Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM

 

(Thế Việt)

 

 

Dân tộc Việt Nam quần tụ trên bán đảo Đông Dương trải qua nhiều ngàn năm với đầy đủ những yếu tố cơ hữu: ṇi giống, ngôn ngữ, văn hoá… Điạ bàn sinh sống là một hành lang thuận lợi cuả vùng Đông Nam Á, nơi có sự giao lưu qua lại cuả con người và sự sống trên điạ cầu từ thời tiền sử, theo các chiều Nam-Bắc, Đông-Tây, đại dương và lục điạ.

Sự cạnh tranh quyết liệt cuả các siêu cường hiện nay tập trung mọi phương tiện, mọi chiến pháp, nhằm chiếm đoạt khu vực giữ ưu thế thắng lợi đánh bại địch thủ. Sự sống c̣n cuả dân tộc Việt Nam và các dân tộc láng giềng đang đứng trước những thử thách vô cùng cam go.

Mới đây, một thanh niên Việt Nam thành công bước đầu trong sự nghiệp chính trị tại điạ phương, có dịp xuất hiện rộng rải trước công chúng, đă phát biểu “Tôi là người Việt Nam cuả Dân Tộc Việt Nam”. – “Tôi là người Việt Nam” là sự kiện đơn giản dễ nh́n thấy, nhưng phần tiếp theo “Dân Tộc Việt Nam” phức tạp hơn.

 

Tuổi thanh xuân cuả nam nữ Việt Nam dù bất cứ nơi đâu, đang hoà mình vươn lên trong xã hội, dành ra những khoảnh khắc nghĩ đến cội nguồn Dân Tộc, tương lai Dân Tộc, sẽ cảm nhận những rung động thiêng liêng cao quí, những ước mơ vị tha, vị quốc. Họ sẽ vượt qua những cám dỗ vị kỷ, tìm thấy ý nghiã cuộc sống cuả một đời người, trong đó có Lẽ Sinh Tồn cuả Dân Tộc.

 

nguon-gocVN_BachViett

 

Từ trước đến nay đă có rất nhiều sử gia, các nhà khảo cổ học, nhân loại học, tiền sử học, tập trung nghiên cứu về Đông Á và Đông Nam Á. Các học giả dựa vào tài liệu đă có trước, những khám phá đương thời, đưa ra những lư thuyết thuộc các vấn đề liên quan, trong đó có Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.

 

Sau đây là những phần trích dẫn tiêu biểu hoặc tóm tắt đại ư của một số tác phẩm nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam

 

1./ Việt Nam Sử Lược

 

Việt Nam Sử Lược được xem như là sách giáo khoa cuả học sinh trung học miền Nam Việt Nam trước 1975. Qua tác phẩm, cụ Trần Trọng Kim nêu lên những yếu tố căn bản :

 

‘‘Theo ư kiến những nhà nghiên cứu Pháp th́ người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông Nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; c̣n người Thái th́ theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và nước Lào.

 

Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam miêu ở, sau có giống Hán tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu rồi dần dần xuống miền Nam. Người Tam miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ’’.

 

2./ Linh mục Lương Kim Định

 

Linh mục Lương Kim Định, một sử gia cũng là một triết gia. Sau nhiều năm tập trung nghiên cứu, giảng huấn, dưạ trên những công tŕnh cuả Vương Đằng Linh, Chu Cốc Thành, Eberhard và Eickstedt, giáo sư Lương kim Định đă hoàn thành hai mươi ba tác phẩm, tạo nên hai bộ sách Việt Nho và Việt Triết, khai mở một nền tảng về Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.

 

Thuyết của Linh mục Kim Định được tóm tắt như sau: Bách Việt cũng gọi là Viêm Việt gồm có ba nhóm là Âu Việt (Miến Điện, Thái, và Lào), Miêu Việt (Mèo, Mán), và Lạc Việt (Việt Nam và Mường). Giống Bách Việt từ phương Tây tiến vào lục điạ Đông Á dài theo sông Dương Tử, mở rộng lên phương Bắc gần đến sông Hoàng Hà và lan rộng xuống phía Nam. Định cư tại điạ bàn nầy, giống Bách Việt đă tiến vào thời đại nông nghiệp, xă hội được tổ chức nề nếp và ổn định. Họ sinh sống với một tŕnh độ văn minh, văn hóa khá cao do chính họ tạo ra, đó là nền văn hóa Việt Nho.

 

Tiếp theo, một giống dân du mục khác cũng đến từ phương Tây và lấn chiếm khu vực sinh tồn cuả giống Bách Việt. Sau khi cưởng đoạt đất đai của người Việt, lớp người chinh phục đến sau – người Hoa – sát nhập tất cả những giá trị cuả Việt Nho làm thành văn hóa của Trung Hoa.

 

3./ Sử gia Phạm Văn Sơn và Việt Sử Toàn Thư.

 

Sử gia Phạm văn Sơn đă đưa ra nhiều chi tiết trích dẫn từ Cổ thư Trung Hoa đến các tài liệu khoa học:

 

a- Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ sinh ra trăm con. Sự thực về thời thượng cổ, giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại các miền thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do các biến thiên của lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đă đạt đến h́nh thức quốc gia là: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu, và Lạc Việt.

 

Việt Sử Toàn Thư cũng nhắc đến sinh hoạt của Việt tộc thời bấy giờ:

 

nguon-gocVN_bachviet_LeDangHuongDenHung_Nam1905Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ, là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, dao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quư báu đời Xuân Thu.

 

Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh, và các thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu Lự, thuyền có lầu tức là Lâu Thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua Thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến.

 

Về kiến trúc, h́nh như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá, gạch. Việt tuyệt thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ c̣n di tích đến đời Hậu Hán.

 

Về văn hóa, tinh thần của người Việt, chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng, tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai, ba tiếng Hán.

 

Về phong tục th́ có tục xâm ḿnh, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc.

 

Về tính t́nh, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ chết. Việt tuyệt thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy, lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến th́ như gió thoảng, đi th́ khó đuổi theo. Sử kư chép: V́ dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ư ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ. Ngoài ra, người Việt lại thường hoài vọng phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ư là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô đă có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om ṣm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái tṛ tự sát này th́ quân chủ lực của Việt ập đến.)

 

b- Dựa vào các tài liệu về chủng tộc, Việt Sử Toàn Thư viết:

 

Cứ những điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa th́ Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông-gô-lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm ḿnh là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á châu (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống Tạng-Miến (Tibeto-Birman) và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỷ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng-Miến gần nhau quá, nếu có khác nhau th́ sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ v́ sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đă sống gần gủi nhau nên có sự trạng này hay là đă cùng thoát thai ở cùng một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền Axam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay c̣n di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đă có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á châu.

 

Sự phân vân của các học giả về sự tương đồng rất gần gủi giữa người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng đă được nhà khảo cứu B́nh Nguyên Lộc giải quyết trong một công tŕnh biên soạn công phu : Nguồn Gốc Mă Lai của Dân Tộc Việt Nam.

 

4./ B́nh Nguyên Lộc với tác phẩm Nguồn Gốc Mă Lai của Dân Tộc Việt Nam

 

Học giả B́nh Nguyên Lộc hoàn thành tác phẩm với lập luận rằng người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng chỉ là một, thuộc chủng Mă-Lai mà địa bàn phát tích của họ là vùng chân núi Hi-Malaya.

 

Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya. Danh từ Hi này c̣n thấy được trong ngôn ngữ Nhật Bổn ngày nay. Họ đọc là Khi, nhưng khi cần viết tiếng Khi bằng chữ La tinh, họ vẫn viết là Hi.

 

(Có lẽ Hi biến thành Hui rồi thành Núi bằng vào những xâu chuỗi biến dạng kỳ dị ở chương Ngôn Ngữ Tỹ Hiệu).

 

Xuyên qua 892 trang sách, học giả B́nh Nguyên Lộc đă nghiên cứu rất nhiều tài liệu của nhiều tác giả viết về con người vào thời thượng cổ và những biến động lịch sử, trải khắp từ Trung Quốc, Ấn Độ, và vùng Đông Nam Á. Ông bổ túc những điều nghi vấn hoặc bỏ sót của một số giả thuyết và đả phá mạnh mẽ hai sử gia Nguyễn Phương (Việt Nam) và Mộng văn Thông (Trung Hoa) với chủ trương của họ : Việt là Tàu và Tàu là Việt.

 

Tác giả Nguồn Gốc Mă Lai của Dân Tộc Việt Nam cũng dành ra 240 trang sách để viết về Dấu Vết Mă Lai Trong Xă Hội Việt Nam Ngày Nay qua các minh chứng:

 

a- Việc kính trọng trống đồng được sử gia Lê Quư Đôn ghi chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.

 

b- Về âm nhạc, trên thế giới hiện nay chỉ có ba dân tộc có cây đàn độc huyền, đó là dân Việt Nam, dân Mă Lai ở Indonesia, và dân Malayalam ở Nam Ấn.

 

c- Lối kiến trúc nhà chữ Đinh, mái nhà cong qướt lên, nhà bếp cách với nhà ở, ngói dẹp, nhà rầm.

 

d- Tự trị thôn xă và thần làng.

 

e- Thờ mặt trời và âm dương vật.

 

f- Đối chiếu chỉ số sọ:

 

‘‘Theo B.S. Huard và các cộng sự viên, cái sọ không phải chỉ có đặc sắc ở kích thước, mà các chi tiết về sinh vật h́nh thái (caractères morphologiques) rất có ư nghĩa quan trọng về mặt chủng tộc. Kết quả đối chiếu chỉ số sọ, ta biết bốn điều quan trọng:

 

-Sọ ta khác sọ Hoa Bắc và Hoa Nam rất nhiều về chỉ số và dung lượng.

-Sọ ta giống hệt sọ Mă Lai.

-Sọ ta có tánh cách brachycephale của Mă Lai trong khi đó đa số sọ người Hoa thuộc loại mesocephale.

 

Tất cả các dân mà tiền sử học nói là Mă Lai đều có sọ Mă Lai.’’

 

g- Ngôn ngữ tỹ hiệu: ‘‘Ngữ vựng của dân tộc nào cũng vay mượn lung tung, tuy nhiên các cuộc vay mượn c̣n để dấu thời gian lại. Nếu phải vay mượn của Tàu, th́ ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ư niệm phức tạp, những dụng cụ và vật dụng lạ, chớ không thể nào ta lại vay mượn một danh từ để chỉ Nước là chất mà ta uống hằng ngày và ta đă phải có tiếng gọi hàng ngàn năm rồi.

 

Hàng vạn tiếng Hán Việt đă thành h́nh đủ để làm một ngôn ngữ, nhưng không bao giờ thành ngôn ngữ cả v́ không ai mà nói chuyện với nhau bằng loại tiếng đó, các quan đại thần, các nhà trí thức nói chuyện với nhau cũng nói bằng tiếng Việt.’’

 

B́nh Nguyên Lộc đưa ra 200 biểu đối chiếu tiếng nói giống nhau của Việt Nam, Mường, Khả, Chàm, Ba Na, Thái, Cao Miên, Mă Lai Á, v.v…

 

5./ Ngôn Ngữ

 

Từ trước, đă có nhiều học giả nghiên cứu và đồng ư về sự tương đồng ngôn ngữ của các sắc dân trong vùng Đông Nam Á.

 

a- Giáo sư ngữ học Nguyễn Đ́nh Hoà trong một bài khảo luận Cần Đả Phá Một Vài Huyền Thoại Về Tiếng Việt, đă nêu lên ư chính:

 

‘‘Trước khi đi sâu thêm vào đề tài hôm nay, chúng ta cần đả phá một vài huyền thoại. Mấy người nước ngoài đă hỗn xược nói rằng tiếng Việt là một thổ ngữ của tiếng Trung Hoa. Họ quên rằng tiếng Việt, tiếng Nhật Bản, tiếng Cao Ly, chỉ là những ngôn ngữ đồng văn với Hoa ngữ v́ cả bốn đều xử dụng chữ Hán của Trung Quốc chứ bốn ngôn ngữ đó không có quan hệ thân tộc tức họ hàng ǵ với nhau cả. Ngày nay các nhà chuyên môn đă đồng ư rằng tiếng Việt và tiếng Mường là ngôn ngữ chị em thuộc ḍng Môn Khờ Me trong đại ngữ tộc Nam Á (Austroasiatic)’’.

 

b- Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng đă dành suốt cuộc đời nghiên cứu về ngôn ngữ cuả dân tộc, phát hành một công tŕnh biên soạn giá trị : Tự Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt (Vietnamese Cognatic Dictionary).

 

Bác sĩ Vọng giải thích: “Nhưng trên hết là, với 275 ngàn thí dụ đồng nguyên (cognatic correspondence) và hàng chục bản đồ ghi chỗ ở và nơi xuất phát cuả các dân tộc bộ lạc ở khắp vùng Đông Nam Á và bảng so sánh tiếng đồng nguyên cuả hàng chục ngôn ngữ Đông Nam Á với chừng 27 ngàn tiếng Việt cuả cả ba miền Bắc, Trung, Nam, để cho ai cũng thấy, người Việt cũng như người ngoại quốc, hiểu và ư thức được rất rơ ràng là tiếng Việt là tiếng Việt, không phải do Tàu mà ra, trái lại tiếng Việt là anh em họ hàng với bao nhiêu là tiếng nói khác ở Đông Nam Á, mặc dù qua hơn hai ngàn năm, cái chữ viết khác nhau cuả các thứ chữ ĐNA đă làm cho ta lầm tưởng là cái âm, cái tiếng, cái nghiă cuả các ngôn ngữ đó cũng khác nhau luôn ! Thật ra chúng nó đều giống nhau đến mức ngạc nhiên, sững sờ.”

 

Bác sĩ Vọng cũng nói thêm: “Nên biết rằng từ ngàn xưa, tiếng Việt đă được nói từ Động Đ́nh Hồ qua tới Ấn Độ chân núi Himalaya và xuống tới 10 ngàn ḥn đảo cuả Indonesia, theo các nhà ngữ học cuả gịng ngôn ngữ Austronesian.

 

Tiếng Mường là “tiền Việt”, giống nhau 95% với tiếng Việt. Tiếng Nùng, Thổ, Tày cũng lai 50% Thái Lào, 50% Việt mà đáng kể là họ dùng 100% tiếng Hán Việt.

 

Dân H’mong ở phiá Tây Nam hồ Động Đ́nh vẫn có khoảng 300 tiếng nói chung với dân Việt. Người Khasi ở chân núi Himalaya vẫn nói cả hàng trăm câu tiếng Việt xưa y hệt như chúng ta (mi shông h.ơ ni # tôi sống ở đây). Dân Indonesia và Malaysia (230 triệu) cũng có cả ngàn tiếng một y như tiếng Việt.

 

Tiếng Chăm có chung cả 3.500 từ ngữ thông thường giống với tiếng Việt miền Trung. Sao vậy? Là v́ tiếng Việt chung ḍng với tiếng Chăm đă từ mấy ngàn năm về trước chớ không phải chỉ có từ khi dân Việt mới biết đến dân Chàm, lại càng không phải chỉ mới từ khi Việt đánh nhau với Chàm.

 

c- Một sơ đồ khảo cứu ngôn ngữ trên thế giơí, nhan đề : ‘‘Language Families of the World’’ phát hành năm 1999 cuả hai giáo sư Joseph Greenberg và Meritt Ruhlen thuộc trường đaị học Stanford (California) đă sắp xếp tiếng Việt và Khmer vào nhóm Austroasiatic cùng ngữ tộc vơí các tiếng Tagalog, Malay, Javanese, Malagasy, Fijian, Samoan, Tahitian, Miaori, Hawaiian, Thai, Lao, Hmong, Miến, gồm 1175 ngôn ngữ và do 293 triệu ngướ xử dụng

 

6./ Văn Hóa Ḥa B́nh.

 

Nền văn minh cổ thời của người Đông Nam Á đă được Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư nhân loại học của trường Đại Học Hawaii đúc kết trong một bản nghiên cứu nhan đề: Ánh Sáng Mới Trên Một Quá Khứ Bị Quên Lảng (New Light On A Forgotten Past) với những minh chứng tích cực:

 

Trước hết giáo sư xác định, Đông Nam Á thời tiền sử gồm có hai phần. Phần thứ nhất là lục địa Đông Nam Á, trải dài từ núi Chin Ling phía Bắc sông Dương Tử đến Singapore và từ biển Nam Hải kéo về hướng Tây xuyên qua Miến Điện vào đến Assam. Phần kia gọi là Đông Nam Á hải đảo là một h́nh cung từ đảo Andaman phía Nam Miến Điện ṿng qua Đài Loan bao gồm Indonesia và Philippines.

 

Giáo sư và cộng sự viên đă làm công tác khai quật tại Non Nok Tha, một địa điểm biên giới Lào, Thái và đă t́m thấy nhiều di chỉ quan trọng:

 

Một mảnh gốm vỡ có dấu vết vỏ trấu của hạt lúa Oriza sativa và khi đem xác định niên đại bằng carbon được biết rằng chậm nhất là vào khoảng 3.500 năm trước công lịch. Như vậy hạt lúa này đă hiện diện tại đây hơn 1.000 năm trước các hạt lúa đă t́m thấy tại Ấn Độ và Trung Quốc đă được các nhà khảo cổ ngày trước cho rằng là hai nơi đầu tiên của thế giới biết dùng lúa gạo làm thực phẩm.

Một nông dân người Thái đào được một lọ gốm có h́nh vẽ giống như lọ gốm ở khu vực Udon Thani, Đông Bắc Thái Lan có niên đại 4.700 năm trước công lịch.

Những ṿng đồng hoen rỉ vẫn c̣n nằm trong xương cánh tay và xung quanh đó những cơ thể khác có ít hoặc không có trang sức, chứng tỏ rằng nơi đây đă h́nh thành một xă hội được tổ chức hoàn chỉnh từ thiên niên kỷ thứ hai trước công lịch.

Xác định niên đại bằng carbon, chúng ta biết rằng những ŕu bằng đồng được đúc bằng khuôn đôi bằng đá đă được chế tạo tại Non Nok Tha vào khoảng 3.000 năm trước công lịch. Như vậy, những dụng cụ bằng đồng này có sớm hơn 500 năm so với những dụng cụ bằng đồng t́m thấy tại Ấn Độ và 1.000 năm trước Trung Quốc. Những khuôn đúc h́nh chữ nhật được t́m thấy từng cặp, chứng tỏ rằng chúng được đặt sát nhau và những mănh vỡ của ḷ đúc và mẫu đồng vụn vươn văi đó đây làm chúng ta không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, nơi đây từ ngàn xưa là một xưởng chế tạo ŕu.

Những phần cơ thể trâu ḅ chôn theo những đám táng thời cổ sỏ tại Non Nok Tha được xác định là những gia súc tương tự với giống ḅ Á châu Zebu (Bos Indicus). Đây là sự t́m thấy về việc nuôi súc vật làm thực phẩm có sớm nhất tại vùng Đông Á.

Chester Gorman, một nghiên cứu sinh, tŕnh luận án tiến sĩ tại Đại học Hawaii đă t́m thấy ở Hang Tử Thần (Cave of Death) gần một con suối đổ vào sông Salween của Miến Điện, những phần của thực vật đă bị carbon hóa gồm có hạt đậu, hạt giẽ, hạt tiêu và những mẫu của quả bầu, quả dưa nằm vươn văi với những dụng cụ đồ đá kiểu mẫu Ḥa B́nh.

Những mẫu xương của súc vật bị chặt ra nhưng không bị đốt cháy khiến cho chúng ta nghĩ rằng thịt đă được nấu chín trong những ống tre tươi như người ta vẫn làm hiện nay ở vùng Đông Nam Á. Xác minh niên đại bằng carbon 14 cho thấy rằng các vật liệu này đă xuất hiện từ 6.000 năm đến 9.700 năm trước công nguyên.

Sau khi tŕnh bày thêm nhiều chi tiết khác nữa, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim đưa ra giả thuyết:

 

a- Đồng ư với Sauer rằng cây trồng dùng làm thức ăn được thực hiện trước tiên bởi cư dân của văn hóa Ḥa B́nh vào khoảng 15.000 năm trước công lịch.

 

b- Những dụng cụ bằng đá mài được t́m thấy ở Bắc Úc Đại Lợi, xuất hiện 20.000 trước công lịch, có nguồn gốc xuất phát từ văn hóa Ḥa B́nh.

 

c- Thay thế quan niệm cổ điển trước đây cho rằng những di dân từ phương Bắc đă đem những tiến bộ quan trọng đến vùng Đông Nam Á thời tiền sử bằng giả thuyết rằng nền văn hóa đồ đá mới của vùng Bắc Trung Quốc được t́m thấy ở Yangshao là do văn hóa Ḥa B́nh phát xuất từ Bắc Đông Á và di chuyển lên hướng Bắc vào thiên niên kỷ thứ 6 hoậc thứ 7 trước công lịch.

 

d- Những thuyền độc mộc được xử dụng trước tiên trên các sông ng̣i vùng Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ 5. Khoảng 4.000 năm trước công lịch, bộ giàn bằng cây gắn chung quanh thuyền được phát minh làm cho thuyền trở nên vững vàng hơn khi vượt biển, đă đưa đến những cuộc hải hành từ Đông Nam Á đến Đài Loan và Nhật Bản, du nhập vào đất Nhật cách trồng cây khoai sọ và một số hoa màu khác.

 

e- Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước công lịch, những cư dân Đông Nam Á thành thục xử dụng ghe thuyền đă đi vào quần đảo Indonesia và Philippines. Họ mang theo những kiểu mẫu nghệ thuật h́nh xoắn ốc, h́nh tam giác, h́nh chữ nhật dùng trang trí đồ gốm, khắc vào gỗ, xâm ḿnh, quần áo và dệt sợi. Đây là h́nh thể nghệ thuật tương tự với hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn.

 

f- Người Đông Nam Á cũng đi về hướng Tây, đến tận Madagasca vào khoảng 2.000 năm trước đây. Họ đă đóng góp một số cây trồng hữu ích đối với nền kinh tế Đông Phi châu.

 

g- Cũng vào thời ấy bắt đầu có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bằng đường biển làm phát triển ngành thương mại. Nhiều dụng cụ đồng thau khác thường xem như có nguồn gốc phát tích từ Địa Trung Hải đă được t́m thấy ở Đông Sơn.

 

7./ Stephen Oppenheimer và tác phẩm Thiên Đường ở Phương Đông : Lục Điạ Ch́m Đắm cuả Đông Nam Á ( Eden in the East : The Drowned Continent of Southeast Asia)

 

Lư thuyết chính yếu cuả tác phẫm là, lần đầu tiên đặt Đông Nam Á vào trung tâm cuả các nguồn văn hoá và văn minh.

 

a- Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9.000 – 10.000 năm về trước, cư dân vùng Đông Nam Á không chỉ là ngướ săn bắn và hái lượm ban sơ như giới khảo cổ Tây phương thường mô tả mà là những nhà nông chuyên nghiệp biết trồng luá nước, khoai lang, khoai sọ.

 

b- Dưạ vào yếu tố và dữ kiện điạ chất học, Oppenheimer cho rằng khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển dâng cao tràn ngập các vùng đất thấp làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giơí di tản khắp nơi, đến những vùng đất cao hơn để sinh tồn. Họ theo hướng Nam đến Úc Đaị Lơị, hướng Tây đến Ấn Độ và hướng Bắc vào vùng đất liền Châu Á. Trong cuộc di cư vĩ đaị nầy, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, tổ chức xă hôị đén cac vùng đất mơí. Những ngướ lánh nạn đaị hồng thuỷ nầy là những hạt giống cho nền văn minh lớn khác mà sau nầy được phát triễn ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai cập và Điạ Trung Hải.

 

c- Công tŕnh nghiên cứu cuả Oppenheimer c̣n dựa trên nguồn tá liệu khoa học đáng tin cậy, đó là khoa di truyền học và từ đó tác giả kết luận: ‘‘Tôi cho rằng nhiều ngướ phaỉ rớ bỏ Vùng duyên haỉ cuả họ ở phương Đông v́ lụt lôị. Những ngướ lánh nạn nầy đă vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây’’ .

 

Trong lănh vực di truyền học, tháng ba năm 2007, các nhà khoa học thuộc Đaị học Durham và Oxford cuả Anh quốc đă nghiên cứu DNA của heo rừng và heo nhà ở vùng Nam Thaí B́nh Dương và nêu giả thuyết mới về nguồn gốc cư dân các đảo ở vùng nầy .

 

Tiến sĩ Keith Dobney thuộc khoa khảo cổ Đaị học Durham cho biết đă tiến hành nghiên cứu loại gene ít bị biến đổi trên 781 con heo ngày nay và gene heo sống từ thớ xa xưa lấy được từ các Viện bảo tàng. Họ noí rằng do có môí liên quan gene rơ ràng giữa heo hiện nay ở Việt Nam và heo ở các đảo Sumatra, Java, New Guinea, New Oceania cùng nhiều đảo Nam Thaí B́nh Dương, nên họ cho rằng phần lớn các cư dân sống trên các đảo nầy có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không từ Đài Loan.

 

Tiến sĩ Greger Larson, tác giả chính cuả nghiên cứu, nhận xét rằng heo tuy bơi giỏi nhưng không đến mức có thể bơi đến tận Hawái. Như thế chúng phaỉ được ngướ di cư chuyên chở đến đó và đây là minh chứng tuyệt vời về hoạt động di cư cuả con ngướ. Theo ông, tổ tiên cuả các cư dân trên các ḥn đảo xa xôi đă rời Việt Nam cách đây vào khoảng 3.600 năm và họ đă đi qua nhiều ḥn đảo trước khi đến các đảo Nam Thaí B́nh Dương. Ông hy vọng nghiên cứu nầy sẽ mở ra một cửa sổ mơí về nguồn gốc cư dân vùng nầy .

 

8./ Giáo sư Cung đ́nh Thanh và tác phẩm T́m về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dươí Ánh Sáng Mơí của Khoa Học.

 

Song song vơí lư thuyết cuả Oppenheimer, taị Chương 8 viết về Nguồn Gốc Dân Tộc theo Cổ Sử Nhân Chủng và Khảo Cổ Học, giáo sư Cung đ́nh Thanh đưa ra kêt luận :

 

‘‘Khi nước biển đă đến thớ kỳ Flandrian, phù hợp với giai đoạn giăn băng cuôí cùng vào khoảng 18.000 năm trươc đây, cho đến lúc đồng bằng sông Hồng bắt đầu bị đe doạ th́ ngướ Cổ Vỉnh Phú một phần di cư lên bám trụ ở vùng Tây Bắc và vùng các hang động cao ở Hoà B́nh, phần khác, lớp có óc phiêu lưu hơn đă đi lên phiá Bắc qua hai ngả, một ngả đi qua Vân Nam đến Tứ Xuyên, Quế Châu, Thiểm Tây, một ngả đi theo ven biển phiá Đông lên đến Triết Giang, Giang Đông, Sơn Đông và gặp những vùng đất tốt mới, những môi trường thuận lợi, họ đă ở laị sinh sống, phát triển và từng nhóm họ đă tào lập ra những nước nhỏ mơí. Về sau chính những nước nhỏ nầy, khoảng 3.000 nươc, đă qui tụ laị để trở thành những nước lớn, sẽ tham dự vào việc tranh dành quyền làm chủ đất Trung Nguyên ở thớ Xuân Thu, Chiến Quốc (770 – 221 trước Kỷ Nguyên).

 

Khi nước biển bắt đầu rút và đồng bằng Vĩnh Phú từng bước bắt đầu được taí lập vào khoảng từ 6.000 năm trở laị đây, th́ laị thấy có sự hôị tụ những ngướ trở laị đồng bằng đó. Đó là bắt đầu cuả Văn Hoá Phùng Nguyên, cũng là thớ đại đồng thau và thớ kỳ thành lập ra nhà nước Văn Lang cuả Vua Hùng …

 

Khi ngướ Hoa Hán thống nhất đaị lục dươí triều Tần, Hán khiến những ngướ gốc Bách Việt không chịu đồng hoá phải rời bỏ Trung Nguyên. Bằng cớ nữa là có dấu ấn văn hoá phương Bắc góp phần xây dựng lên Văn Hoá Phùng Nguyên và nhà nước Văn Lang vậy. Đó là chưa kể đến cách đôí xử kỳ thị cuả các chính quyền Hoa Hán từ đời Tần về sau đôí vơí dân bản điạ gốc Hoà B́nh.’’

 

9./ Harold Wiens và tác phẩm Trung Quốc Tiến Quân Vào Vùng Nhiệt Đới (China’s March Toward The Tropics).

 

Thiên khảo luận nầy xây dựng trên chín Chương gồm trong 352 trang sách và 32 bản đồ phụ lục, chứa đựng những kiến thức uyên bác cuả một giáo sư đại học, Đaị học Yale.

 

Ngay tại Chương I, giáo sư Harold Wiens (1912-1971) đă nêu lên chủ đề dân tộc: “Người Hoa Hán phát triển văn hoá trong khu vực Hoàng Hà, mở rộng vào vùng Dương Tử và rồi đến Tây Giang. Họ chinh phục và xua đuổi, hoặc tiêu diệt hoặc đồng hoá những bộ lạc đang cư ngụ trên những b́nh nguyên cuả Dương Tử và Tây Giang (Nguyên văn: The Han-Chinese, developing their culture in the Huang-Ho region, expanded first into the Yang-Tzu and then in the Hsi-Chiang region, conquering, and driving out, or exterminating, or absorbing the tribes peoples occupying the Yang-Tzu and Hsi-River valley)”.

 

Trên cơ sở nầy, giáo sư khai triển đầy đủ các chứng tích, giải đáp thoả đáng các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hoá tồn tại xưa nay trong khu vực:

 

– Dân tộc nào đă chiếm lỉnh khu vực rộng lớn miền Nam Trung Quốc trước khi ngướ Hoa Hán (Han-Chinese) đến.

 

– Những yếu tố cơ bản nào làm nên những đợt sóng bất tận cuả ngướ Hoa Hán tràn về phương Nam, phủ ngập các cư dân bản địa và nền văn hoá cuả họ.

 

– Những ǵ đă xảy ra cho những sắc dân ở miền Nam Trung Quốc không thuộc giống ṇi Hoa Hán.

 

– Kẻ thống trị đă áp dụng kỹ thuật bành trướng đế quốc như thế nào để củng cố những phần đất chinh phục được ở phương Nam và đồng hoá những dân tộc không thuộc ḍng giống Hoa Hán.

 

– Những chướng ngaị về điạ lư, văn hoá, chính trị nào đă làm chậm bước tiến cuả chủ nghiă đế quốc Hoa Hán.

 

– Thực chất về môí liên hệ cuả chính quyền trung ương đôí vơí những quốc gia trong vùng Đông Nam Á có chung biên giớí và sự kiện nầy sẽ ảnh hưởng như thế nào vào khu vực Đông Nam Á.

 

– Cuối cùng, làm thế nào để ngăn chận sự bành trướng của người Hoa Hán vào vùng nhiệt đới.

 

Mặc dù được phát hành năm 1954 và chỉ c̣n lưu trử trong các thư viện, nhưng nôị dung cuả sách với những sự kiện lịch sử, địa lư, nhân chủng, văn hoá là những yếu tố đă có từ nhiều ngàn năm trước và liên tục hiện hữu cho đến ngày nay nên tác phẫm vẫn giữ được giá trị bền vững.

 

Riêng đôí với người Việt Nam chúng ta, đây là tài liệu tham khảo cần thiết v́ lư do sau khi rút quân khỏi các tỉnh biên giơí phiá Bắc năm 1979, Đặng tiểu B́nh – một lănh tụ hàng đầu cuả Trung Cộng – không kiềm chế được những cảm xúc sôi nổi, đă bộc lộ ẩn ức lịch sử giữa một cuộc họp báo : ‘‘Việt Nam là vấn đề hàng trăm năm, hàng ngàn năm đôí với Trung Quốc’’!

 

10./ Phạm việt Châu và tác phẩm ‘‘Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh’’

 

Tác giả Phạm việt Châu (1932-5/5/1975) xác định rơ ràng vị trí điạ lư, yếu tố văn hoá, chính trị, và lẽ sống c̣n cuả giống ṇi Bách Việt :

 

“Bàn tiếp đến cái mà chúng tôi goị là vị trí định mệnh, nếu đứng trên b́nh diện nhân văn, chúng tôi nghĩ đến caí ḷ pha trộn các món văn hoá, th́ đứng trên b́nh diện nhân chủng, chúng tôi laị nh́n thấy h́nh ảnh caí hồ lớn nằm kề lục điạ Đông Á để hứng lấy và bao bọc tất cả những bầy cá bị săn đuôỉ từ các ḍng suôí, ḍng sông tản lạc về; chúng tôi muốn noí tơí các bộ tộc Bách Việt qua nhiều đợt nam thiên dươí áp lực cuả Hán tộc.

 

Ngày nay, xét về xă hôị Người taị Đông Nam Á, những nhà nghiên cứu nhân chủng không khỏi ngạc nhiên khi thấy một khu vực có vẻ hỗn tạp nhất nếu nh́n thoáng qua bên ngoài, lại cũng là nơi tương đôí thuần nhất nếu đào sâu, bới rễ bên trong. Thật vậy, trừ những sắc dân cổ c̣n laị rất ít và khôí ngướ Trung Hoa mơí h́nh thành gần đây, tất cả thành phần dân số chính cấu tạo nên tập thể Đông Nam Á ngày nay đều bắt nguồn từ chủng tộc Bách Việt mà các nhà nhân chủng học Tây Phương khi phân loai thường goị là Indonesian hay Malay.

 

Vơí h́nh ảnh cái hồ, chúng tôi cũng nghĩ đến đoạn đường chót cuả cuộc hành tŕnh lịch sử. Thật vậy, chúng ta không c̣n đường nào, nơi nào để mà thiên di xa hơn nữa. Cửa ngỏ thế giơí đă khép laị trong khi áp lực từ phương Bắc, dươí h́nh thức nầy hay h́nh thức khác vẫn tiếp tục đè nặng xuống. Chúng tôi cũng không thể nghĩ khác hơn là ư nghĩ cuả người Thái, anh em ở bên kia bờ sông Cửu về cùng một mối lo chung cuả nhân dân ‘‘Trăm Việt trên Vùng Định Mệnh’’ nầy. Ư nghĩ ấy đă được cựu ngoaị trưởng Thaí, Thanat Khoman phát biểu : Không c̣n có chỗ nào cho chúng tôi lui thêm được nữa! Do đó vơí chúng tôi nơi đây là kháng điểm đầu tiên và cũng sẽ là kháng điểm cuối cùng !

 

Là kháng điểm cuối cùng, thật thế ! Cái ư nghĩ bi tráng ấy phải được cảm chiêu sâu sắc để từ đó khơi dậy ư thức đề kháng tự nhiên, chẳng riêng vơí Trung Hoa mà c̣n cả vơí các cường lực khác’’.

 

o O o

 

Loài ngướ tồn taị một cách ưu thế giữa các sinh vật khác nhờ vào khả năng t́m hiểu, suy luận. Từ nhân tính nầy con ngướ không thể chỉ ăn, ngủ, dửng dưng, vô cảm vơí những hiện tượng xảy ra chung quanh, v́ vậy họ đă h́nh thành các tôn giáo, hoặc lao vào khoa học để t́m sự giải đáp cho các câu hỏi : con ngướ từ đâu đến, đang làm ǵ, và sẽ đi về đâu?

 

Trường hợp một ngướ Việt Nam cũng mang niềm ưu tư đó vơí những chi tiết rơ rệt hơn: dân tộc chúng ta có nguồn gốc từ đâu, đang sinh sống như thế nào và rố tương lai sẽ ra sao, th́ bài viết nầy được xem như là sự nhắc nhở bước đầu. Con ngướ trong cuộc sinh tồn cũng như chiến binh khi lâm trận, ngoà́ những trang bị đầy đủ c̣n phải xác định vị trí xuất phát hay là điểm đứng cuả ḿnh để di chuyển không lạc lôí, phân biệt bạn thù.

 

nguon-gocVN_bachviet_Chienthangbachdang_nam938Những tranh luận sôi nôỉ, những biên khảo công phu về nhân chủng và văn hoá cuả Vùng Đông Á, Đông Nam Á đang được minh định bằng những dữ kiện phức tạp hoặc những khám phá mơí nhất, hầu hết đều đồng ư về một ranh giơí giữa Việt tộc và Hán tộc và sự cạnh tranh sinh tồn giữaViệt và Hán khởi sinh từ nhiều ngàn năm trước taị lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà. Các cư dân đă lập nên các quốc gia trong Vùng Đông Nam Á, các sắc tộc trong các khu tự trị taị Hoa Nam đều có chung một cội nguồn phát tích. Họ là những dân tộc trong Đaị Tộc Bách Việt.

 

Sự sinh tồn cuả Việt tộc trong thời tiền sử đang được tái hiện, phù hợp với nhu cầu cuả nhân loại, đánh trả mưu đồ bành trướng cuả Đế quốc Hoa Hán trong thời đại toàn cầu hoá. Hoa Kỳ và các quốc gia tiếp giáp với Thái B́nh Dương đă thoả thuận xây dựng một khu vực liên hiệp kinh tế rộng lớn bằng Hiệp Ước Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái B́nh Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) gọi tắt là TPP.

 

Khu Vực Hoá (Regionalisation) là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình Toàn Cầu Hoá (Globalisation). Vùng Đông Nam Á Châu văn minh, giàu manh, tự do, dân chủ là một trục quan trọng có đủ khả năng duy trì sự quân bình giữa các thế lực trên thế giới.

 

Các dân tộc Đông Nam Á kết hợp khắng khít với nhau như một liên minh Bách Việt, một chiến tuyến đa diện (kinh tế, văn hoá, chính trị, quốc phòng) sẽ chận đứng làn sóng chinh phục ồ ạt tiến về phương Nam một lần nữa cuả con cháu Tần Thuỷ Hoàng bằng bất cứ chiến pháp nào: đồng Yuan hoặc hạm đội.

 

Biển Đông Việt Nam thường được xem là nơi có nhiều nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới. Một vài khuôn mặt quốc tế gốc Trung Đông không phải Á Rập khuyến cáo Mỹ chia đôi Thái Bình Dương với Trung Cộng để giữ lấy hoà bình. Một sáng kiến quái đản và hèn hạ ! Giải pháp Đối Tác Chiến Lược Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương có tính nhân bản và ưu thế tất thắng.

 

Trong vận hội nầy, mỗi người Việt Nam gạt bỏ tất cả những vị kỷ, thành tâm tìm đến với nhau, tận tâm, tận lực cùng nhau xoay chuyển thời cơ, lật đổ bạo quyền cộng sản toàn trị hiện hành, xây dựng một chế độ tự do, dân chủ thật sự. Đời sống con người có giới hạn, nhưng Dân Tộc trường tồn là danh dự và là trách nhiệm cuả mỗi người Việt Nam.

 

Chúng ta, những ngướ Việt Nam trong lănh thổ từ Đồng Văn đến Cà Mau, từ đồng bằng đến miền sơn cước, ngướ Kinh, Thượng, Khmer, Chàm …gọi nhau là đồng bào với ư nghĩa chính xác, thiêng liêng và xúc động.

 

Thế Việt

 

 

T́m hiểu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam

 

 

Vương Sinh

 

 

*  Người Việt cổ phương Nam có chủng tính riêng, khác với người Hán phương Bắc

*  Đất nước Việt Nam thống nhất, bất khả phân.  Dân tộc Việt Nam đa số thuần nhất về tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán và cùng tự hào về một nền văn hiến rực rỡ lâu đời.

 

 

Tổng quát

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cổ, có thể đă xuất hiện rất sớm (theo truyền thuyết, vua Kinh Dương Vương trị v́ từ năm 2879 trước TL, như vậy đă có dân sinh sống trước thời gian này). Việt Nam là một nước thống nhất, mặc dù có những cuộc nội chiến chia cắt đất nước thành những vùng tranh chấp (nhưng người Việt Nam không hề coi những vùng phân chia tranh chấp này là những "nước" riêng biệt), như thời nhà Ngô (939-965) chuyển sang đời nhà Đinh (968-980) có loạn 12 sứ quân, chia nước thành 12 vùng tranh chấp (945-967), thời Trịnh Mạc phân tranh (hay Nam Bắc Triều - 1527-1592) các vùng tranh chấp thay đổi. Năm 1627 họ Trịnh và họ Nguyễn phân tranh, chia ra Đàng Trong và Đàng Ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới) và sau chót  thời chiến tranh Nam Bắc (1954-1975) lấy sông Bến Hải làm ranh giới.

 

Nước Việt Nam tuy có nhiều sắc dân sinh sống (54 sắc dân), nhưng dân tộc Việt (người Kinh) chiếm đa số (87%), 53 sắc dân c̣n lại chỉ là dân tộc thiểu số (13%).

T́m hiểu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, chính là sự t́m hiểu về gốc tích của dân tộc Việt chiếm đa số này.

 

Dân tộc Lạc Việt và Âu Việt: Theo Hậu Hán Thư, Địa lư chí, chép rằng: " Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên bảy tám ngh́n dặm, người Bách Việt  ở xen nhau, đều có chủng tính" (có phong tục tập quán riêng khác với người Hán). Sách Lộ Sử của La Tất đời Tống đă kê khai một số tộc Việt, trong đó có Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt...trong nhóm Bách Việt (Đào Duy Anh - Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời - in 2005 - tr. 20 - 21). Theo Lê Tắc trong "An Nam Chí Lược - in 2002 - tr. 70" th́ những người Giao Chỉ và người Bách Việt có tục vẽ ḿnh, bơi lội và chèo đ̣ giỏi, để đầu trần, đi chân đất, ngồi xếp bằng tṛn hoặc ngồi xổm, ưa ăn dưa mắm, tiếp khách th́ đăi trầu cau (con trai vẽ ḿnh, con gái nhuộm răng đen, mặc váy, áo tả nhậm)...Những phong tục này khác hẳn với phong tục người Hán (gọi chung là người Tàu = Chinese).

 

Theo Nguyễn Hiến Lê (Sử Trung Quốc - in 2003 - tr. 32 - 33), nước Tàu xưa kia chia làm 2 miền khí hậu khác nhau: Miền Bắc từ sông Dương Tử về phía Bắc (các nước Tần, Tấn, Tề, Vệ, Lỗ, Tống), khí hậu lạnh lẽo, đất khô cằn, nhiều đồng cỏ, dân sống về du mục (chăn ḅ, cửu, dê, trồng lúa ḿ, kê và nông phẩm chịu khô hạn). Miền Nam từ sông Dương Tử về phía Nam (Giang Nam, Lĩnh Nam...gồm các nước Sở, Ngô, Việt ... Bách Việt, Lạc Việt, Âu Việt...), khí hậu ấm áp (càng về phía Nam càng nóng và ẩm), cây cối xanh tốt, nhiều núi đồi, song rạch, mưa nhiều nên dân ở đây trồng lúa nước, đánh cá và nuôi gia súc... Do khí hậu và phong thổ khác nhau, cách ăn mặc khác nhau (y phục khác nhau), phong tục tập quán người Việt và người Tàu cũng khác nhau. Do vậy, những thuyết cho rằng nguồn gốc người Việt là do người Tàu di cư xuống miền Nam mà thành là không có căn cứ.

 

Theo truyền thuyết, vua Hùng thứ nhất lập ra nước Văn Lang chia làm 15 bộ, gồm có dân tộc Lạc Việt là chính, đóng đô ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên), tướng Văn là Lạc Hầu, tướng vơ là Lạc Tướng, con trai là Quan Lang, con gái là Mị Nương, các quan nhỏ là Bồ Chính. Quyền chính trị cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua Hùng truyền đến đời Hùng Vương thứ 18 th́ bị Thục Phán đánh bại. Thục Phán lên làm vua xưng là An Dương Vương (257-207 tr. TL), đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê ( nay là tỉnh Phúc An), xây thành Cổ Loa, trị v́ được 50 năm th́ mất nước.

 

Như vậy Lạc Việt là dân tộc Việt Nam thời thượng cổ.

 

Nguồn gốc người Việt Nam

Theo Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử Lược - in 1971 - tr. 5) nói về gốc tích người Việt Nam, đă nêu lên ư kiến của những nhà nghiên cứu người Pháp, cho rằng người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà xuống phía đông nam lập ra nước Việt Nam và người Thái theo sông Mê Kông xuống lập ra nước Tiêm La (Thái Lan).  Một thuyết khác cho rằng ngày xưa nước Tàu có giống Tam Miêu ở. Sau giống Hán tộc (người Tàu bây giờ) ở phía tây bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà, lập ra nước Tàu. Người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay xuống miền Việt Nam bây giờ.Cả hai giả thuyết này đều không nêu ra được chứng cớ rơ rệt nên không thể thuyết phục. Chính học giả Trần Trọng Kim cũng đă bác bỏ 2 giả thuyết này.

Ta thử xét qua 3 giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt theo sách "Địa Lư VN"  của tác giả Nguyễn Khắc Ngữ & Phạm Đ́nh Tiếu (in trước 1975 - tr. 118-121):

 

1- Thuyết Con Rồng Cháu Tiên :

 

Truyền thuyết kể rằng Đế Minh là cháu 3 đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam, lấy bà Vụ Tiên (giống Tiên) sinh ra Lộc Tục được làm vua phương Nam, tức Kinh Dương Vương (Đế Nghi là con trưởng làm vua phương Bắc). Vua Kinh Dương Vương lấy bà Long Nữ (giống Rồng), con gái chúa Động Đ́nh Hồ, sinh ra Sùng Lăm tức Lạc Long Quân (là con Rồng, cháu Tiên  -  theo họ mẹ và bà ngoại, v́ thời đó theo chế độ mẫu hệ). Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra một trăm con, 50 con theo mẹ lên rừng (phía Quảng Tây và Bắc Việt Nam ngày nay), 50 con xuống biển Nam Hải (tức vùng Quảng Đông - kinh đô là Phiên Ngung).

 

Nhận định về thuyết này ta thấy có nhiều điểm mang tính thần thoại, nhất là về thời gian không rơ rệt. Hơn nữa, thuyết này nói rất mơ hồ về t́nh trạng Đế Nghi làm vua phương Bắc là vua những nước nào? Có phải nước Tàu ngày nay không? Hay chỉ làm vua ở phía Nam sông Dương Tử của nước Tàu thời bấy giờ (như nước Sở, Ngô, Việt?) nhưng là phương Bắc đối với Động Đ́nh Hồ? Lại nữa, cháu ba đời vua Thần Nông là Thần Nông nào? Truyền thuyết Trung Hoa cũng nhận Thần Nông là những ông vua đầu tiên của họ, tức Tam Hoàng, Ngũ Đế? Thuyết "Con Rồng Cháu Tiên" chỉ nói về nguồn gốc các vị vua đầu tiên của nước Việt cổ (Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, các vị vua Hùng), mà không đề cập đến nguồn gốc dân tộc Việt (Lạc Việt). Làm vua một nước đương nhiên phải có dân.

Mặc dù vậy, về một vài địa danh như Động Đ́nh Hồ, Ngũ Lĩnh, Nam Hải...là có thật.

 

 

2- Thuyết Bách Việt :

 

Do học giả người Pháp (ông Aurrousseau) nêu ra, cho rằng người Việt là con cháu của nước Việt (nước Việt - Câu Tiễn) miền Chiết Giang bên Tàu, từ thế kỷ thứ VI tr. CN. Đến thế kỷ thứ V, Việt Vương Câu Tiễn mở rộng đất đai về phía Bắc đến tận Giang Tô và Sơn Đông. Sau Câu Tiễn mất, con cháu không giữ được đất, đến thế kỷ thứ IV th́ phải rút về đất cũ ở Chiết Giang. Năm 333 tr. CN, nước Việt bị nước Sở chiếm, người Việt phải bỏ chạy về phía Nam, tập hợp thành nhiều bộ lạc, gọi là Bách Việt. Nhận định về thuyết này, việc thành lập giống dân Bách Việt được giải thích khá hợp lư. Tuy nhiên không giải thích được t́nh trạng dân cư đă có sẵn ở Quảng Đông, Quảng Tây (đất Bách Việt) và Bắc Việt Nam trước khi giống Việt (của nước Việt Câu Tiễn) tràn xuống phía Nam.

 

3- Thuyết thứ 3 căn cứ vào "Nhân chủng học":

 

a- Đào sâu dưới đất ở Thanh Hóa, Ḥa B́nh, Bắc Sơn -  kiếm thấy sọ người rồi mang so sánh, thấy ở lớp sâu nhất là sọ các giống da đen (Négritos), Mélanésiens, và Úc - Australlens.

 

b- Đào lớp đất thứ nh́, ít sâu hơn thấy sọ các sắc dân di cư đến gồm dân Indonésiens.

 

c- Loại thứ ba gồm giống đến sau nữa là giống Mông Cổ.

 

d- Loại thứ tư là là sọ lai các giống nói trên.

 

Ngoài ra, xét về ngôn ngữ, tiếng Việt đơn âm, giống tiếng Mường, Thượng Tây Nguyên, Chàm và Indonesiens.

 

Về văn minh (vẽ ḿnh, nhuộm răng, theo chế độ mẫu hệ)  là nền văn minh Hải Đảo từ Mă Đảo (Madagascar) đến miền Bắc Nhật Bản.

 

Thuyết này kết luận, giống dân đầu tiên trên dải đất ta (?) là giống da đen Négritos, Mélanésiens và Úc. Sau đó có giống Indonésiens ở phía Nam tiến lên và giống Mông Cổ từ phía Bắc tràn xuống. "Các sắc dân này đồng hóa với nhau tạo thành giống Việt Nam chúng ta ngày nay" (?).

 

Nhận định về thuyết này, theo thiển ư thấy có vẻ khoa học và đáng tin cậy. Tuy nhiên, việc khảo cứu (đào đất t́m sọ) chỉ giới hạn ở một số địa điểm (như ở các tỉnh Thanh Hóa, Ḥa B́nh, Bắc Sơn - đa số ở vùng cao - rồi mang suy diễn ra cho toàn vùng Bắc và Trung Việt ngày nay, e rằng c̣n nhiều thiếu sót? Hơn nữa, chỉ đào sới ở đất Bắc Việt rồi mặc nhiên kết luận đó là nước ta (?) thời thượng cổ, có vẻ khiên cưỡng chăng? Ta sẽ tự hỏi, thế c̣n vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây th́ sao?  Theo cổ sử và sách địa lư Trung Quốc  đều xác nhận vùng này thời thượng cổ đă có giống Việt ở, mang cùng chủng tính (vẽ ḿnh, nhuộm răng, ăn trầu...), khác với giống dân phương Bắc nước Tàu sinh sống rồi? Tại các Hải Đảo như Mă Đảo Madagascar) có cuộc đào sới t́m sọ người và nghiên cứu tương tự hay không? Biết đâu dân ở Hải Đảo chính là dân ở đất liền (vùng Nam Hải - Quảng Đông hoặc Bắc Việt) đă đến đó ở từ trước, sau đó mới trở lại đất liền?  Như vậy việc nghiên cứu cần phải được thực hiện rộng răi hơn nữa, chưa thể vội kết luận người Việt Nam là một giống "tạp chủng" (lai tùm lum từ nhiều sắc dân đến cư ngụ, kể cả da đen, Mông Cổ, Indonésien, Úc...).

 

Kết luận

Đă đành, dân tộc nước nào cũng không thể tránh được sự giao giống nhiều đời của nhiều dân tộc khác nhau sống chung trên cùng một mảnh đất. Nói cách khác, hiếm có dân tộc nào thuần chủng đến 100% cả? Tuy nhiên, từ thời thượng cổ, mỗi giống dân đều có một số đặc điểm phân biệt với dân tộc khác, nghĩa là có một chủng tính cá biệt của dân tộc. Thí dụ người Việt Nam ngày nay rất hănh diện về một số đặc điểm như tinh thần bất khuất chống ngoại xâm, có tiếng nói riêng và phong tục tập quán riêng, không thể lẫn lộn với người Tàu, người da đen, người Úc Châu, Mông Cổ  hay bất cứ sắc dân nào trên thế giới. Người Việt Nam là ... người Việt Nam thuộc giống Lạc Việt, nhận Tiên Rồng là những h́nh ảnh oai hùng cao đẹp của những vị vua đầu tiên (Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, mười tám đời vua Hùng). Nhân đây cũng xin nói thêm ư nghĩa "Con Rồng Cháu Tiên" không có nghĩa là các vị vua Lạc Long Quân hay bà Âu Cơ trực tiếp sinh ra dân tộc Việt Nam, tương tự chúng ta vẫn thường nhận là "con cháu Bà Trưng, Bà Triệu". Đó chỉ là những vị vua đầu tiên, đă dẫn dắt dân tộc Lạc Việt tức dân tộc Việt Nam ngày nay đến chỗ quang vinh, không bị người Tàu đồng hóa như nhiều dân tộc khác.

Tổ Tiên chúng ta thật oai hùng, bất khuất, mặc dù phải sống tiếp cận với nhà cầm quyền "Đại Hán" hàng ngàn năm và bị cai trị hàng ngàn năm khác bởi các Triều đ́nh Phong Kiến phương Bắc đầy tham vọng "bá quyền" và tham lam tàn ác như ta thấy trong lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay, nhưng các Ngài vẫn dẫn dắt dân tộc Việt đứng vững riêng một cơi phương Nam, không bị đồng hóa thành người Tàu. Đó là niềm hănh diện và biết ơn sâu xa của  chúng ta vậy.

 

Vương Sinh

Sách tham khảo

- Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim (quyển 1)

 

- Địa Lư Việt Nam -  Nguyễn Khắc Ngữ & Phạm Đ́nh Tiếu

 

- Sử Trung Quốc - Nguyễn Hiến Lê

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Hoàng Hải Thủy

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten