Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

  

Nguyễn Tông Khuê, Bậc Thầy Thi Ca Đời Lê Trung Hưng

 

 

 

TS Phạm Trọng Chánh

 

Phạm Đ́nh Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút bài Thể thơ viết về thi ca Việt Nam có nói đến ba nhà thơ lớn, ba bậc thầy thi ca thời Lê Trung Hưng: Nguyễn Tông Khuê (1693-1767), Nguyễn Huy Oánh (1722-1799), Hồ Sĩ Đống (1738-1738). Ba nhà thơ duy nhất Phạm Đ́nh Hổ nói tên trong bài viết về thi ca Việt Nam.

 

«Trong khoảng đời Vĩnh Hựu, Cảnh Hưng các bậc tiền bối danh công có nhiều ông lưu ư về thi luật. Nguyễn Tông Khuê thực là một tay lănh tụ về thời ấy; thứ hai đến Nguyễn Huy Oánh rồi đến Hồ Sĩ Đống cùng nối nhau khởi lên tự lập thành một nhà thơ có tiếng. Ta lại thường xem thơ các bậc tiền bối thơ của Phúc Khê Công (Nguyễn Tông Khuê) th́ tinh vi đẹp đẽ, nhưng có phần vụn vặt quá. Lai Thạch Công (Nguyễn Huy Oánh) là bậc thanh cao, nhưng vẫn có ư mô phỏng; thơ Hoàn Hậu Công (Hồ Sĩ Đống) th́ chủ lấy khí phách, không thèm lấy điêu khắc vẽ với làm khéo. Thi học đến đời ấy đă trung hưng lên được nhưng so với các thi gia đời Lư, đời Trần th́ cũng chưa thể sánh bằng.»

 

Những tên tuổi danh tiếng ấy ngày nay đă rơi vào quên lăng, chứng tỏ chúng ta không biết ǵ nhiều về những nhà thơ danh tiếng ngày xưa ? v́ thi ca phần lớn là thơ chữ Hán, ngày nay chúng ta chỉ thưởng thức thơ danh tiếng cha ông qua những bài dịch nghĩa, như người ngoại quốc đọc thơ Trung Hoa. Di sản thơ cha ông ta hơn ngàn năm viết bằng chữ Hán. Tác phẩm thi ca Việt Nam nhiều vô số kể, phần đă nghiên cứu chỉ là một phần nhỏ. Toàn bộ nền văn hóa ấy Tàu không xem là văn hóa của họ, ngày nay họ dùng chữ Quan thoại Bắc Kinh đơn giản, chẳng ai bỏ công đọc chữ Hán cổ thơ người Việt. Người Việt Nam ngày nay đọc chữ Quốc ngữ, làm thơ xuôi, thơ tự do, chẳng ai trau dồi thơ Đường Luật niêm luật khó nhọc làm ǵ, lại phải đọc thứ chữ Hán cổ điển chẳng ai dùng. Các cụ Việt Nam từ trong nước ra hải ngoại c̣n khả năng dịch thơ chữ Hán ra thơ Đường Luật ngày một rơi rụng chẳng c̣n bao nhiêu người. Không biết Viện Hán Nôm Hà Nội có đào tạo ra người dịch thơ Đường Luật không ? Thấy các tập Tinh tuyển thơ cổ chỉ có dịch nghĩa, nhiều bài viết nghiên cứu các ngày nay chỉ dịch nghĩa, thật tội nghiệp cho nền thi ca cổ điển của dân tộc ta. Với mối ưu tư đó tôi xin dịch lại thành thơ những ǵ tôi có được trong tầm tay những bài đă dịch nghĩa để giới thiệu các nhà thơ danh tiếng Việt Nam đă bị rơi vào quên lăng. Mong độc giả thưởng thức được cái hay cái đẹp văn chương cha ông ta một thời lừng danh.

 

Nguyễn Tông Khuê (1693-1767) hay Nguyễn Tôn Khuê c̣n gọi là Nguyễn Tông Quai, (Hán tự gồm bộ huyệt (h́nh) và Khuê (thanh). Các bộ Thuyết văn, Từ Hải, Từ Nguyên, Quảng Vạn, Thiết vạn đều ghi cách đọc là Khuê. Chữ nôm dùng nó để viết quai nón, quai ấm, quai nồi. Khuê là sao Khuê, sao văn học, người cha đặt tên con ngày xưa ước mơ cho con hay chữ, trở thành ngôi sao văn học, có ai ước mơ cho con thành quai nồi, quai nón bao giờ ? người con cũng hănh diện ḿnh là ngôi sao văn học để phấn đấu đạt mục đích ấy cho xứng tên ḿnh, và cả đời ông Nguyễn Tông Khuê giữ ḷng thẳng ngay trong sáng như sao Khuê dù bao gian nay trước bạo lực. Theo tôi, từ chữ Khuê ra chữ quai chữ nôm có một khoảng cách quá xa, chữ quai thường sử dụng ở miền Nam, ngày xưa vùng Lê - Trịnh người ta dùng chữ khuê để phiên âm chữ khuy, nay c̣n khuy nút, khuy áo; cái quai b́nh, quai nồi cũng gọi là khuy, nên văn bia Văn Miếu đời Lê viết là Khuê, sau cuộc thống nhất đất nước của vua Gia Long năm 1802, do ảnh hưởng miền Nam nhiều chữ nôm thời Lê - Trịnh bị biến mất hay thay đổi ư nghĩa nên cái khuy nồi, khuy nón được đọc là quai nồi, quai nón v́ thế nên tôi thiên về cách đọc Nguyễn Tông Khuê, có rất nhiều chữ nôm cùng trường hợp này như chữ cóc là biết, chiền là chùa, nghẹ là cái nồi, cống là cửa hào lớn vào cung cấm, kinh thành vua, kín cống cao tường, chỉnh chiện là ngồi oai vệ..).

 

Ông hiệu là Thư Hiên, người xă Phúc Khê, huyện Ngự Thiên, nay là xă Ḥa Tiến, huyện Hưng Hà tỉnh Thái B́nh nhưng sinh và lớn lên tại Thăng Long. Học với cụ Thám Hoa Vũ Thành (1664- ?) là Giám sinh trường Giám ( Văn Miếu, Quốc tử Giám), thầy học vẫn thường ca ngợi tài học của ông. Ông đỗ Hội nguyên Tiến sĩ khoa Tân sửu (1721) năm 29 tuổi. Nổi danh khoa cử. Nguyễn Tông Khuê được sung chức ở Hàn lâm viện, Thừa chính sứ Kinh Bắc. Đốc đồng Tuyên Quang. Năm 1734, được cử đi tiếp sứ giả nhà Thanh sang phong vương. Năm 1742 được cử làm Phó Sứ đi sứ nhà Thanh, Nguyễn Kiều chồng Đoàn Thị Điểm làm Chánh Sứ, cuộc đi sứ nhiều trắc trở gian nan mất 3 năm, trở về năm 1745 và được thăng H́nh Bộ Tả thị lang, tước Ngọ Đ́nh hầu. Ít lâu sau v́ bị vu cáo nên bị giáng chức dẫn đến bỏ quan về nhà. Năm 1748 được phục chức cũ và cử làm Chánh sứ sứ bộ sang nhà Thanh lần thứ hai, Nguyễn Thế Lập làm Phó Sứ. Hai năm sau trở về, ông được thăng Hộ bộ Tả thị lang, tước hầu. Tính t́nh cương trực, ông bị gièm pha bị Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc bách hại giáng chức xuống Thị Giảng, rồi truất về làng. Nguyễn Tông Khuê mở trường dạy học, đào tạo anh tài, học tṛ giỏi có Lê Quư Đôn (đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đ́nh, là nhà bác học nước ta), có Đoàn Nguyễn Thục (cha vợ Đại thi hào Nguyễn Du).. Năm 1767 ông mất tại quê nhà.

 

Kính Phủ Nguyễn Án trong Tang thương ngẫu lục đă viết về Nguyễn Tôn Khuê như sau:

 

«Ông Nguyễn Tôn Khuê người làng Phúc Khê, huyện Ngự Thiên. Thuở nhỏ, ông ngụ ở kinh đô, không thiết học hành, hàng ngày chỉ theo bọn trẻ đùa ngịch. Cha giận đánh đập, ông đến ẩn ở chùa Diên Hưng hàng tuần (10 ngày). Đói th́ ăn trộm quả oản cúng Phật để ăn. Người ta biết mách với người cha, cha đến mắng nhiếc rất nhục nhă. Ông xin từ nay chăm chỉ đi học, rồi đến học ở trường ông Thám hoa Vũ Thành. Ông Vũ là bậc tôn sư thời bấy giờ, những học tṛ làm nên nổi tiếng nhiều lắm. Khi ông mới đến học, cũng không có ǵ là xuất sắc. Một hôm ông Vũ ra đầu bài thơ « trống mái» để làm tập, bài thơ ông làm, có hai câu tam tứ như sau:

 

«Tịnh lập sơn đầu huyền thạch loạn

Song phi hán biểu hắc vân mê.»

 

Nghĩa là: «Cùng đứng đầu non, th́ đá xanh cũng phải lộn xôn; cùng bay lên trời th́ mây đen cũng phải mờ.» Ông Vũ khen ngợi rằng:

 

- Gă này mai sau tất sẽ nổi tiếng thơ hay. Năm 28 tuổi thi đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu (niên hiệu Bảo Thái). Bấy giờ ông Nguyễn Đức Đôn ở Vĩnh Kiều vẫn tự phụ ḿnh học rộng, sau kỳ thi thứ tư, ở trường ra, nói với mọi người rằng:

 

- Khoa này đỗ đầu, trừ ra có Nguyễn Tôn Khuê, chứ c̣n những người khác đều phải lui tránh ta ba xá (30 dặm một xá).

 

Lúc ra bảng, ông trúng thứ nhất mà ông Vĩnh Kiều trúng thứ hai. Vào đ́nh đối, ông đỗ Hoàng Giáp. Sau hai lần phụng mệnh sang sứ Trung Hoa, làm quan đến Hộ Bộ Tả Thị Lang phong Hầu Tước. Ông giữ đạo thẳng, ghét sự cong queo, không chịu kiêng nể ǵ cả, nhân thế bị viên Đại Thần cầm quyền là Việp Quận Công, kiếm chuyện tâu hặc, phải giáng xuống Hàn Lâm Thị Độc và truất phế về làng, thọ hơn 70 tuổi mới mất. Khi đi sứ có tập thơ Sứ Hoa tùng vịnh đến mấy trăm bài, được người Trung Hoa phê b́nh, hết sức khen ngợi. Đến nay trải hơn năm mươi năm, trong nước vẫn c̣n truyền tụng. Con là Tôn Bảo làm tri phủ Trà Lân, Tôn Thực làm Hiển Phó Kinh Bắc cũng đều nổi tiếng thơ hay.»

 

Tác phẩm Nôm của Nguyễn Tông Khuê có tập:

 

- Sứ tŕnh tân truyện: 670 câu thơ, viết theo thể lục bát xen lẫn với những bài thơ Nôm được xem như là một chùm thơ đẹp. Với tác phẩm này Nguyễn Tông Khuê đă đưa đề tài đi sứ vào một thể loại mới là kư thơ Nôm.

 

- Ngũ luân tự: 646 câu thơ song thất lục bát, là một tập diễn ca đạo đức luân lư diễn Nôm 5 điều luân thường: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn.

 

Tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Tông Khuê có:

 

Sứ hoa tùng vịnh hiện nay có 30 dị bản tại Viện Hán Nôm, gồm hai trăm bài thơ chữ Hán, tại Ecole Français dExtrême-Orient Paris cũng có một văn bản: thơ sáng tác trên đường đi sứ. Đề tài cảnh quan, phong thổ, nhân vật.. từ Thăng Long đến Yên Kinh cùng nỗi niềm xa nước nhớ quê và tấm ḷng trung quân ái quốc của một sứ giả có ư thức cao về trách nhiệm của ḿnh về đất nước và nền văn hóa dân tộc. Sứ hoa tùng vịnh được sáu danh sĩ trong nước và Trung Quốc, Triều Tiên đề tựa và phẩm b́nh. Phần cuối có trăm bài thơ xướng họa với các danh sĩ Trung Quốc trong đó có Trương Hán Chiêu, Âu Dương Vương, Vương Văn Tường..

 

Vịnh Sử thi quyển: tập thơ của bốn nhà thơ có tiếng Đoàn Trác Luân (anh Đoàn Thị Điểm), Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân bốn danh sĩ được đương thời xưng tụng là Trường An tứ hổ (Bốn con cọp ở kinh đô.. Trong thể tài thơ vịnh sử Nguyễn Tông Khuê cũng đă tạo dựng cho ḿnh một phong cách đặc sắc.

 

Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống, đă đọc được tập Sứ Hoa tùng vịnh do con trai của Nguyễn Tông Khuê là Cư Chính Nguyễn Tôn Thực cho xem năm 1774 lúc làm Bố Chánh sứ Kinh Bắc, Cư Chính làm việc ở ty Án sát, năm 1778 trên đường đi sứ lại ghé thăm Kinh Bắc, Cư Chính lại cho xem toàn tập nhờ viết tựa và cho khắc in. Trong bài tựa tập thơ Sứ hoa tùng vịnh, Hồ Sĩ Đống đă viết trên đường đi qua Kim Lăng:

 

«Nhớ lúc ở kinh thành, tiên sinh đă về hưu, tôi v́ lẽ không được tới dưới cửa học tập mà lấy làm buồn. Nay hân hạnh được nối theo bước trước (đi sứ) tham quan phong vật nước ngoài. Phàm những non sông cảnh vật trên đường trải qua, chứng nghiệm vào những câu tự t́nh và tiểu dẫn, đều có thể lĩnh hội được cả, không đợi phải hỏi. Đến như những bài thuật hoài, khiển hứng khi rảnh việc đem ra xem, càng đủ chứng tỏ Thơ là chổ đi tới của chí. Đó cũng là một mối nhân duyên gặp gỡ vậy.

 

Ôi! tiên sinh từ khi chiếm giải Hội nguyên đ́nh thi khoa Tân Sửu (1721), đă hai lần phụng mệnh sang sứ phương Bắc, tiên sinh làm quan đến Hộ bộ Tả thị lang, giữ đạo chính, tuy bị kẻ hằn thù vu cáo mà bị tội, song lúc tiên sinh trở về vườn th́ danh vọng lại càng trọng. Những kẻ hậu tiến hết thảy đều tôn kính tiên sinh. Cái điều hiển hách với đời, truyền bá về sau, há đâu phải chỉ riêng ở văn tự thôi đâu!"

 

Trước tiết Trùng dương hai ngày, tháng cuối thu, năm Mậu Tuất (1778) niên hiệu Càn Long, Hậu học Hồ Sĩ Đống, tự Long Phủ cúi đầu ghi ở trong thuyền khi qua Kim Lăng.

 

Trương Hán Chiêu một nhân sĩ Trung Quốc năm 1743 trong bài tựa đă viết:

 

«Mùa hạ năm Quư Hợi (1743) tôi qua nhà ngựi bạn là Cao Uẩn Sơn được gặp sứ quân An Nam là Nguyễn Thư Hiên.. Ở trong thuyền cùng nhau đàm luận về thi ca. Sứ quân nhân hứng đưa ra một tập thơ Sứ Hoa tùng vịnh nhờ tôi đề tựa, tôi nhận lời viết…

 

Là người nho nhă, phong lưu, mũ cao, đai rộng, nghe ông ta nói lưu loát không cần phiên dịch, thân mật thấy đó là con người ḥa nhă dễ gần. Thử hỏi về học vấn th́ Bách gia chư tử không chổ nào không thông, ông là học sĩ am tường thư tịch, sự tích, đặt biệt giỏi về thơ ca. Những lúc công vụ rănh rỗi, ông thường thích thú ngâm nga, ngày làm không biết bao bài thơ.. Thanh vận cách luật trong thơ đều học ở Đường thi nguồn t́nh thơ nhàn nhă, âm vận thơ cao nhă, độc đáo, đề cập đến những di tích nhân vật ngày xưa đều không cần tra hỏi, cảm hứng theo ngọn bút tuiôn ra, đủ thấy sự học uyên thâm của sứ quân vậy.»

 

Âu Dương Vương một nhân sĩ Trung Quốc khác viết:

 

«Tả cảnh th́ công phu tuyệt diệu như họa, tả t́nh th́ thật sâu kín. Thơ Thư Hiên cao nhă pjhóng khoáng như thơ Lư Bạch.»

 

Vương Văn Tường viết «Tài văn chương và đức hạnh đều siêu trác.»

 

SỨ HOA TÙNG VỊNH

 

Sau đây tôi dịch năm bài thơ trong tập Sứ hoa tùng vịnh.

 

Bài thanh Sơn hoài cảnh, Nguyễn Tông Khuê viết khi qua phố Thanh Sơn c̣n có tên là Tuế Hoa. Xuất phát từ trạm Phù Lưu, buổi chiều qua phố Thanh Sơn, đường cái quan dài dằng dặc bóng chiều ngă dài. Gió mát khiến xui nghỉ ngợi, xe sứ tạm dừng. Nhân vật phồn hoa, (những kẻ danh tiếng thi nhân nơi đô hội) như núi xanh vẫn c̣n đó, tiếng ca tiếng kèn trong lâu đài vách phấn lại thêm ( những ca nhi, ả đào son phấn). Khói sương lơ thơ bay lồng trong cây núi. Bầy én liệng thung thăng (làm tổ) kề mái nhà thôn xóm. Mục đồng chẳng hề oán mùa thu gió lạnh. V́ gió thổi tát vào mặt nên cưỡi ngược, xoay lưng lại phía đầu trâu nâng sáo thổi trong ánh chiều tà.

 

NHỚ CẢNH THANH SƠN

 

Đường quan dằng dặc bóng chiều buông,

Gió mát xui xe sứ tạm dừng.

Nhân vật phồn hoa xanh núi biếc,

Lâu đài đàn hát vách thêm hương.

Khói hoa lơ lửng lồng cây núi,

Én liệng thung thăng cạnh mái thôn.

Mục tử chẳng nề thu gió lạnh,

Ngược lưng trâu thổi sáo hoàng hôn.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

 

THANH SƠN HOÀI CẢNH

 

Chu đạo nuy tŕ ảnh tiệm thư,

Văn hương suy tứ yết chinh xa.

Phồn hoa nhân vật thanh sơn tại,

Ca quản lâu đài bích phấn dư.

Đạm đăng yên hoa lung lĩnh thụ,

Khinh doanh yến tử bạng thôn lư.

Ngưu đồng bất trục thu phong oán,

Đảo kỵ tà dương bả địch khư.

 

Bài Thái Thạch hoài Thanh Liên, làm nhân đi qua ghềnh Thái Thạch ở khúc sông Trường Giang (Dương Tử Giang) thuộc huyện Dương Đồ, vùng Giang Nam. Thanh Liên là biệt hiệu Lư Bạch, đại thi hào đời Đường quê làng Thanh Liên. Tục truyền Lư Bạch đi chơi trăng ở đây, ông mặc áo cẩm bào vua ban v́ ông là khách nơi cung diện vàng nhà vua, uống rượu ngâm thơ vang lừng, lúc rượu say nhảy xuống sông để ôm mặt trăng (chết đuối), người đời thêu dệt huyền thoại rằng có con cá ḱnh nổi lên. Lư Bạch cưỡi con cá ḱnh đi về cơi tiên nơi thủy cung. Nơi đây nay c̣n đền thờ và đ́nh Bắt Trăng (Tróc Nguyệt Đ́nh) ở trên núi.

 

Nơi non xanh núi biếc một lá thuyền, Gửi ḷng ngạo mạn (như Lư Bạch) trong trời đất ḷng lâng lâng. Uống rượu như uống cạn sông trăng ngàn lớp sóng lấp lánh. Tiếng ngâm thơ như vang động đến sao trời suốt năm canh. Phi ngựa rũ bụi trần từ biệt khách điện vàng. Lư Bạch nói với quan huyện Phạm Dương rằng: “Trước mặt thiên tử c̣n để cho ta cưỡi ngựa, ở trong huyện Phạm Dương này lại không để ta cưỡi lừa ư ? “Lư Bạch cưỡi cá ḱnh về làm bạn say với tiên nữ chốn thủy cung. Ngưỡng mộ phong thái cao thượng của ngôi đ́nh cổ Tróc Nguyệt đ́nh trên đỉnh núi. Trời chiều mây trên sông ngăn những làn khói biếc.

 

THÁI THẠCH NHỚ THANH LIÊN

 

Non xanh nước biếc một thuyền con,

Ḷng nhẹ lâng lâng ngạo nước non.

Uống cạn sông trăng ngàn lớp sóng,

Vọng ngâm sao sáng suốt đêm tṛn.

Ngựa phi rủ bụi khách kim điện,

Cưỡi cá ḱnh về tiên thủy cung.

Non cao ngóng cảnh ngôi đ́nh cổ,

Chiều xuống sông mây sương khói buông.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

 

THÁI THẠCH HOÀI THANH LIÊN

 

Bích thủy thanh sơn nhất diệp thuyền,

Càn khôn kư ngạo tứ phiêu nhiên.

Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt,

Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên.

Tẩm mă trần phao kim điện khách,

Kỵ ḱnh lữ túy bích cung tiên.

Cao phong cảnh ngưỡng sơn đ́nh cổ,

Nhật mộ giang vân toả thúy yên.

 

Bài Tiêu Tương văn diễu, Nguyễn Tông Khuê viết nhân đi qua sông Tiêu Tương. Tiết cuối xuân miền sông nước trong ánh chiều tà, từng làn khói ở các thôn xóm nghi ngút tỏa lên không. Mây giăng màn biếc, núi dường như muốn mưa; sóng cuộn vẩy cỏ xanh bờ như sắp nổi gió. Trời thấp gần, sương mù trùm tháp Hoài Tố. Tháp là một di tích bên sông Tiêu Tương mang tên một vị sư đời Đường, quê ở quận Trường Sa, viết chữ thảo rất đẹp. Đền thâm nghiêm cây che cung Vũ Hoàng, cung vua Vũ ngày xưa. Vài tiếng sáo dân chài trên chiếc thuyền con buổi chiều. Nước xa trời thẳm, ư nghĩa mênh mang vô cùng.

 

NGẮM CẢNH CHIỀU TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG

 

Cuối xuân sông nước ánh chiều buông,

Làn khói thôn xa tỏa khoảng không.

Màn biếc mây giăng mưa núi thẳm,

Gợn xanh sóng cuộn gió bay nhanh.

Phủ trùm mây thấp, tháp Hoài Tố,

Che bóng cây cao cung Vũ Hoàng.

Tiếng sáo dân chài thuyền lẽ bóng,

Trời xa thăm thẳm ư khôn cùng.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt.

 

TIÊU TƯƠNG VĂN DIỄU

 

Giang quốc xuân dư tịch chiếu trung,

Thôn thôn yên lũ niểu tầng không.

Vân già thúy mạc sơn tương vũ,

Ba cổ thanh lân ngạn dục phong.

Thiên cận vụ lung Hoài Tố tháp,

Từ thâm thụ tỏa Vũ Hoàng không.

Sổ thanh ngư địch biên chu văn,

Viễn thủy trường thiên tứ mạc cùng.

 

Bài Trường Sa văn diễu. Bài thơ viết khi đi thuyền qua Trường Sa. Trăng mé Tây đă ngậm nửa vành. Ngồi dựa ghế bên song cửa sổ khoang thuyền say mê ngắm cảnh. Chân núi Hành ánh nắng đỏ chiều tà xóa nḥa vẻ biếc. Sóng sông Tiêu Tương sắc thu tàn rũa cả màu lam. Khói thuyền câu xa nối phía Bắc bầu trời trên hồ; Ḷng lữ khách lại đang phiêu diêu ở miền ngoài Lĩnh Nam nơi quê nhà. Tiếng chuông trên thành dục ngàn non mau tối. Ngồi xem trăng non soi đầm lạnh.

 

NGẮM CẢNH CHIỀU Ở TRƯỜNG SA

 

Trăng mé hiên Tây ngậm nửa vành,

Bên song tựa ghế ngắm mơ màng.

Hành sơn bóng ráng nḥa sương biếc,

Tương thủy sóng thu phai vẻ lam.

Thuyền tỏa khói chân trời xứ Bắc,

Khách du ḷng chạnh nhớ quê Nam.

Tiếng chuông thành dục ngàn mau tối,

Ngồi ngóng trăng soi lạnh nước đầm.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

 

TRƯỜNG SA VĂN DIỄU

 

Thê thê tây nguyệt bán quy hàm,

Tỳ ỷ bồng song vọng chính hàm.

Hành lộc hà dư quang mạt thúy,

Tương ba thu tận sắc du lam.

Ngư yên dao tiếp hồ thiên bắc,

Khách tứ phiên tùy lĩnh biểu nam.

Thành thượng chung thôi thiên lĩnh mộ,

Tọa khan tân nguyệt chiếu hàn đàm.

 

Bài Giang Châu lữ thứ làm khi đi qua tỉnh Hà Bắc, huyện Giang Châu, xưa huyện lỵ đóng ở Vơ Xương, nơi có bến Tầm Dương, nơi này Bạch Cư Dị từng làm thứ sử.

 

Ngày tháng mùa hè dài dằng dặc, Đậu thuyền bên bờ đê dưới bóng cây dương xanh. Thấy sông lồng mây thêm nhớ quê hương. Nghe ve kêu trên cây tỉnh giấc ngủ trưa. Sau mưa mai, buồm chạy về bến Bồn. Lúc bóng xế chiều tiếng c̣i bằng vơ ốc thổi trên lầu canh. Nghe ca bên đ́nh hóng gió mát trên gác là những việc tầm thường. Chỉ có đọc sách thánh hiền mới là thú hơn cả.

 

TRÚ Ở QUÁN KHÁCH GIANG CHÂU

 

Mùa hè đằng đẳng tháng ngày dài,

Thuyền đậu bờ đê xanh bóng cây.

Lồng bóng sông mây quê nước nhớ,

Vang cây ve tỉnh giấc nồng say.

Bến Bồn mưa tạnh thuyền xa đến,

Ốc thổi lầu canh xế bóng ngày,

Hóng mát ca đ́nh là việc mọn,

Chẳng bằng đọc sách thánh hiền hay.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

 

GIANG CHÂU LỮ THỨ

 

Hoa nhật thư trường cửu hạ thiên,

Lục dương đê bạn hệ chinh truyền,

Giang hàm vân ảnh triền hương tứ,

Thụ náo thiên thanh giấc ngọ miên.

Bồn phố viễn phàm triêu vũ hậu,

Thú lâu cô giác tịch dương biên.

Ca đ́nh lương tạ hồn nhàn sự,

Thặng hữu đồ thư lạc thánh hiền.

 

Tập Sứ hoa tùng vịnh đă được một nhà thơ sứ giả Triều Tiên đương thời Hoài Âm Lư Bân Thôn trong bài đề tựa ca tụng:

 

“Mùa thu năm Quư Hợi (1743) tôi trọ ở Kim Lăng, con thuyền sứ giả An Nam bỗng lướt tới, nhân đó tôi được giao tiếp với vị Phó sứ Nguyễn tiên sinh Thư Hiên. Tiên sinh hoài băo cao cả như bậc đạo đức thời cổ. Khi giáp mặt bàn bạc, thấy tiên sinh đă sâu sắc lại ḥa nhă, gặp tiên sinh như là được ngồi trong luồng gió xuân vậy ! Hồi lâu, tiên sinh bỏ ra cho xem tập Sứ Hoa tùng vịnh. Phàm những nơi sông núi trải qua, những điều tai nghe mắt thấy, nào tức cảnh, nào hoài cổ, nhất nhất đều thu vào thơ cả.

 

Tôi đọc hết thấy khí thế trong đó bàng bạc mênh mông như núi sập, đá tan, mưa gió sầm sập, sông suối vỡ bờ, nếu không đầy công tích, khí sao có thể được như vậy ?

 

Thơ của tiên sinh cách luật tề chỉnh, âm điệu cao siêu, nắn nót từng câu từng chữ, thảy đều theo đúng khuôn phép Thịnh Đường. Dẫu Trung Hoa có tiếng hay thơ cũng không hơn thế được.

 

…Tiên sinh lại đưa cho coi cuốn Sứ Hoa tùng vịnh hậu tập lối viết đằng tả. Đó là tập thơ viết tiếp tục sau khi về nước. Trước tôi chưa được xem, nay đón coi th́ thấy luật điệu của thơ càng tinh tế, ư cảnh của thơ th́ càng điêu luyện, phảng phất như thơ ở đời Đại Lịch (766- 769) và Nguyên Ḥa (806-820), mà tuyệt nhiên không thấy chổ nào rập theo khuôn mẫu cổ. Đó chẳng những là nêu cao ngọn cờ trên thi đàn nước An Nam, và nếu sau đây, thánh thiên tử có đi thâu thái phong tục bốn phương, th́ tập thơ của tiên sinh cũng có thể làm tăng thêm vẻ sáng đẹp cho thượng quốc nữa.”

 

Cuối tháng trọng thu năm Mậu Th́n (1748) Niên hiệu Càn Long.Hoài Âm Lư Bán thôn cẩn đề.

 

Có 5 bài thơ xướng họa với sứ thần Triều Tiên Lư Hiệu Lư, Mộ Tự Gia; Sứ thần Triều Tiên viết:

 

Quân tại tê Nam, ngă hải Đông,

Tương khan mạch mạch điểm tê thông.

Tuy kim ngôn ngữ chư phương dị,

Ṭng cổ y quan tương địa đồng

 

Dịch Thơ:

 

Anh ở núi Nam tôi biển Đông,

Xa nhau địa mạch vẫn tương thồng.

Nói năng hai nước tuy có khác,

Áo mũ đôi nơi vẫn mặc đồng.

 

SỨ TR̀NH TÂN TRUYỆN

 

Sứ tŕnh Tân truyện, là một kiệt tác kể hành tŕnh đi sứ bằng 670 câu lục bát và 8 bài thơ Đường luật chữ Nôm. Viết theo hành tŕnh đi sứ kể những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi qua các tháng cảnh từ Thăng Long đến Yên Kinh. Năm 2009 để nghiên cứu hành tŕnh đi sứ của Nguyễn Du tôi có đi Trung Quốc, qua những địa điểm thắng cảnh ngày xưa các cụ đă đi qua. Điều thú vị khi đọc các tập thơ người xưa viết trên đường đi sứ từ: Lê Quư Đôn, Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm, Ngô Thời Vị, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Kiều.. so sánh từng thắng cảnh tâm sự mỗi người đề thơ khác nhau: Ví dụ khi đi qua Trấn Nam Quan, hành tŕnh đi thuyền trong đêm, Đề miếu Tam Liệt, Ngắm cảnh trên sông Tiêu Tương, Hoàng Hạc Lâu, qua cảnh ở Trường Sa, qua quê hương Lư Bạch, Đỗ Phủ..

 

Trước Hoàng Hạc Lâu chúng ta có hàng trăm bài thơ, các nhà đi sứ Việt Nam khác nhau. Nhưng kể lại toàn bộ hành tŕnh bằng thơ lục bát th́ thật là hiếm có. Đi sứ là một đề tài thú vị trong thi ca cổ điển nước ta. Trong bài này tôi chỉ trích một đoạn đường đi từ Thăng Long đến Ải Nam Quan.

 

Đi sứ ngày xưa c̣n gọi là Hoàng Hoa, hay sứ Hoa. Sứ đoàn trung b́nh trên 20 người, sứ đoàn đông nhất thời Tây Sơn năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh Sứ gồm 150 người có cả hai con voi làm cống phẩm, và một ban hát bội B́nh Định. Đoàn sứ Nguyễn Du năm 1813, gồm 27 người. Lệ cống cứ 3 năm một lần, không kể việc vua băng hà, vua lên ngôi, mừng khánh thọ, mừng lễ truyền ngôi ở Trung Quốc. Đồ cống phẩm gồm 200 lượng vàng, 1000 lượng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế. Thời Nguyễn đi từ Phú Xuân đến Thạch đ́nh sông Vị Hoàng bằng thuyền, sau đó đi ngựa xe, qua mỗi nơi có bàn hương án, cờ lộng, quan lại địa phương tiếp rước lính tráng hộ tống linh đ́nh, trạm nghỉ chân dọc đường ban đêm tại các trấn cho đến Ải Nam Quan. Đến ải, quan địa phương Trung Quốc mở cửa tiếp rước, tế lễ các phẩm vật, từ Nam Quan đến Bắc Kinh có đoạn đi đường bộ, có đoạn bằng thuyền, do các quan địa phương lo liệu ăn uống, vật chất, trạm nghỉ và lính hộ tống. Từ phía Bắc Quế Lâm theo con kinh Đại Vận Hà đi qua các sông, các hồ lớn như Động Đ́nh Hồ, các trạm nghỉ trên sông hồ đèn đuốc sáng rực cả trăng sao, sau yến tiệc c̣n có các ca nhi múa hát. Mở đầu Sứ Hoa tân truyện Nguyễn Tông Khuê viết về cuộc đi sứ năm 1742 với Tiến sĩ Nguyễn Kiều chồng Đoàn Thị Điểm làm Chánh Sứ:

 

Cảnh Hưng rồng dậy thứ ba, 1

Tháng thu ngày tám, sứ Hoa khởi tŕnh.

Tiển đưa tiệc mở giang đ́nh,

Nam nhi phơi phới, nhẹ ḿnh bước ra.

Ngang thuyền qua bến Nhĩ Hà,

Tạm dừng vó kư đấy là Điêu Diêu. 6

Trông về vời vợi đền Nghiêu,

Tai c̣n mường tượng tiêu thiều tiếng vang.

Quan sơn muôn dậm đường trường.

Gió thu hây hẩy bước càng mau chân. 10

 

Niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) năm thứ ba (1743), tháng thu (tháng 8) ngày 8 âm lịch, đoàn sứ khởi hành, tiệc tiễn đưa ở đ́nh bên sông Hồng, thân trai nhận lănh sứ mệnh hớn hở bước lên đường, đi thuyền qua bên kia sông Nhĩ Hà, trạm dừng đầu tiên là Gia Lâm nghỉ lại đêm. Trông về cung điện nơi có vị vua Trung Quốc sáng suốt như vua Nghiêu, tai c̣n mường tượng tiếng nhạc lễ thời thái b́nh. Phải vượt qua khoảng 5000km đương trường núi non hiểm trở, gió thu hây hẩy mát càng mau bước chân.

 

Dồn chen điếm khách nhà dân,

Chợ rau dịch ấy có phần xôn xao. 12

Sông Cầu cảnh cũ bước vào,

Non kia nước nọ han chào líu lo.

Dặm bài đường vắng như tờ. 15

Rườm rà khóm trúc, phất phơ bóng ḥe.

Xe thiều thuở hé rèm the,

Ruộng thu vàng rượi mây che đ̣i ngàn.

Mảng vui cảnh vật giang san.

Thọ Xương ngựa đă gác yên vào chờ. 20

 

Nhà khách dành cho đoàn sứ nằm giữa nhà dân, chợ bán rau cải vui nhộn đông đúc, tiếng ồn ào xôn xao. Đi đến Sông Cầu nơi đă từng qua, gặp các quan địa phương đón chào vui vẻ líu lo. Đoàn sứ cờ xí, lại tiếp tục đi trên đường cái quan vắng lặng, dọc đường những khóm trúc um tùm, những cây ḥe phất phơ. Từ trong xe sứ hé rèm nh́n ra, ruộng mùa thu chín vàng, mây che đồi non xa xa. Mảng vui cảnh vật nước non đă đến huyện Thọ Xương quan lại, lính tráng đang đứng chờ.

 

Nhà thôn lều chợ khói thưa,

Bạc in muôn khóm thành xưa mây về.

Tuần vôi nồng nả chỉn ghê,

Ruổi vào Yên Thịnh bốn bề trăng soi.

Trời đông mưa dặt nắng dồi,

Đă qua suối Cát lại nơi băi Triềng.

Canh ba mới dứt tiếng chiêng,

Một gian chuông ấy bằng riêng ngh́n nhà.

Đầu non bóng dăi thà la,

Đến sông Giang Hóa cảnh đà thanh thay. 30

 

Nhà nơi thôn quê, lều chợ khói bếp thưa thớt bay lên, Mây bạc từng khóm nhỏ bay trên thành xưa. Đoàn sứ đừng chân uống nước ăn trầu vôi nhanh chóng. Khi vào đến Yên Thịnh th́ trăng đă lên cao. Trời sắp vào đông khi mưa, khi nắng, đoàn sứ đi qua suối cát, đi qua băi Triềng. Canh ba đoàn sứ mới dừng lại dứt tiếng chiêng để yên nghỉ. ở trong một căn nhà rong to rộng bằng ngh́n cḥi nhỏ. Thức dậy bóng nắng đă lên đầu núi chan ḥa, đến sông Giang Hóa cảnh vật thật thanh lịch đẹp đẽ.

 

Tiếng chim pha rộn tiếng cây,

Cùng ai cầm suối thày lay lại đàn.

Mới hay sương tuyết gian nan,

Đă tranh có núi, lại màn có mây.

Quỷ môn cẩu khí thiêng thay,

Nhơn nhơn cơi Bắc đến rày c̣n kinh.

Núi che chần chẫn bích thành,

Một bầu thiên hiểm trời dành cơi ta.

Gió đưa núi rước dần dà,

Kheo con, Kheo Nạ sẩy đà tới nơi. 40

 

Tiếng chim kêu rộn rả trên cây. Tiếng suối róc rách dai dẳng chảy măi cùng ai như tiếng đàn. Mới hay cảnh sương tuyết đi đến gian nan, có tranh sơn thủy là núi, có màn trướng là mây. Đến Quỷ Môn quan nơi Liễu Thăng bị vua Lê Lợi chém đầu khí c̣n thiêng, nơi đây nổi tiếng “mười người đi qua xâm lược nước Nam chỉ có một người về”, người phương Bắc c̣n kinh hải. Đây là bức tường thành che chắn sông núi hiểm trở trời dành cho ta. Gió đưa núi rước dân dà đến Đèo Con, Đèo Mẹ hay Khâu Con, Khâu Nạ, tức Tử Sơn, Mẫu Sơn ở Lạng Sơn ngày nay.

 

Ngửa trông gang tấc gần trời,

Thang mây lần bước ngất vời nửa mây.

Những mơ nước tỉnh non say,

Đ́nh phô ngựa đă ruổi ngay Lạng Thành.

Phong quan vốn có hữu t́nh,

Chợ vây lầu mái, thú dành lầu cao.

Nửa kinh nửa chợ xôn xao.

Giăng vang ong yến, dập d́u ngựa xe. Ḱa đâu gấm lại tứ bề,

Trời xây núi ngọc, mây che động trời. 50

 

Đường lên núi trông gang tấc như gần trời, như bước lên thang cao ngần đến nửa mây. C̣n đang mơ tỉnh cảnh non nước ngựa đă đến thành Lạng Sơn, c̣n gọi là Đoàn Thành (thành tṛn). Cảnh quan thật hữu t́nh. Chợ có mái lầu, tháp lầu cao dành cho lính thú. Người buôn bán phân nửa là người Việt, phân nửa là các dân tộc, văn vẳng lời tán tỉnh yêu đương, xe ngựa dập d́u. Cảnh sắc như gấm vóc bốn bề,thơọ trời xây núi ngọc, mây che động Tam Thanh.

 

Đá sao nước rỉ đời đời,

Vốc ḥa lại có chẳng vơi chẳng đầy.

Một phương lưu loát đ̣i ngay,

Trần ai chẳng bám thực này giếng tiên.

Khen ḷng Tô Thị đá bền,

Ngàn năm mặt Bắc trông miền ải quan.

Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,

Sớm trưa tối gió mấy gan thờ chồng.

Non xanh, nước biếc mây lồng,

Tam Thanh một động gồm cùng ḥa ba. 60

 

Trong động nước rỉ măi đời đời, vốc tay uống th́ nước không vơi lại đầy lại ngay. Hỏi người tại đó th́ đây là giếng tiên. Khen thay ḷng nàng Tô Thị ôm con chờ chồng bền vững, ngàn năm ở phía Bắc trông ra miền biên ải, xưa nay mấy kẻ phận hồng nhan, gió mưa sớm tối, cùng gan dạ thờ chồng. Non xanh nước biếc, mây bay lồng. Tam Thanh có ba động kề nhau.

 

Ngọc đông nên cảnh chiền già.

Hương lừng mùi quế, bóng ḷa màu đan.

Bồ lao om núi kêu ran,

Sương sơ một tiếng rũ tan mọi miền.

Kỳ Lừa cây rợp bóng êm,

Cửa the nhà gấm vây thêm tứ bề.

Khách thương buôn bán đi về,

Cửa thông hai nước chợ lề sáu phiên.

Dịch mai xẩy thấy tin truyền.

Cuối đông mồng bảy sứ liền quá quan.

 

Trong động ngọc ấy có ngôi chùa, mùi trầm hương thơm lừng, bóng cột, kèo sơn màu đỏ chói ḷa. Tiếng chuông nhà chùa (đầu chuông có quai h́nh con bồ lao) vang vang núi rừng, tiếng chuông như rủ tan niềm trần tục. Phố chợ Kỳ Lừa cây rợp êm bóng, bốn bề là cửa màn the, nhà đẹp như gấm bốn bề. Khánh thương buôn bán đi đi, về về. Đây là cửa thông hai nước mỗi tháng có 6 phiên chợ. Ở quán dịch thành Lạng Sơn chờ đợi. Mồng bảy tháng chạp mới mở cửa chính cho đoàn sứ đi qua.

 

Tiếng người tiếng súng dậy ran,

Kẻ về Kinh quốc, kẻ sang Yên đài.

Đă hay mến cảnh nhớ người,

Quân thân hai chữ một vai đă quằn.

Tôi người đâu ngại nhọc nhằn,

Song nghi cố quốc khôn ngăn được ḷng.

 

QUÁ QUAN TỰ THUẬT (Tự thuật khi qua cửa quan)

 

Hai chữ quân thân, gánh nặng quằn,

Song nghi cố quốc dạ khôn ngăn.

Dời chân ải Bắc đường muôn dặm,

Ngoảnh mặt trời Nam cửa chín lần.

Dắng khúc Ly câu thêm thắc mắc,

Ngâm thơ Tứ mẫu lại dồn chân.

Lạ người lạ cảnh mà dằn vậy,

Miễn báo nhà vàng mỗ chút phân.

 

Chinh phu dóng dă đă xong,

Xe xe ngựa ngựa ruổi dong lên đàng.

Bên trời ác đă ban vàng,

Lạ người lạ cảnh bước càng dừng chân. 80

 

Theo Ngô Thời Vị năm 1807: “Trấn Nam là cửa ải địa đầu địa giới tỉnh Quang Tây. Cửa một tầng, xây bằng những phiến đá. Hai bên tả hữu có hai ngọn núi đối nhau. Ở trên mỗi ngọn núi có cắm một lá cờ trắng đề bốn chữ “Trấn Nam đại quan“. Đằng trước cửa giáp với đài Ngưỡng Đức của nước ta, đằng sau cửa có một đồi tức là Đài Chiêu Đức, nơi sứ giả đốt hương bày đồ cống. Cửa ải chỉ mở vào những ngày hội đồng giao tế. Khi mở đầu tiên nổ ba phát súng, rồi viên quan coi cửa cầm cờ vàng mở khóa. Trong cửa bọn thơ lại và lính tráng giao gậy vào nhau, ngăn lính kỵ mă theo sau, bắt dừng lại đợi sứ bộ tiến qua; cuối cùng họ quay lại đóng cửa.

 

Cửa ải dựng lên chẳng qua là để chia rơ trong ngoài, phân biệt bờ cơi mà thôi. Lính ít, canh gác lơi là, chẳng có pḥng bị ǵ cả. Cửa Hàm Cốc đời Tần, cửa Ngọc Môn đời Hán cũng không đến nổi sơ sài như thế. “(Ngô Văn gia phái. Hà Sơn B́nh 1980, tr 182.)

 

Sau khi bắn ba phát súng, đoàn sứ từ giả quê hương lên đường đi Yên Kinh (Bắc Kinh), ḷng bồi hồi thương nhớ quyến luyến quê hương, nhưng v́ nghĩa vụ làm bề tôi v́ nhiệm vụ vua chúa giao phó nên phải ra đi. Bài thơ chữ Hán Tự thuật khi qua ải Nam Quan viết: V́ nghĩa vụ là bầy tôi nhà vua cho nên phải gánh nặng trách nhiệm, nhưng ḷng nhớ quê không ngăn ḍng lệ. Dời chân đi sứ qua cửa Bắc đi 5000 km. Ngoảnh mặt lại trời Nam ngưỡng trông lên chín bệ rồng nhà vua. Nghe khúc Ly câu trong Kinh Lễ khi tiễn khách người ta hay hát bài này ḷng thêm thắc mắc. Ngâm bài thơ Tứ Mẫu trong Tiễu nhă Kinh Thi, nói về ḷng nhớ thưong cha mẹ ḷng càng áy náy, băn khoăn mà vẫn phải đi, xông pha v́ sứ mệnh nhà vua. Dù có lạ người lạ cảnh cũng đành vậy, miễn là báo đáp được ơn vua một phần nào.

 

Ra khỏi ải quan, bây giờ trở thành người chinh phu, cùng đoàn ngựa xe mang theo phẩm vật triều cống, đi suốt ban ngày đến chiều tối mới dừng chân, dọc đường lạ người, lạ phong cảnh khi dừng chân.

 

Sứ tŕnh tân truyện là một tác phẩm cần thiết để đọc khi nghiên cứu về Bắc Hành Tạp Lục của Nguyễn Du. Nó cho chúng ta biết con đường đi, từng trạm dừng chân, phong tục tập quán từng vùng đi qua, nơi dừng chân các di tích đền đài, chùa chiền, thắng cảnh, nơi lưu dấu từng nhân vật lịch sử hay nhà thơ, chúng ta sẽ có dịp so sánh khi nghiên cứu hàng ngàn bài thơ đi sứ của các danh nhân nước ta..

 

Nguyễn Tông Khuê mất ngày 4 tháng 3 năm Đinh Hợi (1767)

 

Nhà thờ Nguyễn Tông Khuê hiện nay ở Xóm Dinh, làng Sâm, xă Ḥa Trân, huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái B́nh. Năm 1993 Kỷ niệm 300 ngày sinh, Sở Văn Hóa, Viện Hán Nôm và Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội có làm hội thảo cấp quốc gia tại huyện Hưng Hà.

 

Nguyễn Tông Khuê, một nhà thơ lớn nước ta, thơ như châu ngọc, như gấm thêu, lại là thầy của Bảng Nhản Lê Quư Đôn. Sinh thời tiếng tăm vang dội, chưa bao giờ thấy một nhà thơ, sứ thần Việt Nam nào ngày xưa được các danh sĩ Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam ca tụng như vậy, Nguyễn Tông Khuê là bậc thầy phục hưng thi ca. Ngô Thời Sĩ từng đánh giá: “lừng tiếng thơ hay khắp cơi”. Phan Huy Chú khen: “điêu luyện mới mẻ và đáng ưa”. Nguyễn Án viết trong Tang thương ngẫu lục: “Đến nay trải hơn 50 năm người trong nước vẫn c̣n truyền tụng.” Lê Quư Đôn viết về bậc thầy ḿnh: “Tŕnh bày công việc vừa lịch duyệt, vừa vui tươi, có phần làm mạnh được quốc thể.” thế mà ngày nay gần như bị ch́m vào quên lăng, con cháu không c̣n biết nhiều thi ca đến thật là đáng tiếc. Mong rằng tác phẩm Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Sĩ Đống được Viện Hán Nôm lưu ư công bố toàn bộ tác phẩm, công bố nguyên tác và dịch sơ sài cũng được, để những người tha thiết đến di sản văn chương cha ông khắp bốn phương trời có thể đọc, dịch thơ, nghiên cứu góp phần làm đẹp di sản văn hóa cha ông.

 

Paris 10-12-2014

 

PHẠM TRỌNG CHÁNH *Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V; Sorbonne

 

phamtrongchanh@free.fr

 

Tài liệu tham khảo:

 

Phạm Đ́nh Hổ. Vũ Trung Tùy Bút Bản dịch Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Đông Nam Á Paris. 1985 in lại từ bản nxb Văn Học 1972.

 

Phạm Đ́nh Hổ, Nguyẽn Án. Tang thương ngẫu lục. quyển nh́. Bộ Giáo Dục Xuất bản Sàigon 1970 tr 155, 156

 

Tinh tuyển Văn Học Việt Nam. tập 5 quyển I. Văn Học thế kỷ XVI I I. PGS Nguyễn Thạch Giang chủ biên. Nxb Khoa Học Xă Hội. Hà Nội 2004.

 

Nguyễn Q Thắng - Nguyễn Bá Thế. Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam nxb Văn Hóa 1999. In lần thứ năm.

 

Tồn Am Bùi Huy Bích. Hoàng Việt Thi tuyển. nxb Văn Học Hà Nội. 2007.

 

Bùi Duy Tâm; Nguyễn Tông Quai: Sứ thần, Thi sĩ. Tạp chí Hán Nôm số 2 (81) 2007, tr 3-10

 

Ngô Văn gia phái. Ty Văn Hóa Hà Sơn B́nh, 1980

 

 


 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

www.nguyenkinhdoanh.com

www.nguyenkinhdoanh.net

www.lesyminhtung.net

www.diendantheky.net

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố Vấn An Ninh

Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám