, phải giản dị nội dung để cuốn sách sớm được xuất bản, v́ thời gian không c̣n nhiều, bởi sức khoẻ của bác cũng không cỏn nhiều!

- Tôi biết! Tôi biết hoàn cảnh của tôi chứ! V́ vậy mà tôi tính sẽ phải lướt sơ qua một số luận chứng về vận động của thời gian hoá như đă dự trù. Nhưng dù thế nào, th́ cũng phải nêu ra một số vấn đề liên quan tới quyền dân để bảo vệ ba thực thể của cuộc sống là con người, là xă hội, là môi trường thiên nhiên… để cho cuốn sách có đủ sức lư luận thuyết phục về mặt triết học… Nhưng cũng phải vài tháng nữa! Không thể sớm hơn được!

Lúc chia tay, tôi hỏi thêm:

- Một khi cuốn sách được hoàn thành và xuất bản th́ như vậy là bác đă đặt xong nền tảng để giải quyết tất cả các vấn đề của cách mạng ta chua?

- Cuốn sách của tôi chỉ là mới giải quyết xong vấn đề tư tưởng. C̣n các vấn đề thực tế hơn, như các hậu quả tai hại của những cơ chế, những phương pháp, những di sản độc hại do chủ nghĩa xă hội để lại, như cách thức tổ chức và điều hành guồng máy đàn áp, là ngành công an, mật vụ, như chính sách chia rẽ dân tộc v́ ư thức hệ, và nhất là của các món, nợ, các vết thương mà cách mạng và chiến tranh để lại như tâm thức dùng thủ đoạn, dùng bạo lực, như tù nhân lương tri (objecteur de conscience), như phế binh, như nạn nhân “da cam”… th́ những cái đó dù lâu dài cũng không thể nào thanh toán được. Nhưng để giải quyết tốt các vấn đề do chiến tranh và cách mạng đă gây ra, th́ trước hết phải dựa trên những phân tích biện chứng lịch sử trong cuốn sách của tôi. Đây là một công tŕnh có tính khai thông bế tắc tư tưởng, mổ xẻ các khía cạnh bi thảm của cách mạng, t́nh trạng thiếu luật pháp, thiếu kiểm soát, thiếu chế tài đối với “đảng” và chính quyền cách mạng.

- Thú thực với bác là chúng tôi vẫn chưa hiểu hết tầm vóc và ư nghĩa của “lư thuyết hiện tại sống động” mà bác đang bận tâm khai triển.Và chúng tôi cũng chẳng muốn tới nghe bác để đi sâu vào vấn đề ấy. Điều chúng tôi muốn biết, như đă nói với bác nhiều lần, là tại sao bác phải đánh giá lại tư tưởng của Marx, tại sao cho tới lúc này vẫn cứ phải lôi Marx ra? Thế giới hiện nay đă chôn Marx sâu vào dĩ văng rồi, trừ ra vài lư thuyết gia cộng sản trong mấy nước độc đảng toàn trị như Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên và Việt Nam ta thôi. Ông Marx đă hết thời rồi. Bác có thấy vấn đề cơ bản và cấp bách nhất hiện nay của ta là vấn đề ǵ khác không?

- Tại ở nhà bây giờ, họ vẫn cứ lôi ông Marx ra làm b́nh phong để tự bào chữa, nên tôi phải lôi ông ấy ra để dứt khoát chứng minh, bằng lư luận vừa biện chứng, vừa h́nh thức, để thấy rằng ông ấy là nguồn cội của mọi sai lầm, tội lỗi bế tắc của các cuộc cách mạng mà Lenin, Stalin, Mao, Hồ và cả Pol Pot nữa… đă phát động. Và từ chứng minh cơ bản ấy, đế đi tới kết luận là những ǵ đă xây dựng dựa trên tư tưởng Marx một cách tuỳ tiệm như thế là phải vĩnh viễn đào thải hẳn. Không thể sửa sai, sửa lại, đổi mới, cách tân nó mà dùng lại. Vấn đề cơ bản và cấp bách nhất của ta hiện nay là nhất định không sửa sai, không sửa đổi, không đổi mới nhũng ǵ đă dùng và đă thất bại… để rồi dùng lại. Vấn đề cấp bách; cơ bản và lớn nhất của ta hiện nay là phải biết hoàn toàn thay thế hẳn nó, từ cơ sở lư luận tới phương cách tổ chức, cách hành động quá tuỳ tiện trong đảng, trong những định chế, trong các cơ quan, hội đoàn, nghĩa là trong nhà nước và trong toàn chế độ. Bởi những cái cũ đó đều mang trong nó bản chất sai lầm, dối trá, gian xảo, giấu giếm. Những tội lỗi đó đều là tội ác của “đấu tranh giai cấp”. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu B́nh đă nhận ra điều đó khi đưa ra lư luận “không cần phân biệt mèo trắng hay mèo đen, miễn là mèo biết bắt chuột”. Đấy là lănh tụ họ Đặng đă can đảm thay thế hẳn quan điểm cơ bản của đảng cộng sản là “Hồng hơn Chuyên”. Bây giờ người ta mới chịu nh́n nhận, không thể nào lấy “hồng” thay “chuyên”. Bởi “hồng” mà dốt, mà gian th́ hỏng hết! Điều nầy tuyệt đại đă sổ nhân loại đă biết. Chỉ có mấy lănh đạo các đảng cộng sản đang cầm quyền và mấy tay lư luận mác-xít là ù ĺ, v́ tham quyền, tham lợi, nên chưa chịu nhận tội và thú tội! Một số lănh đạo c̣n muốn đề bạt con cái lên nối ngôi lănh đạo cứ y như dưới thời phong kiến! Lư do là v́ họ đang có trong tay cả một guồng máy lộng quyền cai trị nên họ cứ tuỳ tiện dẫm lên luật pháp, cứ mưu tính tuyên truyền gian dối, cứ dùng bạo lực để kiềm chế, đàn áp. Họ nghĩ với thứ quyền lực không bị kiểm soát ấy, họ có thể làm bất cứ điều ǵ họ muốn, bất chấp sự phẫn nộ của dân!

- Trong một chế độ chính trị như vậy, bây giờ bác có ân hận hối tiếc là đă uổng công, uổng thời giờ trong những hoạt động triết học của bác hay không?

- Dĩ nhiên là tôi rất ân hận v́ đă im lặng đồng loă, măi tới lúc cuối đời mới thấy tường tận, cội nguồn những sai lầm là bắt nguồn từ Marx, và cũng là từ thái độ, cúi đầu cam chịu của chính tôi. Ân hận v́ đă chúng kiến, đă im lặng trước biết bao nhiêu tội ác trong quá tŕnh khai triển cách mạng!

Lúc cùng với bác Thảo buồn rầu bước ta khỏi “Nhà Việt Nam”, tôi nói nửa đùa, nửa an ủi:

- Thôi bác ạ, bác nên tạm gác qua một bên cái công việc viết sách ấy đi để nghi ngơi, cho khỏe, cái thân già. Cả đời bác đă đa mang nhiều quá rồi.

- Không phải là tôi ưa đa mang đâu, sự thật là ḿnh đă tự thân bước vào con đường của sai lầm, bế tắc. Nỗi khổ tâm là minh cũng đă làm cho nhiều người cùng với minh sa vào sai lầm và bế tắc. Nay ḿnh đă t́m ra được lối thoái, nên rất ân hận, phải sám hối, phải chuộc tội bằng hành động. Vào lúc hoàng hôn, thấy một ngày bị lăng phí đă là đáng tiếc, đáng buồn, huống chi bây giờ là hoàng hôn qua cả một cuộc đời, một cuộc đời đă bị lăng phí! Nỗi ân hận, hối hận đang ngùn ngụt thiêu đốt tâm trí tôi. Thế nên tôi phải t́m cách chuộc tội, phải chỉ ra cho mọi người cùng thấy cái sai lầm của ḿnh, cái lối thoát của ḿnh. Bây giờ tôi chỉ thấy tội lỗi của cái thời câm nín của ḿnh, đă biến minh thành một tên trí thức đồng loă khốn nạn, đáng nguyền rủa. Đấy là món nợ phải trả cho dân tộc, cho triết học… Mà thực sự bây giờ chỉ c̣n một cách chuộc tội là gấp rút hoàn thành cuốn sách này. Có lẽ đây là cơ hội duy nhất và cuối cùng để tôi chuộc tội trước mọi người. Chứ tôi có muốn đa mang ǵ đâu! Không đền được tội, không trả được món nợ này, th́ đến chết ḿnh vẫn c̣n ân hận… Chết mà chưa truyền lại cho người đi sau những trải nghiệm đau đớn, để mà thấy cái sự độc hại vô cùng của con đường “đấu tranh giai cấp”… Không làm được việc năy, th́ chết cũng không thế yên nghi! V́ thế việc biên soạn cuốn sách của tôi là điều bắt buộc phải làm cho bằng được. Phải điểm mặt tử gốc, cái thứ “vi-rút” tư tưởng đă phá hoại xă hội, phá hoại con người. V́ thế mà tôi phải cố hoàn thành cuốn sách… Chính v́ thế mà nay chúng nó muốn đè đầu tôi, ngăn cản tôi, không muốn để cho sống!

- Bộ bác thật tâm thấy ḿnh đă phạm tội hay sao mà phải t́m cách chuộc tội?

- Sống trong thời cách mạng, chạy theo cách mạng như thế… th́ làm sao mà không phạm tội! Riêng tôi th́ c̣n phạm tội nặng hơn mọi người nữa ấy chứ! Người ta phạm tội mà không biết ḿnh phạm tội, không biết, tội ấy nặng nhẹ ra sao. C̣n tôi, đă bao phen biết ḿnh phải nói một câu trái với lương tâm, làm một cử chỉ a dua, ca ngợi tội ác, lúc đó tôi đă ư thức ngay là minh đă phạm tội, tội giả dối, tội a đua hoan hô cái xấu, cái ác, tội hèn nhát đă phản bội lư tưởng của ḿnh, phản bội chính ḿnh… Đă biết là tội là như vậy, mà vẫn cứ nói, cứ làm!

- Nghe bác than thở tôi cũng thấy nhột. Tôi cũng từng nhiều phen, cùng đám người chung quanh, phải vỗ tay hoan hô cái xấu, cái ác. Không vỗ tay là khó sống, v́ sợ bị chụp ngay lên đầu cái tội phản động Trong những lần học tập chính trị, tôi cũng đă bao phen mạnh miệng hô: “Nhất trí! Nhất trí!” để đi với cái xấu, cái ác. Cứ nghĩ nói thế cho xong chuyện, cốt để được yên thân. Bây giờ nghe bác phân tích cái tội của bác, cái hèn của bác làm tôi cũng thấy cái tội, cái hèn của tôi….

- Anh có nói như vậy, có làm như vậy, cũng là thường thôi, v́ không ai coi anh là mẫu mực, là nêu gương… Cỏn tôi th́ khác, đi đâu, tới đâu cũng đă được trịnh trọng giới thiệu là thạc sĩ triết, là trí thức ở bên tây về ủng hộ cách mạng… th́ nói một câu, làm một cử chỉ như thế, là như cấp chứng minh thư cho những cái sai, cái ác. Tội của tôi nặng nề là như vậy. Nay càng nghĩ lại càng thấy cái sự giả dối cái sự hèn hạ khốn kiếp của ḿnh mà hối hận, không thể tha thứ. Mỗi trí thức hèn một tí th́ cánh bảo thủ, cảnh ít học, ít suy nghĩ, lại lấn tới một tí, rồi cứ thế mà làm cho cách mạng vấp váp thêm, làm cho xă hội sống quen trong gian dối thêm, thêm… măi. Nh́n lại quá khứ, biết bao trí thức cũng hèn như tôi, chỉ biết theo đuôi ca ngợi lănh tụ và đảng như vậy, th́ nhân dân và tổ quốc c̣n biết trông cậy vào ai? Tội ác cứ tiếp tục phát triển, xă hội cứ tiếp tục suy đồi v́ giả dối, v́ tội lỗi. Tất cả là do đám trí thức hèn như tôi. Buồn lắm! Hèn lắm! Nhục lắml Đau ḷng lắm!

Nghe những lời thú tội rơm rởm nước mắt ấy, tôi không c̣n biết nói ǵ để an ủi bác. Mà an ủi bác th́ khác nào như tôi cũng muốn chạy tội cho tôi. Nh́n bác Thảo buồn rầu thú nhận “cái sự hèn khốn nạn, khốn kiếp” của ḿnh, tôi bỗng thấy vóc dáng bác trong sáng hơn lên, cao cả hơn lên. Thật không thể ngờ cuộc đời trí thức Trần Đức Thảo đột nhiên đi tới giai đoạn hối hận, dằn vặt, bi thảm nặng nề đến như thế. Nghe những tâm sự khe khắt với chính ḿnh như vậy, bỗng cũng thấy ḿnh phải có cái nh́n khác đối với mọi sự, tức là phải biết chân thành nh́n lại chính ḿnh.. Sau mỗi lần gặp bác Thảo, lúc nào về cũng thấy trong ḷng thêm căng thẳng, trĩu nặng ưu tư. Quả thật những ưu tư trăn trở trong đầu bác Thảo cứ như một khối nham thạch đang sôi sục bùng cháy ở độ áp xuất, loăng lỏng fusion, với sức ép ở một nhiệt độ kinh khủng sắp nổ tung ra, sắp phun ra ngoài ṿng khí quyển như một núi lửa. Nỗi niềm tâm sự ưu tư, dằn vặt về thời thế, là một căn bệnh rất truyền nhiễm. Bởi nó bắt người nghe cũng phải thành khẩn, nh́n lại chính ḿnh.

Rồi thí một loạt tin khủng khiếp ập tới. Từ bế tắc tuyệt vọng v́ mất diễn đàn, tới bị xua đuổi khỏi nơi đang trú ngụ, với nguy cơ bị cưỡng bách, phải trở về nơi lặng câm cũ… Lúc ấy bác Thảo nói mà mắt tập trung như đang nh́n vào chính ḿnh, như đang thấy trong nội tâm ngọn lửa trăn trở, phẫn uất đang ngùn ngụt bùng cháy! Chúng tôi ngậm ngùi đề nghị đưa bác ra về, nhưng bác từ chối một cách buồn bực:

- Thôi! Các anh cứ để tôi về một ḿnh, tôi muốn được đi một minh trong lúc này!

Nói rồi bác Thảo lặng lẽ, lủi thủi rời “Nhà Việt Nam”. Nh́n bác cô đơn đi về phía trạm xe điện ngầm, ư như bác không muốn chia xẻ với ai tất cả nỗi đau, nỗi tuyệt vọng đang hành hạ tâm trí!

Nhưng rồi sau đó, bỗng nhiên ùa tới toàn là tin vui mừng lạc quan vượt quá mong đợi: một diễn đàn mới khang trang đă sẵn sàng. Một khoản trợ cấp rất khả quan và lâu dài đă được chấp thuận. Đấy là tất cả điều kiện khả dĩ đảm bảo bền vững cho một cuộc sống độc lập về kinh tế, tự do về tư tưởng! Không thể mong ước ǵ hơn!

Nhưng niềm vui mừng bỗng vụt tắt. Một đột biến đă kết thúc số mệnh thật là nghiệt ngă.

Mấy ngày đầu, sau khi bị mất diễn đàn, bác tỏ ra vô cùng chán nản, bi quan… làm chúng tôi áy náy thương bác vô cùng. Bác nói với chúng tôi:

- Có lẽ tôi sẽ phải qua tạm trú ở Đức hoặc ở Bi. V́ hai nơi ấy vừa trả lời mấy bức thư của tôi, họ ngỏ ư bằng ḷng đón tiếp tôi, sẵn sàng chu cấp nơi ăn ở để cho tôi tiếp tục hoàn thành cuốn sách. Nhưng tôi vẫn cứ luyến tiếc Paris, bởi nơi đây, anh em, bạn bè đă quá thân quá tốt với tôi. Và ai cũng muốn níu kéo tôi ở lại với Paris. Thật sự là ngoài quê hương ra, không có nơi nào tôi thấy thân thuộc, t́nh nghĩa bằng cái đất Paris này. V́ thế tôi chưa có quyết định chọn lựa ṛi bỏ Paris.

Canh và tôi cũng nhiệt liệt muốn giữ bác ở lại Paris với chúng tôi. Nhưng t́nh h́nh trở nên đen tối, phức tạp, khi sứ quán đă dứt khoát thúc bách, ép buộc, bác phải trở về lại Việt Nam!

Thế rồi một buổi chiều Canh điện thoại cho tôi với giọng hốt hoảng:

- Này, đă biết tin động trời chưa?

- Tin ǵ mà động trời?

- Chuẩn bị đi nghe bác Thảo họp báo chính thức ly khai, để tuyên bố chọn tự do.

- Trời đất quỷ thần ơi! Thật không? Nói giỡn chơi đấy chứ?

- Tin thật nghiêm túc đấy. Chi c̣n đang chọn nơi và ngày để họp báo thôi. Chính bác gọi điện thoại cho tôi, nhờ huy động anh em sẵn sàng tới dự cuộc họp báo cho thật đông, ông nghĩ sao về tin dự tính họp báo này?

- Thật sự là tin này làm tôi chới với, không thể ngờ… Một người như bác Thảo đâu đến nỗi phải họp báo để tuyên bố chọn tự do ngay giữa Paris này! Tuy bác Thảo đă cho biết trong mấy ngày qua, ở số 2 Le Verrier “chúng nó” đă gây căng thẳng, thúc bách bác quá… làm bác hết kiên nhẫn, chịu không nổi. Nên nay đă đi tới quyết định phải chọn con đường chính thức công bố ly khải… Nếu có họp báo th́ anh có đi dự không?

- Phải dự chứ! Một biến cố như vậy mà không tới chứng kiến th́ thật là một thiếu sót không thể tha thứ. Nhưng tôi vẫn không tin nổi là sự việc sẽ phải đi tới chỗ đó. Bao nhiêu đầu óc, trí tuệ ở chung quanh, mà để xảy ra sự việc tai tiếng động trời như vậy sao! Mà giận dữ đến mức nào th́ cũng thủng thẳng mà đối phó chứ cần ǵ phải dùng tới biện pháp li khai, chọn tự do như những người cùng đường phải xin tỵ nạn chính trị như vậy.

- Bác cho biết vấn đề là ngay sau khi họp báo th́ dĩ nhiên là bác sẽ không thể về lại căn nhà sổ 2 đường Le Verrier được nữa. Nhưng nay bác vẫn chưa quyết định được là sẽ dọn về đâu. Bởi đă có vài gia đ́nh tỏ ư sẵn sàng mời bác về tá túc tạm thời, đợi khi t́m ra chỗ ở đàng hoàng. Nhưng bác bảo, tất cả các nơi sẵn sàng mở cửa đón bác đều hơi chật chội, bác sợ làm phiền gia đ́nh người ta, nên c̣n do dự… Ồng có quen gia đ́nh nào có nhà cửa rộng răi, th́ thử t́m giúp xem...

- Việc tới ở nhờ một gia đ́nh nào ở vùng Paris này cũng khó, v́ ở đây nhà nào cũng chỉ đủ ở, ít có gia đ́nh nào khá giả, có pḥng dành cho bạn bè từ phương xa lúc ghé thăm… Nhưng tôi có quen bác sĩ Quyền, có pḥng mạch riêng khá rộng ở vùng ngoại ô Cachan, có pḥng dư để đó. Thỉnh thoảng nhiều bạn bè tôi qua đông để thăm Paris, th́ tôi vẫn mượn pḥng ở đấy…. Để tôi ḍ ư xem sao. Ồng “tu-bíp” này là một Việt kiều chính cống, sống ở đây từ nhỏ, nhưng lại rất thương quư người Việt tị nạn, nên ông ta được họ coi là một ân nhân.

- Vậy th́ ông hỏi thử xem sao, có ǵ th́ cho biết kết quả gấp. V́ bác Thảo đang nóng ruột bồn chồn lắm.

Tôi gọi điện thoại ngay cho ông bạn bác sĩ ấy. Ông rất ngạc nhiên khi tôi nói Trần Đức Thảo sắp họp báo tuyên bố chọn tự do… rồi ông la lớn:

- Trời ơi! Sao vậy? Sao mà đến nông nỗi bi thảm như thế?

Tôi kể sơ qua lư do. Ông bạn bảo:

- Với ai th́ tôi c̣n phải suy nghĩ, chứ với Trần Đức Thảo, th́ tôi rất sẵn sàng. Bởi chỗ pḥng mạch của tôi là một căn hộ, c̣n một pḥng lớn và một pḥng nhỏ, định cho một bác sĩ khác thuê cùng làm pḥng mạch và pḥng thư kư, nhưng sau thấy hành nghề chung đụng như vậy cũng bất tiện. Vậy th́ ông trả lời ngay đi. Tôi sẵn sàng cho Trần Đức Thảo mượn pḥng lớn để ở, pḥng nhỏ làm việc, mà đấy là một căn hộ đă có đầy dù tiện nghi cho một gia đ́nh, sẵn nhà bếp, nhà tắm, cứ việc dọn tới là sống thoải mái.

Tôi vội gọi Canh để báo tin mừng là đă t́m được nơi tạm trú cho bác Thảo. Nhưng Canh đă đi ra ngoài. Lát sau, bác sĩ Quyền lại gọi tôi và tỏ vẻ lo ngại, một cách am hiểu:.

- Này ông ơi! Tin ấy làm tôi suy nghĩ và đâm lo cho ông ta. Nếu ông thân với Trầu Đức Thảo, th́ bảo ông ta “zọt” ngay cho lẹ! Bởi khi họ biết dự tính sắp họp báo để chọn tự do, th́ coi chừng không đủ thời giờ mà họp báo nữa đâu. Nguy lắm đấyl Phải thúc ông ta thoát ra khỏi nơi ấy ngay đi, kẻo quá trễ mà nguy tới tính mạng đấy. Với những con người của chế độ ấy th́ không thể coi thường.

Tôi cười và trấn tĩnh anh bạn:

- Không đến nỗi như vậy đâu! Ngay giữa Paris chứ có phải bên ta, bên tầu hay bên châu Phi đâu! Nhưng mà tôi sẽ cố t́m ông ta để nói rơ sự lo lắng của anh. Cảm ơn anh.

Rồi cả ngày hôm sau nữa, dù cố công đi t́m, tôi không gặp được Canh, mà gọi trực tiếp cho bác Thảo ở nhà số 2 đường Le Verrier, th́ ở đó trả lời như quát tháo:

- Đồng chí Thảo đi vắng từ mấy bữa nay chua thấy về. Chắc c̣n lâu ông ấy mới về. Ở đây không biết ông ấy đi đâu. Từ sáng tới giờ toàn phải trả lời điện thoại cho ông ấy. Chúng tôi không rảnh để trực điện thoại đâu. Đừng gọi lại nữa nghe không!

Cả gần tuần sau, tôi mới gọi được Canh, th́ được biết mọi căng thẳng đă lắng dịu, mọi sự nay trở thành tốt đẹp. V́ có nhiều tin mừng. Thứ nhất là vợ chồng bà B́nh và ông Jacques, đă vận động và vừa lập ra ra được một một diễn đàn mới là Nhà Văn hoá Việt Nam, ở đường Rue des Ecoles, cũng quận 5, Paris ở ngay mặt tiền một đường phố lớn, rất sầm uất. Cơ ngơi sang trọng, rộng răi gấp bội lần Nhà Việt Nam ở đường Cardinal Lemoine.

Bác Thảo đă được mời tới đó xem và tỏ ư rất hài ḷng. Vậy là bác đă có một diễn đàn mới để nối lại được nguồn hi vọng. Mọi người đều mừng v́ đă có nơi hoạt động văn hoá đẹp đẽ sang trọng mới này.

Tin mùng thứ nhi là hội “Les Amis des Sciences” (Những người bạn của khoa học), đă gửi thư báo cho bác Thảo biết là hội đă chấp thuận từ nay, thường xuyên chu cấp cho bác mỗi tháng, một số tiền là mười ngàn francs (10.000. frs) để tiếp tục hoàn thành cuốn sách. Cùng với thư ấy là một tấm ngân phiếu đầu tiên đề tên Trần Đức Thảo. Đây là một khoản trợ cấp hàng tháng đảng kể, v́ lương tháng tối thiểu cho một công nhân viên chức ở Pháp lúc ấy là một ngàn năm trăm francs.

Vậy là từ nay bác Thảo vừa có diễn đàn khang toang, vừa dư sức “độc lập về kinh tế”, để thuê nhà ra ở riêng, và sẽ yên trí lớn mà tiếp tục lo viết và xuất bản cuốn sách.

Nhưng rồi hôm ẳỳ là thứ năm, 22 tháng tư 1993, một buổi sáng đẹp trời, ông bạn Việt kiều Mặc Lâm đă đưa bác ra một ngân hàng gần nhà ga Montparnasse, để bảo lănh cho bác mở một chương mục, rồi kư thác tấm ngân phiếu do hội khoa học tài trợ vào chương mục ấy. Ngân hàng trao cho bác cuốn ngân phiếu để sử dụng khi tiêu dùng. Vậy là từ nay, bác không c̣n lo sợ bị thiếu tiền, thiếu diễn đàn nữa. Rồi bác Thảo hănh diện và hào hứng thông bảo cho sứ quán biết là sẽ dọn đi trong một tương lai thật gần.

Những thân hữu của bác, nghe tin này, ai cũng mừng. Phải vậy chứ! Cuộc đời bác Thảo cũng phải có lúc được sống đầy đủ về vật chất, thoải mải, tự do về tinh thần cho

 

Chương 15

 

 

Đột tử trước thềm chân lư

 

Nhưng rồi bỗng bác Thảo không cần tới những may mắn đến dồn đập ấy nữa…

Chiều hôm sau đó, tôi đang lái xe trên đường về nhà th́ nghe đài “France Info”, mà tôi có thói quen mở nghe tin tức trong khi lái. Bỗng đài này loan tin giáo sư Trần Đức Thảo, nhà triết học Việt Nam vừa qua đời! Tin đột ngột ấy làm tôi lạnh người và buột miệng:

- Ôi! Thế là cuốn sách không c̣n cơ hội chào đời! Phải chăng tên đao phủ đă ra tay?

Việc đầu tiên là tôi t́m gặp ngay bà Bích Hồng để được nghe bà kể thật chi tiết.

Thật là quá bất ngờ! Bác Thảo hằng ngày vẫn có nếp ăn uống rất tinh khiết, không bao giờ ăn thức ăn cũ. Vậy mà ngay xẩm tối hôm thứ năm ấy, bỗng bác bị “thượng thổ, hạ tả” như bị trúng độc: vừa nôn mửa vừa đại tiện tràn lan đến mệt là đi. May là lúc đó bà Bích Hồng đang có mặt. Bà vội d́u bác vào nhả tắm, tắm rửa bằng nước nóng cho sạch sẽ, rồi lấy quần áo sạch thay cho. Sau đó đưa bác vào nằm tạm trong một căn pḥng ở ngay tầng dưới ấy. Đấy là pḥng của một cán bộ của sứ quán, lúc đó đi vắng xa. Bác Thảo dần dần tỉnh táo lại, nằm nghỉ và không hiếu tại sao, đă ăn phải thứ ǵ mà bị ngộ độc như thế. Bà Bích Hồng vào hỏi thăm. Bác cảm ơn sự săn sóc của bà, rồi bác tâm sự một cách rất lạc quan và tự tin:

- Này bà Bích Hồng này! Mai mốt, tôi thuê nhà ra ở riêng, bà về làm cho tôi. Mỗi tháng tôi biếu bà năm trăm. Như vậy chúng ta sẽ sống thoải mái, tự do hơn là sống ở đây.

Câu nói ấy chứng tỏ bác Thảo vẫn không có ư thức ǵ về t́nh h́nh giá cả trong dời sống: v́ số tiến lương để nghị ấy là quá nhỏ, không đáng kể.

Bà Bích Hồng tới đặt tay lên trán bác, thấy vẫn có nhiệt độ cao, tức là vẫn c̣n đang bị sốt.

Đêm ấy, bác chỉ uống một ly sữa nóng rồi nằm nghỉ. Sau thấy nhức đầu quá nên được cho uống một viên Aspirine..Cả đêm bác rên rỉ v́ cơn sốt vẫn cao. Đến gần trưa hôm sau, thứ sáu, cơn sốt tăng đến mê sảng, chốc chốc lại giật ḿnh la hét lên. Bà Bích Hồng chạy vào lay gọi cho tỉnh lại để bớt rên la. Bỗng bác ngồi nhóm dậy, mặt đỏ gay v́ mê sảng, hốt hoảng, tay nắm thật chặt lấy cánh tay phải bà Bích Hồng miệng la lớn:

- Nó kiểm điểm! Nó kiểm điểm!

Bà Bích Hồng lay gọi:

- Bác Thảo! Bác Thảo! Bác buông tay tôi ra! Bác làm tôi sợ quá! Buông tay tôi ra!

Bị lắc người thật mạnh, bác Thảo buông tay bà Bích Hồng ra, rồi nằm vật ḿnh xuống; Nhưng yên được một lúc th́ lại lên cơn mê sảng, rồi ngồi phắt dậy, mặt vẫn đỏ gay, hoảng hốt rồi thét lên như đang trong cơn ác mộng:

- Đông Âu đấy! Đông Âu đấy!

Nói rồi lại nằm xuống, xuội lơ, duỗi thẳng tay chân, không c̣n biết ǵ nữa… Bà Bích Hồng sợ quá vội kêu la cầu cứu ầm ĩ. Cán bộ Hào từ trên tầng lầu xuống, tới gần quan sát, rồi chạy ra gọi điện thoại cho sứ quán.

Một lát sau, đại sứ Trịnh Ngọc Thái tới, ông quyết định gọi xe cấp cứu của hệ thống cấp cứu công cộng SAMU.

Bác sĩ của toán cấp cứu hỏi:

- Trước đó bệnh nhân đă làm ǵ để rồi rơi vào hôn mê?

- Ông ta trước đó, đă bị ngất xỉu rồi bị té ở cầu thang!

- Bị ngất xỉu đến té ngă như vậy, sao không thấy thương tích ǵ trên người?

- Cái đó th́ tôi không rơ, nhưng ông ta cũng đă cao tuổi rồi và rất yếu.

Bác sĩ cấp cứu quyết định cấp tốc đưa bệnh nhân vào nhà thương. Nơi gần nhất và thích hợp cho trường hợp này là bệnh viện đa khoa Les Broussais, cách đó chỉ vài phút xe hơi. Tới nơi, bác sĩ cấp cứu trực của bệnh viện chích cho bác Thảo một mũi thuốc an thần, và giữ lại tại pḥng hồi sinh để theo dơi. Đêm ấy bác Thảo vẫn sốt, nằm bất tỉnh, ngủ li b́. Đến khoảng năm giờ rưỡi sáng ngày 24 tháng tư, năm 1993, bác sĩ trực pḥng hồi sinh ghi nhận bác Thảo đă trút hơi thở cuối cùng! Ngay sau đó, bệnh viện làm thủ tục đưa người quá cố xuống nhà xác.

Khi được tín, tôi t́m tới nhà xác của bệnh viện. Nh́n bác nằm đấy, vẻ mặt đăm chiêu như vẫn c̣n đang suy nghĩ, sắp xếp những chương mục cho cuốn sách, tôi không khỏi ngậm ngùi thương cảm cho số phận nghiệt ngă của bác.

Than ôi! Thế là một cuộc đời khổ ải đi t́m chân lư, đi làm cách mạng… đă vụt tắt. Một cuồng vọng nói lẽn sự thật, bất chấp bao đe doạ, cuối cùng đă bị chặn lại bởi một cái chết đột biến, tức tưởi. Hành tŕnh đầy triển vọng, với mộng ước thực hiện một cuộc cách mạng huy hoàng cho dân tộc, và cho cả nhân loại, với phát minh một “lư thuyết hiện tại sống động”, với một “lô-gích vừa biện chứng, vừa h́nh thức” tử nay bị dang dở. Cả một sự nghiệp triết học trải nghiệm công cuộc cách mạng Việt Nam rồi đầy sẽ ch́m vào quên lặng…

Vả cuốn sách mang hi vọng “giải mă, giải tà quá khứ để giải thoát, giải phóng hiện tại và tương lai… để chuộc tội” mà bác nóng ḷng hoàn thành, nay đă vĩnh viễn ch́m vào im lặng!

Một cuộc đời thanh bạch, chân thật, không hạnh phúc, không danh vọng đă kết thúc thật oan nghiệt!

Nghĩ lại những giây phút vui mừng, lạc quan, tràn đầy hi vọng, tưởng như cuối cùng, may mắn và hạnh phúc đă đến với bác Thảo. Nhưng chúng đă bị tan biến thật phi lư.

Nh́n bác khiêm tốn nằm đấy, ai câng nghẹn ngào. Không cầm được nước mắt, khóc thương cho một kiếp người tận tuỵ với lư tưởng, với chân lư, nhùng rồi giấc mộng đă không thành….

Chỉ c̣n biết nguyện cầu cho ṿng linh bác dược an nghỉ từ đây!

Sáng hôm chủ nhật 25 tháng tư, Canh rủ tôi vào thăm lại bác lần cuối. Tới nơi th́ thấy đă có mấy người thân với bác lúc cuối đời đang ngậm ngùi chung quanh bác. Tôi chỉ nhận ra bà Bích Hồng, bà Hồng Hạnh là hai người đang sụt sùi khóc, giáo sư Boudarel, và một nữ kư giả Pháp, và vài người nữa tôi không nhớ tên… Nhờ anh Lê Tiến lúc đó có mang theo máy chụp h́nh nên đă ghi lại được giây phút cảm động này.

Trong nhà xác của bệnh viện, lúc ấy, bác Thảo tạm nằm đó, trên một giường sắt cũ kỹ giản dị như cuộc đời bác: một tấm vải drap cũ trắng ngà của bệnh viện che phủ cao lên tới tận cổ, chỉ để hở phần mặt. Trên bụng bác, ai đó đă đặt một bó hoa cúc trắng. Bác nhắm mắt đăm chiêu, nhưng nét mặt vẫn cau có, tập trung, như trong đầu, tư tưởng, tinh thần, nghị lực vẫn đang sôi sục vận hành, như vẫn đang suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của triết học, của con người… Vậy mà bộ óc cất giữ cả một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng ấy, nay đă tan vào… hư vô!

Nh́n bác cô đơn, khiêm tốn nằm đấy, tôi cảm thấy thật là hụt hẫng, như vừa mất một cái ǵ cần thiết cho cuộc sống tinh thần của chính tôi, như cuộc đời bỗng mất hết ư nghĩa. Cái chết của người đang nằm đây làm cho kẻ tầm thường như tôi phải băn khoăn tự hỏi: cuối cùng, sống lặng câm, vất vả, ngược xuôi, chịu đựng bao dẳn vặt, cặm cụi làm việc suốt cả đời như thế để làm ǵ? Để cho ai? Để c̣n lại ǵ? Tôi chỉ ghi nhận một điều này: lúc cuối đời, bác Thảo đă hăng say, hào hứng, hăm hở hoàn thành một cuốn sách “để đời”, “để trả nợ đời”… nhưng chưa viết xong phần mở đầu th́ đă bị cái chết chặn lại. Cái chết đă tàn nhẫn chấm dứt sự bắt đầu của một công tŕnh lớn! Thật là tiếc, v́ bao người đang bồn chồn, nóng ḷng chờ đón cuốn sách mang thông điệp “giải thoát, giải phóng” mà bác Thảo đă hứa: “Khi cuốn sách này được xuất bản th́ các anh sẽ thấy mọi nút thắt, mọi trói buộc, mọi sức ép sẽ được tháo gỡ ra cho bằng hết… để minh bạch vấn đề công tội trong lịch sử… Công của ai, tội của ai? Đấy là cách chuộc tội của Trần Đức Thảo này!” Nay th́ điều mong ước ấy đă tiêu tan. Đây không phải lần đầu tiên tôi thấy kẻ nhận trách nhiệm và tỏ hối hận khi đă quả trễ. Nhưng trường hợp hối hận và muốn chuộc tội bằng một công tŕnh triết học mà bác Thảo đang làm, như tôi thấy, th́ đây thật là một bi kịch lớn. Bởi đấy là một sám hối chân thành, căng thẳng, bồn chồn vội vă, sau gần cả một đời im lặng tư duy về mối tương quan giữa chân lư và cách mạng, chứ không phải chỉ là cách nói vớt vát đăi bôi lúc cuối đời của nhiều nhà chính trị…

Đến bản tin buổi trưa, đài phát thanh “France Info”, (Pháp quốc tin tức) là đài đầu tiên loan báo: “Nhà triết học Việt Nam, Trần Đức Thảo, vừa qua đời tại bệnh viện Les Broussáis, lúc 7 giờ sáng ngày 23 tháng tư vừa qua ở tuổi 76. Trước năm 1951, ông nổi tiếng ở Paris là một nhà hiện tượng học. Sau đó ông trở về Việt Nam và đă rơi vào im lặng trong suốt bốn mươi năm. Ông mới trở lại Paris năm 1991”.

Nhật báo Le Monde phát hành vào chiều thứ hai nhưng đề là ngày 27 tháng tư, nơi trang trong chuyên đăng tin cáo phó của tờ báo, người ta đọc được lời cáo phó nguyên văn như sau:

“Pḥng hộ tịch lănh sự quán Việt Nam tại Paris đau buồn loan báo: cựu giáo sư triết học Trần Đức Thảo, của Đại học Hà Nội, đă tạ thế ngày 24 tháng tư năm 1993, thọ 77 tuổi”. (Le Monde ngày 27 tháng tư)

Tuy không được thông báo rộng răi ngày giờ làm lễ hoà táng, nhưng ngay từ lúc tin bác Thảo qua đời, từng nhóm thân hữu đă tới bệnh viện Les Broussais để nghiêng ḿnh tiễn chào trước linh cữu của bác.

Rồi gần trưa ngày 29 tháng tư, cũng là vào ngày thứ năm, đă có mặt ở khu hoả táng của nghĩa trang Père Lachaise của thành phố Paris, khoảng bốn chục người, đa số là những người có đôi chút thân t́nh với bác Thảo từ khi bác trở lại Paris. Họ đợi khá lâu, tới lúc gần trưa th́ xe nhà đ̣n chở quan tài bác đến. Theo sau không có xe thân nhân gia đ́nh, điều đó dễ hiểu. Nhân viên nhà đ̣n đưa ngay quan tài xuống pḥng lễ tang, để chờ được đưa vào ḷ thiêu. Tại tầng hầm rất rộng ấy, có ba pḥng lễ tang như vậy.

Quan tài bác Thảo được đặt giữa một pḥng lễ tang. Hai bên đầu quan tài là hai ṿng hoa cỡ lớn: một của “Mặt trận Tổ Quốc” do Sứ quán đặt theo lệnh từ Hà Nội, một của “Amicale Trần Đức Thảo” do tiền c̣n lại từ những đóng góp để bác chi tiêu lúc sống. Và vài bó hoa cầm tay lẻ tẻ của người không thuộc nhóm thân hữu Trần Đức Thảo. Nhưng nghi thức hoả thiêu chưa bắt đầu, mọi người bỏ lên sân chờ đợi cho thoáng mát, v́ đây là một buổi sáng chớm có nắng đầu xuân. Tất cả chờ. Họ tụm nhau ở góc sân bên trái, để th́ thầm, bàn tán về cái chết đột ngột có quá nhiều nghi vấn của bác Thảo. Thông lệ là kiều bào ở đây rất hiếm cơ hội gặp nhau, nên chỉ có thể nói chuyện, trao đổi thăm hỏi, tin tức trong những dịp ma chay như thế này.

Bỗng một xe Mercedes đen lớn, bỏng loáng mang biển số màu xanh của ngoại giao đoàn lao tới. Xe ngưng ngay cạnh góc phải của sân, một vệ sĩ cao lớn mà người Pháp thường gọi với tiếng binh dân là “đười ươi” từ phía cạnh tài xế, vội tung cửa nhào nhanh ra để trịnh trọng mở cửa cho đại sứ Trịnh Ngọc Thái bước ra khỏi xe. Ông đại sử nh́n thấy đám đông ở góc trái, thay v́ tiến lại bắt tay tṛ chuyện với kiều bào của ông, ông lại ngần ngại, tránh né, bước qua góc phải đứng một ḿnh một góc xa họ. Vài nhân viên sứ quán bỏ phía chúng tôi từ từ, khúm núm tới đứng quanh, ông đại sứ.

Sau đó đại sứ Trịnh Ngọc Thái đi xuống pḥng tang lễ, mọi người xuống theo. Đợi mọi người vào hết, đại sứ Trịnh Ngọc Thái chậm rái rút ra từ túi áo vét, một tờ giấy, để chuẩn bị đọc. Ai cũng nóng ḷng chờ đợi xem “đảng” và nhà nước tỏ thái độ ra sao qua bài điếu tang sắp được đọc để vĩnh biệt người quá cố một thời nổi tiếng ngay tại Paris này.

Rồi ông đại sứ đọc. Hoá ra đây không phải là một bài điếu văn, mà chỉ là một bức điện tin vô cảm, ngắn gọn chỉ có vài ḍng. Bức điện cho biết giáo sư Trân Đức Thảo được truy tặng huân chương Độc Lập. Chỉ có vậy thôi. Không một câu chữ lịch sự tối thiểu ca ngợi hay thương tiếc dành cho người quá cố. Đọc xong mẩu điện tín ngắn ngủi ấy, quan tài được chuyển vào ḷ thiêu. Ông đại sứ ra về ngay sau đó. Mọi người x́ xào b́nh luận về bài điếu tang vắn tắt, vô cảm như thế. Một cụ cao tuổi lắc đầu, buồn rầu nói:

- Chắc bác Thảo nằm trong quan tài, cũng phải giật nảy ḿnh khi nghe thấy ḿnh được gắn huân chương Độc Lập. Thật là không thể ngờ có một lối ứng xử hai mặt trái ngược nhau lúc sống, lúc chết, như thế!

Vậy là chấm dứt một cuộc đời gian nan đầy ngang trái. Cầu cho vong linh nhà bác được vĩnh viễn an nghỉ từ đây.

 

Chương 16

 

 

Chết rồi vẫn… gian nan

 

Nhưng rồi sau cái chết, vong linh bác vẫn chưa được an nghỉ!

Bởi sau đó, thiên hạ lại bàn tán ồn lên về một tin buồn thảm: b́nh tro của bác đă được gửi về Hà Nội, nhưng bị bỏ vô thừa nhận dưới gầm cầu thang của một nhà đ̣n đám ma… ở ngay giữa thủ đô của nước Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam!

Rồi nghe nói t́nh trạng này đến tai bà Nhất, người bạn đời đứt quăng của bác Thảo, làm cho bà trăn trở. Bà quyết định xin được đứng ra lo mồ mà cho bác. Và mấy người thân của bác ở Hà Nội đă cố vận động để xây cho bác một mộ phần ở trong Nghĩa trang Liệt sĩ Mai Dịch, nơi dành cho các bậc có công với đất nước. V́ bác đă được ghi công bằng tấm huân chương Độc Lập. Nhưng sự vận động xin đất ấy đă bị chính quyền từ chối. Một cuộc tranh căi và phản khảng nhỏ đă diễn ra. Chính quyền giải thích: nghĩa trang liệt sĩ Mai Dịch chỉ dành cho các bậc có công lao với đất nước, c̣n với huân chương Độc Lập không thôi, th́ Trần Đức Thảo chưa đủ tiêu chuẩn. Chẳng lẽ coi mấy cái nghiên cứu thuần sách vở ấy là công lao với đất nước… sao? (!)

Cuối cùng th́ nắm tro tàn ấy đành phải mang về để trong một ngôi mộ do bà Nhất lo xây cất tại nghĩa địa của thường dân ở Văn Điển… Nhưng “người ta” đă đặc cách cho phép xây ngôi mộ ấy ở một đầu dẫy! Thôi như thế cũng là một cách đối xử, tuy vẫn là một sự phân biệt giai cấp, nhưng cũng là tương đối tử tế. Chuyện phân biệt giai cấp, công lao kia cũng chỉ là thứ phù phiếm, chắc người như bác Thảo chẳng thèm khát thứ danh vọng ấy.

Nhưng rồi đến năm 2000, hương hồn bác Thảo lại bị phiền hà thêm lần nữa. Bởi được nhà nước lại lôi vong linh bác ra để cho lănh thêm Giải thưởng Hồ Chí Minh!

Nhưng rồi vong linh ấy vẫn chưa hết gian nan, vẫn c̣n bị sách nhiễu thêm nhiều nữa chứ chưa hẳn là đă được yên nghỉ! V́ cho tới nay vẫn cứ lai rai c̣n những bài báo “lề phải”, khi th́ nêu ra những nghiên cứu vớ vẩn của bác để ca ngợi, để bày tỏ bác là người được chế độ quư trọng. Khi th́ để đề cao bác là kẻ có tư tưởng rất trùng hợp với “tư tưởng Hồ Chí Minh”(!). Người ta tiếp tục to hồng, đánh bóng lại một vóc dáng tiều tuỵ, uốn nắn lại một Trần Đức Thảo, không phải là cô đơn, mà là rất gần gũi, thân thiết với lănh đạo.

Thực ra th́ trong dư luận, đă có một phản ứng mỉa mai cay đắng ngay sau khi bác vừa về với cát bụi: hàng loạt bài báo ngậm ngùi tố cáo cách đối xử tàn nhẫn đối với một bộ óc hiếm có của dân tộc! Họ đă tả thực băng cách giễu cợt cuộc sống gian khổ của một nhà triết học “từng tranh luận với Jean-Paul Sartre”, mà nay trở thành một kẻ ngớ ngẩn, túng quẫn, đói khổ, lúc nào cũng như ngơ ngác không biết thích nghi với cuộc đời và xă hội. Chỉ cần đọc lại mấy mẩu hí hoạ rất thản nhiên, rất “vô cảm” như thường thấy, của một nhà văn lớn của “đảng” là Tô Hoài, trong hai cuốn “Chiều Chiều” và “Cát bụi chân ai” khi ông kể về một Trần Đức Thảo tiều tuỵ, đang cố tập ăn mặc nâu sồng, tập chịu đựng sốt rét… để bắt kịp “đà tiến bộ của các cậu”, nghĩa là của những người như Tô Hoài! Không hề thấy ai nói tới một sự chăm sóc, quư mến của lănh đạo đôi với “nhà triết học lừng danh và được kính trọng” ấy.

Câu chuyện dài về một trí thức lớn, một nhà triết học quư hiếm của một dân tộc nhược tiểu, từ nơi quê hương kém mở mang, lạc hậu, nhưng luôn luôn tự hào là một đất nước có mấy ngàn năm văn hiến, và đang chuyển ḿnh thành, một “con rồng” của châu Á, câu chuyện ấy đă không thể chấm dứt bằng một cái chết. Càng về sau, càng có nhiều, bài báo giới thiệu, giải thích, ca ngợi về những ǵ nhà trí thức ấy đă nghiên cứu, đă viết, đă được công bố, đă được dịch ra nhiều thử tiếng… Tuy ở chính đất nước có ngàn năm văn hiến ấy, nhà trí thức ấy đă sống một kiếp đoạ đầy, không thấy một ai dám bênh vực, không thấy một hội đoàn, một cơ quan văn hoá, văn minh nào dám gióng lên một tiếng kêu cứu, đề giúp nhà triết học có thể sống đàng hoàng, để che chở ông lúc bị đám đông, “trí thức” xúm vào đánh đ̣n hội chợ. Vậy mà nay ông chết rồi, th́ ông lại được huân chương, giải thưởng cao quỷ, lại được học tṛ cũ lao xao ca ngợi. Nay không ít người hănh diện tự khóe từng là người thân cận, từng là bạn, là đồng chí, là học tṛ của nhà triết học ấy! Không thể hiểu thời đại này là thời ǵ mà lại lắm “thân thích” với nhà triết học như thế!

Điều đáng tiếc, đáng buồn là ít ai biết được rằng lúc cuối đời, chính con người, một thời từng chân thành tự nhận minh là người mác-xít ấy, đă giác ngộ, đă can đảm nh́n nhận, thái độ a dua hèn hạ, đă thú nhận sai lầm của ḿnh, để bác bỏ, phủ nhận những ǵ đă viết trong cái thời sai lầm v́ cuồng tín ấy. Và từ đó, nêu ra nhận thức mới, để đánh giá lại tư tưởng, sự nghiệp, với vấn đề công tội của Marx! Rồi nhà triết học ấy đă vội vă lao ḿnh vào một công tŕnh biên soạn một cuốn sách, “để chuộc lại những tội lỗi, sai lầm” của ḿnh!

Mấy người đă chứng kiến rơ sự việc này, tới nay vẫn c̣n im lặng. Không biết là họ vẫn muốn bảo vệ ông Marx hay để bảo vệ chính họ? Hay là họ c̣n e ngại, sợ sệt… trước quyền lực ma quái vận đang bao trùm lên thân phận họ và lên xă hội mà họ đang sống?

Dù thế nào, th́ việc đánh giá cuộc đời và sự nghiệp Trần Đức Thảo sẽ là một công việc khó khăn. Bởi việc trả lại công lư cho Trần Đức Thảo cần tới ḷng dũng cảm, cần có tinh thần lương thiện trí thức (mà không biết có hay không?), cần tới trí tuệ. Bởi con người ấy đă sống, đă nghiên cứu, đă trải nghiệm trong bối cảnh đấy nhiễu loạn tư tưởng, đầy diễn biến đau đớn, sôi động, phức tạp, trong cái thời lương tri con người bị lu mờ v́ chiến tranh, v́ cách mạng, tức là cái thời tràn đầy những thủ đoạn chính trị, những mưu kế gian xảo, vừa ngu tín, vừa cuồng tín, khi th́ đ̣i xét đi, khi th́ phải “xét lại”, rồi là lại “chống xét lại”…

Dù sao th́ nhà triết học ấy đă tự bào chữa bằng sự can đảm thú nhận cái hèn, cái sai của chính ḿnh, băng sự kiên tŕ giữ vững lập trường chân thật của ḿnh cho tới cùng.

Không ít người cho rằng cuộc đời ấy là một thất bại, v́ đă không biết thoả hiệp với quyền lực đương thời, không biết thích nghi dù chỉ là trong một giai đoạn tạm thời, để “đi với Bụt th́ mặc áo cà-sa, đi với ma th́ mặc áo giấy”! Nhưng cũng chính nhờ vậy mà nay những ǵ nhà triết học để lại đều thuộc về một sự nghiệp khả tín, chân thật.

Không rơ sự thất bại trong chính trị của nhà triết học, cuối cùng có được coi là một thành tựu có ích cho triết học? Dù thế nào th́ cuộc đời ấy cũng là sự trải nghiệm tuy đau đớn nhưng quư hiếm trong hiện thực khai triển cách mạng, chứ không phải trong sách vở. Đây là một bài học về sự vận động của thời gian, do con người, cho con người và cho xă hội, trong lịch sử cận đại.

Có người cho rằng nhả triết học Trần. Đức Thảo đă thất bại v́ cái tội ngông cuồng muốn làm một việc không thể làm, là trở về quê hương cộng tác với “cụ Hồ” xây dựng một mô h́nh cách mạng mới mẻ mà loài người mơ ước! Và ông đă chết v́ tội thứ nh́ là lúc cuối đời ông đă cố chứng minh cái gốc của mọi sai lầm và tội ác là do cụ tổ Marx, trong khi cung đ́nh vẫn sùng bái, vẫn quả quyết bảo lưu rằng Marx “đúng”, “duy nhất đúng”! Nhưng đối với tôi cả hai tội vừa kể đều không thể coi là tội, bởi mơ ước và hành động sám hối chuộc tội đều là quyền cơ bản cao quư của con người trí thức chân chính.

Tội tin rằng trước ông đă có, rồi sau ông sẽ c̣n có, những người tiếp tục những công tŕnh đội đá vá trời như thế. Nên sự ra đi đột ngột của ông tuy có thể là một dang dở, một tổn thất, nhưng không thể là một chấm dứt, một mất hẳn, một thất bại của triết học. V́ chứng tích của sự nghiệp ấy c̣n đó, cái “hiện tại sống động” mà ông đang hào hứng khai triển vẫn c̣n đó. Hậu thế vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu nó để t́m hiểu nó thật cặn kẽ…

Nay th́ những năm tháng cứ tiếp tục trôi đi, sự chờ đợi trở thành vô vọng. Lớp bụi thời gian cứ phủ lên mỗi lúc mỗi thêm dầy! Quái ác hơn nữa, theo sau sự quên lăng ấy, là những lớp bụi bậm, những lớp rác rưởi đă, vô t́nh hay cố ư, bao phủ, che khuất, như muốn lấp kín mọi sắc thái tư tưởng đích thực của ông!

Trần Đức Thảo đă cố làm sáng tỏ chân lư bằng cách sống và cách làm việc của ông. Đó là v́ tôn trọng sự thật, tôn trọng con người, chứ không v́ danh lợi, không v́ địa vị. V́ vậy việc truy tặng huân chương và trao giải thưởng, dù là cao quỷ, dù là một cách chuộc lại những ǵ c̣n có thể chuộc của một thời lịch sử đă bị ô nhiễm v́ gian dối. Thế nhưng hành động, ấy có thể lại gây thêm một ngộ nhận, một sự phản bội lại tư tưởng độc lập của nhà triết học. Bởi Trần Đức Thảo đă có nhận xét về một thời lịch sử đă bị làm hỏng, làm bẩn, mà người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những “mảng tối”! Hi vọng rồi đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm, để làm công việc giải toả, dọn rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy tŕ những cái “duy nhất đúng”. Bởi những “cái duy nhất đúng” ấy đă làm ô danh cả lănh tụ, cả “đảng” lẫn cả cách mạng.

Sau này, chừng nào hậu thế có đầy đủ điều kiện lương thiện trí thức, để mở lại vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để có thể trả lại công lư cho cái phong trào tư tưởng tiến bộ ấy, cho lớp người thực sự là “tiên tiến” như Trương Tửu, như Nguyễn Hữu Đang… như cả Trần Đức Thảo… th́ lúc đó mới có thể làm sáng tỏ để đánh giá tầm vóc cuộc đời và sự nghiệp, và cả về cái chết đột ngột của Trần Đức Thảo..

Chỉ lúc ấy, hậu thế mới có thể biết rơ được giá trị sự nghiệp mà Trần Đức Thảo đă hết ḷng mơ ước và đă dầy công tạo dựng là như thế nào.

Đấy là một Trần Đức Thảo bi thảm, như tôi đă thấy, đă gặp và đă được nghe ông trải bầy tâm sự.

Đấy là một con người tàn tạ trong gian nan, hối hận, Đấy là một cuộc đời bi thảm… mang đầy thương tích thối tha của hận thù và bạo lực. Nhưng bộ óc ấy vẫn trong sáng, không oán thù ai, mà chỉ hối hận về sai lầm, về sự im lặng của chính ḿnh, tự thấy ḿnh mang tội đồng loă với sai lầm trong một thời gian quá dài. Đây là công, tội của một kẻ tôn thờ chân lư. Không ít người cho đấy là một nỗi đau, một thất bại của nhà triết học khi đă dại khờ lao minh vào đống rác của lịch sử… với giấc mộng cuối cùng, là sẽ mang công sức và trí tuệ của ḿnh ra để làm sạch lịch sử, làm sạch cách mạng!

Tuy vô tài, bất tưởng, văn dốt, vũ dát, tôi cũng muốn gắng làm chứng cho bộ óc thông thái vô cùng bi thảm ấy. Bi thảm v́ thấy ḿnh đă uổng phí cuộc đời: lúc có thể, lúc nên nói, nên vùng dậy để bênh vực con người và những giá trị văn minh văn hoá, để dũng cảm ngăn chặn tội ác, để uốn nắn cách mạng theo hướng thiện, th́ ông đă không làm. Nay thấy cái sự im lặng trong suốt mấy chục năm qua là đă đồng loă với cái sai, với cái dối, cái ác. Bi thảm v́ vào lúc hoàng hôn cuộc đời, nỗi hối hận đă thiêu đốt ông, đă hối thúc ông phải vùng dậy để hành động, để chuộc tội. Nhưng than ôi, đă quá trễ! Cái chết không cho ông chuộc lại tội đă uổng phí cuộc đời, uổng phí bao nhiêu năm ăn học, uổng phí bao nhiêu năm nghiền ngẫm suy tư về cách mạng!

Với bài học của đám trẻ nghèo khổ phải kiếm sống trên những băi rác bao la, nhưng chúng có con mắt tính anh, bẻn nhạy, nhạnh tay bới t́m ra từ đồng rác đó những ǵ c̣n đùng được, tôi cũng muốn cố bởi t́m trong đồng rác lịch sử đương đại, để nhặt nhạnh, từ cuộc đời và sự nghiệp dang dở Trần Đức Thảo, một chút ǵ c̣n dùng được. Chặng lẽ một cuộc đời đầy ắp tư duy thông thái ấy đă không.. để lại được chút ǵ hữu ích cho hậu thế? Chẳng lẽ tôi cứ thản nhiên, vô cảm, đứng nh́n cái đống rác thối rữa vĩ đại ấy vĩnh viễn vùi lấp ông sâu vào thối tha và quên lăng? Như vậy th́ cuộc đời bi thảm ấy thật là lăng phí. Bởi thế, tôi cố kể lại, để chia sẻ cùng bạn đọc, cái sự may mắn của tôi v́ đă được triết gia Trần Đức Thảo coi như người thân, để ông tâm sự, nỗi niềm. Tôi đă lắng nghe ông v́ đời ông tuy bi thảm, nhưng đă tích luỹ nhiều điều thật hay, cũng hữu ích người nghe, là… tôi.

Phụ lục

 

 

D

hép lại từ cuốn băng ghi âm mấy lời tâm sự của giáo sư Trần Đức Thảo mười hai ngày trước khi ông ĺa đời

Hôm ấy, là thứ Ba, 12-4-1993, vào khoảng gần 6 giờ chiều, mấy anh em chúng tôi tới “Nhà Việt Nam” ở đường Cardinal Lemoine, quận 5, Paris, để nghe giáo sư Trần Đức Thảo thuyết tŕnh tiếp như thường lệ mấy phần đầu của một cuốn sách đang được ông soạn thảo, th́ bất ngờ thấy nhiều người có vẻ bực tức, lục tục bỏ ra về. Khi chúng tôi vừa tới, họ mách bảo: “Buổi thuyết tŕnh bị cấm rồi”… Nhưng sau đó, chúng tôi cũng vào được để t́m hiểu lư do. Lúc đó giáo sư Thảo đang thầm th́ với anh Dũng, bên cạnh có anh Lê Tiến, trong pḥng hội của “Nhà.Việt Nam”. Anh Lê Tiến cùng giáo sư Thảo kéo tôi bước sang một pḥng nhỏ phía sau để nói chuyện cho kín đáo tránh những cái nh́n đang rất thắc mắc tại sao bỗng nhiên lại có lệnh cấm buổi nói chuyện đă được loan báo từ trước. Chính trong căn pḥng nhỏ này, tôi đă ghi âm lại những lời tâm sự mà nay nó trở thành những lời trăn trối quan trọng và rất cảm động

Và sau đây là bản chép ra từ phần ghi âm ấy.

Như những lời trăng trối

Trước sự thất vọng v́ buổi thuyết tŕnh dự trù đă bị cấm quá đột ngột, giáo sư Thảo đă bực bội nói ra những ǵ bác cất giấu trong đầu lúc đó. Bác lớn tiếng, tay đập xuống bản, dằn từng tiếng mà nói:

- Chỉ tại tôi muốn nói ra là chính Marx sai.

Tôi hỏi:

- Tạĩ sao bây giờ bác mới nói là Marx sai?

Bác Thảo lại đập mạnh tay trên bàn một cách giận dữ:

- Bây giờ tôi nhận ra là chính ông Marx sai. Chứ không phải là ông Marx nói đúng rồi học tṛ học sai. Chính ông Marx cũng sai.

- Nhưng bây giờ th́ có phong trào đ̣i “phải đọc lại kinh điển”…

- Đấy! Th́ mấy cái thẳng đ̣i đọc lạỉ kinh điển, rồi chúng nó vẫn cứ thế… Đến lúc có ǵ kiểm thảo th́ lại bảo: sai là chúng tôi sai, chúng tôi sẽ đọc lại Marx, nhưng mà chính ông Marx cũng sai. Rồi cứ luẩn quẩn măi thế…

- Bác phải chỉ cho họ thấy chứ!

- Th́ hiện nay tôi đang chỉ, v́ thế mà chúng nó muốn đè đầu tôi. Nếu mà không nhận ra là ông Marx sai th́ không thể nào thoát ra khỏi chỗ này được.

Nhưng mà “lần này” là c̣n phải bao lâu nữa bác mới chỉ rơ cho họ biết được?

- C̣n độ vài tháng nữa thôi. Có lẽ tôi cũng phải làm sớm hơn, có lẽ cũng chỉ hai ba tháng nữa thôi. Tại v́ để lâu quá rồi. V́ chúng nó vẫn cố giữ địa vị. Hiện nay thất bại như thế rồi nhưng vẫn cố giữ địa vị, để giữ cái món ăn tiền… cứ bảo vệ ông Marx. Bảo sai là chúng tôi sai, nhưng mà ông Marx ông ấy đúng. Cứ bảo vệ ông Marx.

- Bây giờ có mấy cái nghị quyết mới muốn xiết lại…

- Tai hại nhất là cái thằng Baiibar ấy, cái thằng ấy là nó lại là siêu Marx! Nó giả vờ đứng về phía Marx để nịnh mấy cái thằng kia vốn đă đội Marx lên trời… Nhưng nó lại c̣n quá nữa, nó c̣n siêu hơn cả Marx nữa…

- Tức là thứ ultra đấy…

- Ừ, tức là ultra đấy. Thế là cứ loanh quanh măi, lại cứ ông Marx măi… Rồi nói là chúng ta học sai. Rồi lại cứ ông Marx măi.

- Nếu vậy th́ bác phải kịp thời chỉ ra cho họ thấy chứ!

- Th́ tôi đang chỉ cho họ thấy, th́ cũng độ sáu tháng nữa… v́ thế mà chúng nó đàn áp tôi. Nếu mà không rời ông Marx ra th́ cứ luẩn quẩn măi.

Anh Lê Tiến chặn lại:

- Bác nói ai sai cũng được, nhưng mà cũng phải khiêm tốn một chút… Cũng như khi Euclide viết định đề toán học, cũng có người nói ông này sai, nhưng…

- Không! Cái này không thể chỉ như toán học được…

- Nhưng mà bây giờ muốn hỏi bác, bác nhận thấy Marx sai từ lúc nào?

- Từ cuối năm ngoái (tức cuối năm 1992). Tôi nhận ra rằng ông Hegel ông ấy sai, rồi ông Marx lấy lại phương pháp của ông Hegel. Chính phương pháp y sai. Ông Marx bảo phương pháp ấy đúng, ta cứ lấy lại… nhưng thực ra là phương pháp ấy sai…

- Bác phải chỉ ra cho rơ cái điều đó chứ….

- Ừ th́ đấy, tôi đă chỉ ra trong cái bài đầu. Bài đầu và bài thứ hai. Chính là phương pháp ấy sai, ống Marx lại lấy lai phương pháp ấy…

- Nếu thế th́ bác phải phủ nhận những ǵ đă viết từ trước tới giờ?

Bác Thảo (gơ mạnh xuống bàn):

- Tất nhiên rồi. Tôi nói rơ ra như vậy, tất nhiên là phải phủ nhận. Tất nhiên là phải phủ nhận! (Chúng tôi nghe và im lặng hồi lâu như bị sốc!) Ông Marx tưởng là ông Hegel đúng, ông Marx lấy lại phương pháp của ông Hegel, khổ thế! Chính là ông Hegel cũng sai.

- Bác phải làm sao chỉ ra như vậy chứ.

- Th́ trong hai cái bài đầu, tôi chỉ ra là ông Hegel sai…

- Nhưng mà chưa rơ lắm.

- Nếu mà không vạch ra được cái chỗ ấy th́ cứ luẩn quẫn măi. Cái bi kịch của cách mạng ta là cứ bảo Marx đúng, nhưng mà ta không hiểu, nên ta vận dụng sai, rồi cứ luẩn quẩn đi học Marx măi.

Anh Lê Tiến:

- Cái bi kịch của cách mạng ta, dù sao đi nữa th́ cũng có hai giai đoạn, một giai đoạn cách mạng dân tộc giành lại độc lập cho đất nước…

- Đấy không phải là giai đoạn cách mạng vô sản, sau rồi nó mới làm cách mạng vô sản, rồi nó mới chia ruộng, mới đấu tố. C̣n cách mạng dân tộc th́ đúng quá rồi. Cách mạng dân tộc th́ đúng quá rồi. Nhưng mà cái mà đưa ông Marx vào ấy, bảo rằng cách mạng dân tộc chưa ăn thua ǵ hết, phải theo đường lối của nhà nuức là của chung ấy… chiếm công vi tư theo cái kiểu nhà nho.

Anh Lê Tiến:

- Dù sao th́ trong giai đoạn đầu…

Bác Thảo chặn lại:

- Gíai đoạn đầu ấy th́ chưa tḥ ông Marx ra…

- Nhưng mà ở nhà bây giờ người ta lại nêu ra tư tưởng Hồ Chí Minh…

- Nói tư tưởng Hồ Chí Minh th́ cũng lại là ḷi ông Marx ra… (Tay đập bàn) Mà vận đụng Marx là nó sai từ gốc. Ở nhà chúng nó cứ bảo tôi: cứ giữ danh nghĩa ông Marx th́ ăn tiền. Chúng nó biết tôi nghiên cứu về Marx th́ nói thế. Chính mấy cái anh học mót về Marx ấy cứ bảo: Sai là chúng tôi sai v́ chúng tôi dốt nên chúng tôi sai, bây giờ chúng tôi học lại Marx…

Anh Lê Tiến:

- Nhưng giờ đây người ta nói tới tư tưởng.Hồ Chí Minh nhiều hơn…

- Th́ Hồ Chí Minh th́ vẫn là Marx, tất nhiên ông ấy cũng khôn hơn, ông ấy nói ra một cách đại chúng… nhưng cũng vẫn là Marx, nghĩa là vẫn sai tận gốc…

- Như cải cách ruộng đất th́ có phải là Marx không?

- Cải cách ruộng đất chính là theo tinh thần Marx. V́ thế mà nó sai. Nó sai v́ ông Marx, chứ không phải nó sai v́ hiểu lầm.

Anh Lê Tiến:

- Từ trước tới giờ không có ai nói là Marx sai…

- Ông Marx sai trước hết là v́ ông Marx lấy lại phương pháp của ông Hegel, mà chính là Hegel sai, sai v́ phương pháp. Lại thêm một điểm nữa là v́ ông Hegel nói trên trời th́ không đến nỗi tai hại quá… Marx lấy lại phương pháp tư tưởng của Hegel làm cho cái học thuyết nó sai… Như là trong Chính sách Kinh tế mới của Lenin ấy…

Anh Lê Tiến tiếp tục chặn lại:

- Cái Kinh tế mới ấy là đúng nhưng con người thi hành kinh tế mới ấy chưa phải là con người mới xă hội chủ nghĩa…

- Kinh tế mới ấy là đúng, nhưng có người nói theo Marx thế là nó sai, thế nên Lenin thua. Mà chính là do Marx sai nên mới dẹp nó đi…

- Dù thế nào th́ bác cũng chưa nói thật rơ…

- Th́ trong hai cái bài đầu, tôi đă chứng minh là cái dialectique của Hegel là sai, mà ông Marx lấy lại cái dialectique ấy th́ lại cảng sai. V́ sao? V́ Marx đưa từ trên trời xuống đất.

- Sao bác không nói thẳng ra như vậy…

- Không thể nói thẳng, nói rơ ngay ra tất cả nhur thế được. V́ chủng nó đang đả tôi như thế, chủng nó đánh cho vỡ đầu ra… Nhưng nay đă là quá lắm rồi, đă sai lầm như thế rồi mà chúng nó cứ lại mác-xít măi, chúng nó vẫn cứ vin vào bảo Marx đúng, sai là chúng tôi sai… Nhưng thật là đă sai từ gốc…

Anh Lê Tiến lại nói:

- Cháu chưa thấy ai đă nói ra như vậy.

- Ở nhà không có ai dám nói ra như vậy. Mà ở đây cũng không có ai nói ra như vậy. Nhưng mà tôi nhận thấy nếu mà không nói ra như vậy th́ cứ luẩn quẩn măi, đă thất bại như thế, lại cứ ông Marx măi, cứ đọc lại kinh điển…

Anh Lê Tiến;

- Bác không dùng marxisme nữa th́ dùng cái ǵ?

- Th́ phải dửng cái khác!

- Cái khác là cái ǵ?

- Là cái mà tôi đang xây dựng. Cái mà tôi đang xây dựng bước đầu, là hoàn toàn mới chứ mà cứ theo Marx măi th́ không được…

Anh Lê Tiến:

- Theo trong lịch sử triết học th́ phương đông kể từ Khổng Tử, Mạnh Tử rồi Lăo Tử, c̣n phương tây th́ là từ Aristote tới Descartes…

- Tất cả những cái đó th́ nó sai rồi…

Anh Lê Tiến:

- Bác nói như thế th́ từ khi con người xa rời cái thế cầm thú mà bác nói nó sai th́…

- Những cái của thời đó th́ nó có thể thử nghiệm được, nhưng nay th́ nó không c̣n dùng được…

(Cuộc tranh luận giữa giáo sư Thảo và anh Lê Tiến trở nên gay go và lộn xộn rất khó nghe rơ nên xin gác qua đoạn này để chỉ chú ư tới những lời lẽ của giáo sư Thảo sau đó)

Anh Lê Tiến:

- Cháu thấy bác dù sao th́ cũng nên thận trọng.

- Th́ nay mới bước sang phần thứ tư, c̣n trong ba cái phần đầu, chúng nó có nói ǵ nổi đâu. Nếu chúng nó mà phá được, th́ tôi chết rồi. Tối không c̣n ngồi đây nữa. Nhưng mà đánh vào quyền lợi của nó th́ tuy nó không làm ǵ được, nhưng nó bịt đấu, bịt đuôi, không cho sống. Nếu mà nó đánh được th́ chết ấy chứ.

- Nhưng bác phải chỉ rơ ra cái đường hướng mới ấy chứ.

- Th́ những cái mà tôi đă viết, nhát là trong ba cái bài đầu ấy, chính chúng nó không bẻ được th́ tôi mới c̣n sống…

Anh Lê Tiến:

- Cháu nói cái này cũng là để information thôi, để mà thấy chuyện chung thôi, chứ không phải là phê b́nh bác. Nhiều người, trong đó có những người đă viết thư cho bác… Th́ người ta nói những điều bác viết, những điều bác nghĩ cũng như mấy cái propositions của bác, th́… (mấy từ tiếng Pháp này nghe không rơ…), nhưng mà tới bây giờ trên phương diện trao đổi giữa người với người, xưa tới nay chưa có ai nói những cái như bác viết…

- Th́ cho tới nay tôi chưa đưa ra được những điểm cần thiết… Làm th́ không thể nào trong bốn tháng mà làm xong được… Cái mà tôi nhận ra th́ mới trong sáu tháng thôi.

Anh Lê Tiến:

- Mà bây giờ th́ thời gian cũng không có, vấn đề sức khỏe của bác rất là giới hạn, rồi chương tŕnh công tác nó đ̣i hỏi nóng hổi, phải nhanh phải lẹ. Mà với điều kiện sinh sống của bác như thế này, với phương tiện vật chất của bác như thế này, th́ cũng phải làm cho lẹ…

- Những cái tôi làm, không thể đi thẳng vào vấn đề, vào con người và xă hội hiện nay… Mà xă hội hiện nay nó xuất phát từ cả một lịch sử xă hội… Mà lịch sử xă hội nó xuất phát từ cả một cái lịch sử động vật… Tất cả những cái đó là cần thiết phải thông qua… Th́ đấy tôi cũng đă nói rất là đơn giản, nhưng mà cũng phải nói, mà cũng mất công… Mà công th́ không thể nào bốn tháng mà làm xong được. Làm xong th́ cũng chỉ năm hay nói chậm ra cũng chỉ sáu tháng thôi… Mà hiện nay tôi tới tuổi già rồi mới nhận ra, mà tới tuổi già rồi mới có điều kiện, nhận ra, chứ trước có ai dám động tới cụ Marx đâu.

(Mấy câu này do giáo sư Trần Đức Thảo nói ra để phác hoạ mấy chương của cuốn sách mà ông đang h́nh thành, nhưng không kịp nữa)

Trở lại với cuộc đối thoại, Anh Tiến lại nói:

- Cái đó là thói quen của bác ở trong nước, chứ ở đây nó đụng tơi bời…

- Nó đụng nhưng mà nó không có một chính truyền… Tôi là người đầu tiên dám đụng tới Hegel. Ở ngoài không ai dám đụng tới Hegel, cứ nghe ông Hegel như là thành, c̣n th́ là do không hiểu, nên không ai đụng tới Hegel.

Anh Lê Tiến:

- Ở đây th́ họ vẫn đụng tơi bời…

- Nhưng không ai đi vào cái gốc tức là cái phương pháp.

- Tức là logique và dialectique…?

- Th́ đây! Th́ cái ấy đấy, chưa ai đụng đến. Nếu đụng đến th́ anh phải có một cái mới… Nếu mà không có một cái mới th́ anh không dám làm ǵ…

Anh Lê Tiến:

- Có thể là từ Marx tới bây giờ th́ chỉ có một Trần Đức Thảo dám đặt lại vấn đề…

- Tôi không phải là người đầu tiên, mà có từ ấy… Nhưng mà tôi là tôi nói cho nó rơ, rồi tôi phát triển được… những cái đó th́ mới lắm… chưa bao giờ… Mới bắt đầu có từ những năm ba mươi, th́ tôi phát triển được… Ông Husserl th́ nói từ những năm ba mươỉ, Nhưng mà ông ấy theo phe duy tâm.

Anh Lê Tiến:

- Bây giờ lại nói Marx là học tṛ của ông Hegel… th́ bây giờ…

- Không! Bây giờ th́ phải làm lại… Lần đầu tiên tôi làm đến nay, nghĩa là những cái mà tối làm rồi th́ chưa ai bẻ được. Mà không thể nào bẻ được. Th́ nó là lần đầu tiên có một phương pháp mới, chưa bao giờ có cái phương pháp ấy… Trước đây ấy, có hai quy tŕnh: quy tŕnh vin vào dĩ văng… rồi cứ nhớ lại di văng… Rồi nó lư tưởng hoá dĩ văng, thần thánh nó… lấy nó làm gốc. Thế rồi có những cái nó lại đi trước, nó thiên về tương lai… khổ nhất là Marx… ông ấy đă đặt cái tương lai lên trước cái hiện tại… để bảo rằng: “ Sau này th́ sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản… th́ sẽ ǵ, ǵ đấy...

Đến đây v́ cuốn băng bị hết nên không ghi âm được đầy đủ phần chứng minh của giáo sư Thảo nói về vấn đề “chính Marx đă sai”.

Cũng xin nói thêm cho rơ: đáng lẽ ra giáo sư Thảo tới Nhà Việt Nam hôm ấy là để diễn thuyết về đề tài “La Théorie du Présent vivant comme Théorie de Associativité (Lư thuyết Hiện tại sống động như là lư thuyết của liên hợp tính)”.

Nhưng anh Dũng người trực phiên tại Nhà Việt Nam hôm ấy cho biết có lệnh thôi không cho tổ chức các buổi thuyết tŕnh như vậy nữa. Hôm ấy giáo sư Thảo cầm tới một số tập tư liệu sao ra băng photocopie về các đề tài đă thuyết tŕnh bằng tiếng Pháp để bán. Trong đó có đề tài của buổi thuyết tŕnh hôm ấy, nhưng rồi bị cấm. Tập tư liệu bằng tiếng Pháp ấy bác ghi rơ là “Edité par l’auteur (Do tác giả ấn hành)” và có ghi ngày in là 12-4-1993. Rồi có tin bác giận dữ tính họp bảo để tuyên bố chọn tự do!

Nhưng tiếc thày, đến ngày 24-4-1993 th́ bác Thảo đột ngột qua đời.

Cũng xin nói thêm lá cuốn băng ghi âm này và vài cuốn băng ghi âm mấy buổi nói chuyện khác của bác, tôi sẵn sàng trao lại cho những ai muốn nghiên cứu về bác Thảo, đặc biệt là nếu có thư viện nào muốn lưu trữ tư liệu của chính Trần Đức Thảo.

 

 

 

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử ֎ United Nations  ֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: