Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

  

Ngày tàn của phát xít Nhật

Posted on 10/08/2015 by The Observer

 

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

 

 

 

Phát xít Nhật trước nguy cơ buộc phải đầu hàng

 

Chiến tranh Thái B́nh Dương nổ ra lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941 (giờ Hawaii), khi Nhật không tuyên chiến mà bất ngờ tập kích Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) trên đảo Hawaii, đánh ch́m và làm hỏng 19 tàu chiến và diệt 2.300 lính Mỹ.

 

Cú đánh trộm này gây thiệt hại chưa từng thấy cho nước Mỹ, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt gọi ngày 7 tháng 12 ấy là “một ngày ô nhục”. Hành động vô liêm sỉ của chính phủ Nhật đă kích động ḷng căm phẫn sâu sắc của toàn dân Mỹ. Quốc hội Mỹ nhanh chóng nhất trí từ bỏ lập trường biệt lập không can dự vào công việc của các nước khác, chuyển sang chủ trương kiên quyết chống phát xít Nhật.

 

Ngày 8 tháng 12, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt ra trước cuộc họp Quốc hội tuyên bố Mỹ tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau ông tuyên chiến với Đức và Ư.

 

Mỹ trở thành nước đồng thời chiến đấu trên cả hai mặt trận châu Âu và châu Á. Nước Nhật dại dột “đánh thức gă khổng lồ Mỹ” – như lời ta thán của chính đại tướng Tổng chỉ huy Hạm đội Liên hiệp Nhật Yamamoto, người vạch chiến dịch tập kích Trân Châu Cảng. Viên tướng này từng học ở Mỹ nên biết rất rơ tiềm lực kinh tế và quân sự cũng như khoa học kỹ thuật của Mỹ, ông tin rằng Nhật không thể nào thắng nổi Mỹ. Phát biểu này khiến ông bị giới quân phiệt Nhật gọi là “Nhật gian” và đ̣i xử tử.

 

Do giữ quan điểm mơ hồ về quân phiệt Nhật nên trong một thời gian dài Mỹ thiếu chuẩn bị chiến đấu với Nhật, năm 1941 trên vùng Thái B́nh Dương Mỹ chỉ có 3 tàu sân bay, 9 thiết giáp hạm, 22 tàu tuần dương và 54 tàu khu trục; trong lúc đó phía Nhật tương ứng có 10, 10, 38 và 113 tàu, v́ vậy quân đội Mỹ ban đầu phải rút lui chiến thuật.

 

Quân đội Nhật thừa thắng “Nam tiến”, chiếm hầu hết Đông Nam Á và nhiều cứ điểm quan trọng của Mỹ, các thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan ở Thái B́nh Dương, tiến sát tới châu Úc.

 

Tuy thế Mỹ cũng kịp thời giáng trả Nhật một số đ̣n đau, như ngày 18 tháng 4 năm 1942, phi đội máy bay B-25 của trung tá Doolittle cất cánh từ tàu sân bay đột nhập ném bom Tokyo, làm rung chuyển cả nước Nhật. Trong trận hải chiến tại đảo Midway hồi đầu tháng 7 cùng năm, hải quân Mỹ lần đầu tiên đánh ch́m tàu sân bay Nhật, kết thúc chuỗi trận bất bại của Nhật.

 

Chính phủ Mỹ nhanh chóng tổng động viên toàn dân tham gia chiến tranh, chuyển ngành công nghiệp khổng lồ của họ sang thực hiện nhiệm vụ sản xuất và cải tiến vũ khí, tăng cường lực lượng quân đội. Chi phí quân sự từ 4,5 tỷ USD năm 1941 tăng lên 20 tỷ năm 1942 và 38 tỷ USD năm 1943, hơn hẳn Nhật (2,0; 3,0; 4,5 tỷ USD). Số lượng và chất lượng các loại vũ khí Mỹ đều tăng vượt bậc. Năm 1944, Mỹ sản xuất được hơn 35 ngh́n máy bay, so với 11 ngh́n của Nhật. Đặc biệt Mỹ thiết kế chế tạo được nhiều thế hệ máy bay, tàu chiến mới có tính năng tốt hơn của Nhật. Mỹ c̣n viện trợ rất nhiều vũ khí và trang bị quân sự cho các nước Đồng Minh kể cả Liên Xô, theo h́nh thức viện trợ cho vay-thuê (Lend-Lease aid), sau chiến tranh mới phải trả nợ. Nếu không có nguồn vũ khí tiên tiến và số lượng cực nhiều do nước Mỹ nghiên cứu thiết kế chế tạo và viện trợ th́ chưa rơ Thế chiến II sẽ ra sao.

 

Nhờ đó lực lượng Mỹ dần dần mạnh lên và từ cuối 1943 bắt đầu giành thế chủ động. Từ 1944, Mỹ phản công toàn diện, chiếm lại các đảo Saipan (7/1944), Guam, Tinian (8/1944) thuộc quần đảo Marianna ở phía Đông Phillippines. Sau đó Mỹ xây sân bay để từ các đảo này, cũng như từ Trung Quốc, pháo đài bay 4 động cơ kiểu B-29 thực hiện ném bom chiến lược chính quốc Nhật, phá huỷ các cơ sở sản xuất và căn cứ quân sự khiến cho Nhật ngày càng thiếu vũ khí, trang bị.

 

Sau khi mất quần đảo Marianna, tinh thần chiến đấu của quân Nhật sa sút hẳn, nhiều người Nhật đă nghĩ tới thất bại. Từ khi máy bay Mỹ thường xuyên ném bom, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất công nghiệp và vũ khí trên chính quốc Nhật bị thiệt hại ngày càng nặng.

 

Trước t́nh h́nh thiếu máy bay và tàu chiến, Bộ Thống soái Nhật quyết định áp dụng chiến thuật đánh bom tự sát bằng máy bay, tầu ngầm mi-ni và ngư lôi người lái. Chiến thuật mới này đă gây khó khăn và thiệt hại lớn cho Mỹ, nhưng cũng rất bất lợi cho Nhật v́ mất gần hết phi công, trong khi Nhật đang thiếu phi công và việc đào tạo một phi công lâu hơn việc chế tạo một máy bay. Trong trận Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa, Nhật dùng 193 máy bay cảm tử (Kamikaze) tấn công hạm đội Mỹ, có 169 chiếc bị pháo pḥng không và máy bay Mỹ bắn rơi, chỉ c̣n vài chục chiếc lao trúng mục tiêu.

 

Tổng cộng đă có hơn 2.200 phi công Kamikaze chết, đây là một thiệt hại không thể bù đắp được. Sau đó máy bay Nhật không c̣n có thể cất cánh được nữa, máy bay Mỹ càng tự do khống chế bầu trời, bắn phá, ném bom bất cứ mục tiêu nào có quân đội Nhật.

 

Ngày ngày hàng ngh́n máy bay Mỹ bay sang 4 ḥn đảo chính quốc Nhật, ném bom rải thảm xuống các đô thị, chủ yếu dùng bom cháy nhằm gây tâm lư sợ hăi cho dân Nhật, v́ hầu hết nhà ở của người Nhật đều là nhà gỗ, dễ bắt lửa và cháy lan ra xung quanh. Mỹ thường ném bom ban đêm, lửa cháy sáng rực trời càng gây hiệu quả tâm lư, vả lại ban đêm khó cứu chữa, sáng ra chỉ c̣n lại cảnh hoang tàn trông cực kỳ bi thảm.

 

Hầu như toàn bộ các nhà máy quân sự đều trúng bom, 64 đô thị thành đống tro tàn. Riêng cuộc ném bom rải thảm Tokyo hai ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1945 đă làm 100 ngh́n người chết cháy. Máy bay ném bom kiểu mới là siêu pháo đài bay B-29 bay rất cao, máy bay tiêm kích Nhật (lúc đó đă bị diệt gần hết) và pháo cao xạ Nhật không với tới, từ độ cao an toàn ấy máy bay Mỹ tha hồ yên tâm rải bom xuống mà Nhật không làm ǵ được.

 

Ngày 7 tháng 5 năm 1945, nước Đức phát xít đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Châu Âu im tiếng súng. Thất bại của Đức báo trước nước Nhật quân phiệt cũng sẽ nhanh chóng hứng chịu kết cục nhục nhă như vậy.

 

Nhưng phát xít Nhật vẫn điên cuồng chống trả Đồng Minh. Mặt trận châu Á-Thái B́nh Dương vẫn ầm vang bom đạn.

 

Tháng 6, Nội các Nhật họp, phái chủ chiến chiếm đa số quyết tâm “Bản thổ quyết chiến” (quyết chiến trên đất nước ḿnh), “chiến đấu đến người Nhật cuối cùng”.

 

Thiên Hoàng Hirohito im lặng trước quyết định đó. V́ thế nhân dân Nhật và thế giới tiếp tục phải đổ máu vô ích.

 

Lúc này đảo Okinawa cách đất liền 350 dặm về phía Nam đă bị Mỹ chiếm (4/1945). Trên đất Nhật, 2,25 triệu lục quân và 1,25 triệu hải quân chủ yếu lo cố thủ trước tin Mỹ sắp đổ bộ vào Nhật. Ngoài ra c̣n khoảng 3,5 triệu quân Nhật đóng ở Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và một số đảo trên Thái B́nh Dương. Nghĩa là lực lượng Nhật vẫn c̣n rất mạnh, Bộ Chỉ huy Tối cao Đồng minh không thể coi thường.

 

Ngày 16 tháng 7 năm 1945, Mỹ thử thành công bom nguyên tử. Hôm sau, Truman, Churchill và Stalin hội đàm tại Potsdam gần Berlin để bàn về tương lai nước Đức.

 

Đồng thời, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ J. C. Gore và Bộ trưởng Lục quân H. L. Stimson dự thảo Tuyên ngôn Potsdam về vấn đề ép Nhật đầu hàng vô điều kiện để chuẩn bị tŕnh nguyên thủ Mỹ, Anh, Trung Quốc kư (về sau Liên Xô cũng kư Tuyên ngôn này).

 

Ngay từ tháng 5, Gore đă kiến nghị với Tổng thống Truman là chỉ cần Tuyên ngôn này đưa ra tiền đề Nhật có thể được phép giữ lại chế độ Thiên Hoàng, th́ chắc chắn Nhật sẽ chấp nhận đầu hàng ngay. Thiên Hoàng là thống soái tối cao của quân đội Nhật; xưa nay hoàng tộc Thiên Hoàng được dân Nhật coi là ḍng dơi thần thánh không thể bị tiêu diệt; Thiên Hoàng bị diệt nghĩa là nước Nhật bị diệt.

 

Thế nhưng hồi ấy dư luận Mỹ và đa số quan chức trong Chính phủ Mỹ đều đ̣i đưa Thiên Hoàng ra xét xử tội ác chiến tranh, phản đối giữ lại chế độ Thiên Hoàng. Stimson đành đề nghị Truman dùng h́nh thức phi chính thức để truyền đạt cho phía Nhật biết ư định nói trên của Mỹ.

 

Ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật.

 

Điều 13 của Tuyên ngôn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”.

 

Sakomizu, Chánh Văn pḥng Chính phủ Nhật nhớ lại t́nh h́nh lúc ấy:

 

Nhà đương cục phía ta thận trọng nghiên cứu từng câu từng chữ của Tuyên ngôn này, và tôi xin nói thẳng ra là lúc ấy đă đi đến kết luận ta chỉ có thể dùng nó để làm cơ sở chấm dứt chiến tranh, ngoài ra không c̣n cách nào khác. Bộ trưởng Ngoại giao ta c̣n bàn chuyện phải chăng hội nghị Chính phủ nên thừa nhận như vậy…

 

Thế nhưng Bộ trưởng Lục quân lại chủ trương “Ta đang nhờ Liên Xô làm trung gian để điều đ́nh [với Mỹ], nay đang chờ trả lời, do đó nên chờ bao giờ có hồi âm th́ hăy quyết định làm ǵ.”

 

Thế là mọi người quyết định chờ đợi, nói cách khác, trước khi có hồi âm th́ ta không tỏ thái độ ǵ về bản Tuyên ngôn này.  [Sakomizu : “Sự thật của việc ngừng chiến”, 1989]

 

Chính phủ Nhật đă phạm một sai lầm căn bản khi định nhờ Liên Xô làm trung gian đàm phán với Mỹ. Họ muốn ǵ từ Liên Xô?

 

 

 

H́nh: Quân đội Mỹ đổ bộ vào Okinawa. Nguồn: Theatlantic.com

 

- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/08/10/ngay-tan-cua-phat-xit-nhat-p1/#sthash.3RQmPEHK.dpuf

 

 

Ảo tưởng nhờ Liên Xô làm trung gian điều đ́nh với Mỹ

 

Quả thật, từ đầu tháng 7 năm 1945, Chính phủ Nhật đă nhờ Liên Xô làm trung gian điều đ́nh để hoà giải với Mỹ, dựa trên cơ sở Hiệp ước Bất tương xâm Nhật-Xô (kư 13/4/1941) đến tháng 3 năm 1946 mới hết hạn.

 

Về chuyện này, Thiên Hoàng Nhật Hirohito nhớ lại:

 

Sở dĩ phải chọn Liên Xô làm trung gian là v́ các nước khác đều yếu, nếu có đứng ra điều đ́nh th́ cũng bị Mỹ, Anh áp chế, do đó dẫn đến việc đầu hàng vô điều kiện bất lợi. Liên Xô vừa có thực lực lại có t́nh nghĩa kư hiệp ước bất tương xâm với ta. Tóm lại có hai lư do như vậy…

 

Song rất khó nhận định Liên Xô là một nước có ư định chân thành, bởi thế trước tiên phải thăm ḍ thực hư. Chúng tôi quyết định triển khai cuộc hội đàm Koki Hirota [cựu Bộ trưởng ngoại giao Nhật] với Yakov A. Malik [Đại sứ Liên Xô tại Nhật] với nội dung: chỉ cần họ chịu xuất khẩu dầu mỏ cho ta th́ cho dù ta phải biếu đảo Nam Kurin và Măn châu cho họ cũng được…

 

Thế nhưng cho tới thượng tuần tháng 7, phía Liên Xô vẫn bặt vô âm tín. Mà tôi th́ cần phải làm xong các việc liên quan trước khi hội nghị Potsdam bắt đầu [lănh đạo thượng đỉnh Mỹ, Anh, Liên Xô họp tại Potsdam từ 17/7 tới 2/8], nếu để chậm trễ th́ sẽ rất bị động. Thế là tôi bàn với Suzuki [Thủ tướng Nhật], quyết định chấm dứt cuộc hội đàm Hirota-Malik và trực tiếp giao thiệp với Chính phủ Liên Xô.

 

Việc này liên quan đến chuyện cử ai đi Moskva. Về đại thể đă kết luận Konoe [cựu Thủ tướng Nhật] là thích hợp, nhưng sợ Konoe không nhận, nên tôi quyết định trực tiếp gặp ông ta nói chuyện… Đầu tháng 7 tôi gọi Konoe đến và nói với ông ta là nhiệm vụ này khó khăn đấy, nhưng đề nghị ông nhất định phải gắng hết sức mà làm.

 

Konoe nói dù phải chết cũng làm và nhận quyết định ấy.

 

[Hirohito : “Tự bạch của Thiên Hoàng Showa”, 1995].

 

Nhưng rồi việc cử người đi Liên Xô bị đ́nh lại v́ ngày 9 tháng 7, các đại thần Arita và Kido đề nghị nhà vua nên trực tiếp giảng hoà với Mỹ, Anh.

 

Tuy vậy Thiên Hoàng Hirohito vẫn cố chấp nhờ Liên Xô môi giới điều đ́nh, v́ thế cho tới ngày 26 tháng 7, Bộ trưởng Lục quân Anami, một trong những phần tử hiếu chiến nhất, đă mượn cớ nhà vua có chủ trương như vậy để cố ư tŕ hoăn việc chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam.

 

Thật ra, sau khi thấy Đức đầu hàng và Liên Xô tập kết quân đội sang Viễn Đông, tướng Anami cho rằng việc nhờ Liên Xô làm môi giới đàm phán với Mỹ, Anh cũng là một thượng sách để Nhật tránh chạm trán với Liên Xô.

 

Ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố trên toàn thế giới. Hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật được máy bay Mỹ rải xuống khắp đất Nhật, không người dân Nhật nào không biết nội dung bản Tuyên ngôn này.

 

Điều 13 Tuyên ngôn Potsdam viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”.

 

Mệnh lệnh Nhật phải đầu hàng vô điều kiện đă ban ra; không hàng có nghĩa là nước Nhật tự chọn con đường huỷ diệt nhanh chóng hơn, bi thảm hơn.

 

Nhưng dưới sức ép của nhà vua và quân đội, Thủ tướng Suzuki đă không trả lời yêu cầu của Tuyên ngôn Potsdam.

 

Bè lũ quân phiệt Nhật cực kỳ hiếu chiến đă đánh giá sai lầm lập trường chống phát xít của Liên Xô, do đó mà kỳ vọng vào sự “trung gian hoà giải” của chính phủ Liên Xô. Hành động mù quáng đó tương phản với hành động có lư trí của các cộng sự của Hitler như Goering, Himmler …, khi thấy rơ Đức chắc chắn thua, lũ người này đă chủ động giấu Hitler tự đi t́m con đường đàm phán với Đồng Minh để cứu nước Đức đỡ thất bại thảm hại hơn, dân Đức đỡ chết nhiều hơn, dù biết chắc ḿnh sẽ không thoát khỏi án treo cổ khi chiến tranh kết thúc.

 

Ba vật thiêng của Hoàng tộc Nhật Bản

 

Theo giáo sư Komori ở đại học Tokyo, lư do chủ yếu nhất của việc Nhật tŕ hoăn chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam là Thiên Hoàng Hirohito chỉ lo làm sao “giữ được thể chế Thiên Hoàng” (“quốc thể”) và giữ được “Ba vật thiêng” của Hoàng tộc.

 

Ba vật thiêng đó là: một tấm Gương Bát Xích (vật tượng trưng cho tinh thần của Hoàng tộc, được thờ ở đền Ise), một thanh Thảo Thế Kiếm (tức gươm trừ cỏ, c̣n gọi Thiên Tùng Vân Kiếm) và một viên Ngọc Bát Xích Quỳnh Câu thờ ở hai ngôi đền khác. Đây là 3 vật báu có tính thần thoại của Nữ thần Mặt Trời Amaterasu, tương truyền là tổ tiên dân tộc Nhật Bản.

 

Thiên Hoàng lo các vật thiêng này bị phá huỷ, v́ hôm 24 tháng 7, bom Mỹ suưt rơi trúng đền Ise. Cố vấn của nhà vua là Koichi Kido nhớ lại ông đă “tấu” lên Thiên Hoàng như sau:

 

Hiện nay phía quân đội đề xuất “bản thổ quyết chiến”, kêu gọi đánh một trận quyết chiến thật lớn để xoay chuyển t́nh h́nh, nhưng theo kinh nghiệm thời gian qua, mọi người khó có thể tin vào chủ trương này. Nếu trận này thất bại, kẻ địch sẽ nhảy dù xuống khắp nước, Bộ Thống soái tối cao sẽ bị bắt làm tù binh.

 

Cho nên vấn đề cần thận trọng xem xét hiện nay là làm ǵ để giữ ǵn chu toàn 3 vật báu. Nếu không, sẽ để mất biểu tượng Hoàng tộc 2.600 năm nay, cuối cùng thể chế Thiên Hoàng cũng khó có thể giữ được. Cho nên thần tin rằng việc hoà giải là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.

 

[Koichi Kido : “Nhật kư của Kido”, 1966].

 

Ngày 31 tháng 7, nhà vua nói với Koichi Kido:

 

Sau khi cân nhắc nhiều mặt, cuối cùng Trẫm cho rằng vẫn cứ nên chuyển các vật thiêng về bên cạnh Trẫm. Có điều, khi ta động đến các báu vật ấy tất sẽ ảnh hưởng đến ḷng người. Cho nên Trẫm nghĩ là cứ nên thận trọng th́ hơn.

 

Ngày nào Trẫm cũng nghĩ đến việc nếu chỉ dựa vào chủ ư của một ḿnh Trẫm mà động đến các vật thiêng ấy th́ hậu quả sẽ ra sao? Cho nên Trẫm đang nghĩ, nên chuẩn bị thế nào về tinh thần để có thể làm tốt việc di chuyển các vật ấy đến Shinsu [một vùng núi thuộc huyện Nagano].

 

Việc này mong nhà ngươi bàn kỹ với Chánh văn pḥng Hoàng cung. Cũng nên bàn với Chính phủ rồi hăy quyết định. Trầm nghĩ: nếu có ǵ bất trắc th́ Trẫm đành kiên tŕ bảo vệ và cùng sống cùng chết với các vật thiêng ấy.

 

[“Nhật kư của Kido”].

 

Trong giờ phút “ngàn cân treo sợi tóc” ấy, khi mà ngày nào cũng có hàng ngh́n dân Nhật chết v́ bom rải thảm của quân đội Đồng Minh, Thiên Hoàng Nhật Bản không hề lo nghĩ ǵ đến tính mạng của dân chúng và hàng triệu binh lính Nhật, mà chỉ ích kỷ lo giữ ngôi báu của ḿnh và mấy “vật thiêng” tổ tiên để lại, v́ thế mà lần chần bỏ qua dịp trả lời yêu cầu của Tuyên ngôn Posdam. Hành động ấy đă khiến phía Đồng Minh đi tới nhận định cho rằng nước Nhật quyết chiến đến người cuối cùng, và Tổng thống Mỹ không thể không cân nhắc biện pháp đáp trả.

 

Quyết định tối hậu của Tổng thống Truman sẽ mang lại hậu quả khủng khiếp ra sao?

 

- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/08/11/ngay-tan-cua-phat-xit-nhat-p2/#sthash.2XQ7mMnb.dpuf

 

 

Quyết định cuối cùng của Tổng thống Mỹ

 

Một tuần đă qua mà không thấy phía Nhật có phản ứng ǵ về Tuyên ngôn Potsdam, Tổng thống Truman vô cùng đau đầu. Ông muốn Nhật đầu hàng nhưng lại do dự chưa dám đổ quân lên đất Nhật, cho dù lúc này hàng ngh́n tàu chiến và cả triệu lính Mỹ đă sẵn sàng với khí thế chiến thắng rực lửa.

 

Truman biết rơ đánh từ biển lên đất liền sẽ bị thương vong cực nhiều và chưa biết bao giờ mới thắng nổi 3,5 triệu quân Nhật thạo chiến cố thủ trong các công sự ngầm trên 4 đảo chính và trên các tàu chiến của nước này, chưa kể cùng từng ấy quân Nhật đóng ở các nước châu Á và các đảo Thái B́nh Dương. Ngoài ra c̣n hàng chục triệu dân Nhật sẵn sàng xả thân v́ Thiên Hoàng, họ sẽ đánh du kích đến người cuối cùng sau khi Mỹ chiếm được chính quốc Nhật. Bài toán quả thật vô cùng nan giải.

 

Truman nhớ lại những sự thật tàn nhẫn: trận đổ bộ đảo Iwo Jima nhỏ tư đầu năm nay, quân số Mỹ nhiều gấp 3 Nhật, thế mà cũng mất gần 40 ngày mới chiếm được đảo, 21 ngh́n lính Nhật đánh đến chết gần hết, chỉ c̣n lại 1.038 thương binh; Mỹ thương vong 31 ngh́n người.

 

Trận đổ bộ lên đảo Okinawa vừa rồi, với ưu thế tuyệt đối 183 ngh́n lính, 1.500 tầu chiến mà cũng mất 2 tháng Mỹ mới chiếm được đảo; máy bay tự sát của Nhật lao vào tầu chiến Mỹ, lính Nhật đánh đến chết không hàng; Mỹ thương vong 48 ngh́n quân.

 

Khi 70 ngh́n quân Mỹ tấn công đảo Saipan, 40 ngh́n lính Nhật trên đảo đánh đến người cuối cùng. Thương binh Nhật nổ lựu đạn tự sát không chịu để Mỹ bắt làm tù binh. Dân Nhật trên đảo dắt nhau nhảy từ vách đá cao xuống biển sâu, cha mẹ ôm con lội ra biển cho đến khi ngập nước chết. Lính Mỹ thấy thế khiếp sợ ôm mặt khóc, mất hết sức chiến đấu. Hai sĩ quan Nhật chỉ huy bảo vệ đảo là tướng Yoshitsugu Saito và phó đô đốc Chuichi Nagumo tự bắn vào đầu, không chịu hàng.

 

T́nh h́nh ấy khác hẳn trận chiến Stalingrad: nguyên soái Đức Paulus khi thấy t́nh h́nh chắc chắn thua đă dẫn đầu 90 ngh́n lính Đức vác cờ trắng ra hàng Hồng quân Liên Xô. Rơ ràng lính Đức không gan dạ liều chết một cách mù quáng theo tinh thần samurai như lính Nhật. Một quân đội không sợ chết quả thật là đáng sợ!

 

Tổng thống Truman nhớ lại phương án có tên Chiến dịch Coronet (Vương miện) tấn công chính quốc Nhật Bản do Bộ Tham mưu Liên quân Mỹ dự thảo mới tŕnh lên ông. Phương án này ước tính thương vong của phía Mỹ trong chiến dịch Coronet sẽ là 1,2 triệu người. Một tổn thất lớn không thể tưởng tượng nổi!

 

Truman biết rằng nhân dân Mỹ không bao giờ cho phép Tổng thống Mỹ hy sinh con em họ nhiều như vậy. Cuối cùng Truman đành chọn cách dùng bom nguyên tử để Mỹ không cần đổ bộ lên đất Nhật mà vẫn buộc Nhật phải đầu hàng. Khi bom nguyên tử gây thương vong lớn đe dọa sự tồn vong của dân tộc Nhật, vua Nhật không thể không quyết định đầu hàng để cứu quân đội và dân chúng nước này, cũng như cứu tính mạng chính nhà vua cùng Hoàng tộc. Nhưng quyết định này rất có thể làm tên tuổi Truman bị người đời măi măi nguyền rủa. Ông sẽ có thể phải chịu trách nhiệm trước lịch sử là người đầu tiên sử dụng bom nguyên tử.

 

8 giờ 15 sáng ngày 6 tháng 8, chiếc siêu pháo đài bay kiểu B-29 có tên Enola Gay từ độ cao 10 ngh́n mét thả một trái bom Urani 235 xuống Hiroshima, nơi có trụ sở Bộ Tư lệnh miền Nam và nhiều nhà máy quân sự Nhật. Bầu không khí bị đốt nóng đến 7.0000C, cả thành phố thực sự trở thành một biển lửa.

 

Hiroshima là một trong số ít đô thị Nhật chưa bị ném bom (nghe nói đó là Mỹ cố ư làm thế để khi ném bom nguyên tử mới theo dơi được chính xác kết quả), v́ thế dân chúng nơi này khá chủ quan chưa thực sự coi trọng việc trú ẩn, nhiều người thấy báo động mà không xuống hầm. Hậu quả cực kỳ nặng nề. Hơn 140 ngh́n dân thiệt mạng.

 

Tổng thống Truman ra tuyên bố trước toàn thế giới nói Mỹ đă ném bom nguyên tử xuống Hiroshima.

 

Thủ tướng Suzuki nhớ lại:

 

Sự việc đă đến nước này, tôi đành quyết định: không c̣n cách nào khác, chỉ c̣n cách duy nhất là chấm dứt chiến tranh. Sau khi nghe tin thảm hoạ ở Hiroshima, cuối cùng Bệ Hạ thở dài nói: Nếu cứ tiếp tục cuộc chiến tranh không có hy vọng thắng lợi này th́ sẽ chỉ gia tăng sự hy sinh của quân đội, đây là một việc bi thảm trong lịch sử văn minh của nhân loại.

 

Tôi và mọi người đau khổ nhận thấy tâm trạng của Bệ Hạ vô cùng nặng nề….. Thế nhưng Chính phủ vẫn ra lệnh tổng động viên các nhà khoa học quân đội, đốc thúc họ đến Hiroshima điều tra thực địa, xác nhận bom nguyên tử là thật hay giả.

 

Ngày 8 tháng 8, sự thật đă rơ: đúng là bom nguyên tử thật. Do đó ai nấy càng lo sợ uy lực của nó.

 

[“Tự truyện của Suzuki”].

 

Thực ra, nhà vua chỉ lo cho số phận của mấy triệu lính Nhật c̣n lại lúc ấy chứ đâu có nghĩ ǵ đến sinh mạng dân chúng!

 

Nhưng Chính phủ Nhật chưa tin Mỹ có bom nguyên tử. Sáng hôm mồng 7, họ cử các nhà khoa học đến Hiroshima khảo sát để xác định mối hoài nghi ấy.

 

Trên thực tế, sự xuất hiện bom nguyên tử hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của mọi người. Có người nghi ngờ đó là tṛ bịp của Mỹ, họ đề nghị trước tiên nên đến điều tra tại chỗ rồi hăy nói……

 

Tối ngày 8, tiến sĩ Niko nước mắt ṛng ṛng báo cáo tôi: “Rất tiếc, đúng là bom nguyên tử”…. Nhận được báo cáo, Thủ tướng Suzuki chỉ thị tôi sáng mai họp ngay Nội các, ông sẽ tự nói ra ư định chấm dứt chiến tranh.

 

[“Sự thật của việc ngừng chiến”, Sakomizu, Chánh Văn pḥng Chính phủ Nhật]

 

Nhưng phái chủ chiến lại nêu ra một ư kiến mới: Mỹ chỉ có một quả bom nguyên tử thôi, chẳng có ǵ đáng sợ cả!

 

6 giờ sáng hôm mồng 9, lại có tin Liên Xô đă tuyên chiến chống Nhật. Tin ấy có nghĩa là đội quân Quan Đông của Nhật đóng tại Đông Bắc Trung Quốc đă bị Hồng quân Liên Xô tấn công.

 

11 giờ 2 phút cùng ngày, quả bom nguyên tử thứ 2 (bom Plutoni) rơi xuống Nagasaki. Khoảng 70 ngh́n người chết. Tổng cộng hơn 200 ngh́n dân Nhật bỏ mạng chỉ v́ Chính phủ Nhật chần chừ chưa tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam với lư do “chưa dự kiến đầy đủ” t́nh h́nh.

 

Việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử và Liên Xô tham chiến chống Nhật đều được giải thích bằng lư do “Nhật từ chối tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam”. Chính phủ Nhật đă do dự, chậm trễ đưa ra quyết định trước một vấn đề vô cùng hệ trọng tới sự sống c̣n của dân tộc Nhật.

 

Tất cả chỉ v́ họ muốn giữ bằng được chế độ Thiên Hoàng họ coi là thiêng liêng bất khả xâm phạm! Điều 1 Hiến pháp Minh Trị 1889 viết: “Đế quốc Đại Nhật Bản là một khối thống nhất do Thiên Hoàng cai trị”. Điều 3 viết: “Thiên Hoàng thiêng liêng bất khả xâm phạm”, và điều 4: “Thiên Hoàng là nguyên thủ đất nước, nắm toàn bộ quyền thống trị”. V́ thế mà họ chỉ lo giữ “quốc thể” (tức thể chế Thiên Hoàng).

 

Có nên cho Nhật giữ lại chế độ Thiên Hoàng hay không? Vấn đề hóc búa này làm cho người Mỹ đau đầu. Tổng thống Truman đă giải quyết chuyện ấy như thế nào?

 

- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/08/12/ngay-tan-cua-phat-xit-nhat-p3/#sthash.0uMvS7zq.dpuf

 

 

Thiên Hoàng Nhật Bản thân chinh quyết định

 

Sau Nagasaki, người Nhật thấp thỏm chờ xem trái bom thứ 3 sẽ rơi xuống đâu. T́nh h́nh vô cùng nguy cấp buộc Nhật phải trả lời ngay có chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam hay không.

 

Ngày 9, nhà vua dự “Ngự tiền Hội nghị” của Hội đồng Tối cao Chỉ đạo Chiến tranh. Chánh văn pḥng chính phủ Sakomizu kể lại:

 

Đêm khuya ngày 9, “Ngự tiền hội nghị” họp trong một gian hầm tránh bom rộng 45 m2 sâu dưới đất 10 mét. Mọi người yên vị chờ nhà vua. Bệ Hạ mặt đỏ gay nặng nề bước vào. Một ấn tượng sâu sắc cho đến nay tôi vẫn chưa quên được là có mấy sợi tóc rủ xuống trán Bệ Hạ. Cuộc họp do Thủ tướng chủ tŕ. Trước tiên tôi đọc Tuyên ngôn Potsdam. V́ các điều kiện nêu trong Tuyên ngôn này chứa những nội dung Nhật Bản rất khó chịu đựng nổi, cho nên người nghe ai nấy đều rất xấu hổ.

 

[“Sự thật của việc ngừng chiến”].

 

Sau đó Bộ trưởng Ngoại giao Togo phát biểu nên tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam. Thủ tướng, Bộ trưởng Hải quân Yonai và Viện trưởng Viện Cơ mật Hiranuma cũng đồng ư như vậy. Một số bộ trưởng cho biết t́nh h́nh kinh tế rất gay go, không c̣n sức để kháng cự nữa. Phái chủ chiến gồm Bộ trưởng Lục quân Anami, Tổng Tham mưu trưởng Lục quân Umezu và Tổng Tham mưu trưởng Hải quân Toyoda nói nếu địch tấn công lên đất Nhật th́ nhất định chúng sẽ thiệt hại vô cùng lớn, qua đó Nhật có thể chuyển bại thành thắng, họ chủ trương “bản thổ quyết chiến”, “hy sinh cả trăm triệu dân”.

 

Phái này chỉ đồng ư đầu hàng nếu Đồng minh bảo đảm 4 điều kiện : – giữ chính thể quân chủ, – để Nhật tự giải tán quân đội, – để Nhật tự xét xử tội phạm chiến tranh, – hạn chế số lượng quân Đồng minh chiếm đóng Nhật.

 

Số người phái chủ hàng và chủ chiến trong Hội đồng Tối cao Chỉ đạo chiến tranh ngang nhau, đều là 3, do đó Thủ tướng Suzuki đề nghị Hoàng thượng quyết định.

 

Sakomizu nhớ lại:

 

Bệ Hạ nói: “Thế th́ Trẫm phát biểu ư kiến của Trẫm vậy ”. Tiếp đó Ngài nói: “Ư kiến của Trẫm là tán thành ư kiến của Bộ trưởng Ngoại giao ”.

 

Xin các vị hăy tưởng tượng xem quang cảnh lúc ấy thế nào? Địa điểm là sâu 10 mét dưới đất, và là trước mặt Bệ Hạ. Nếu nói về sự yên tĩnh th́ không nơi nào yên lặng hơn nơi này…

 

Khi Bệ Hạ nói xong, tôi thấy tức thở trong ngực, nước mắt trào ra rơi xuống giấy tờ để trước mặt. Đại tướng Umezu ngồi cạnh tôi cũng vậy. H́nh như vào lúc ấy tôi nghe thấy tiếng nước mắt của mọi người tí tách rơi xuống. Phút tiếp sau là tiếng thút thít. Sau nữa là tiếng khóc to, tiếng gào lên.  Tôi nh́n Bệ Hạ qua làn nước mắt, phát hiện thấy mới đầu Ngài dùng ngón tay cái đeo găng trắng muốt liên tục lau mắt cặp kính của Ngài, nhưng cuối cùng Bệ Hạ cũng bắt đầu dùng hai tay lau má. Bệ Hạ cũng khóc rồi!

 

Nước Nhật Bản lập quốc đă 2.600 năm, hôm nay đón ngày chiến bại đầu tiên của ḿnh. Hôm ấy cũng là ngày đầu tiên Thiên Hoàng Nhật Bản khóc.

 

[“Sự thật của việc ngừng chiến”].

 

Sau đó Thiên Hoàng tŕnh bày lư do tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam: phía Nhật căn bản chưa chuẩn bị xong “bản thổ quyết chiến”, nếu cứ mù quáng quyết chiến th́ “tất sẽ dẫn đến sự vong quốc diệt chủng của dân tộc”, Trẫm “vẫn c̣n muốn truyền lại cho con cháu đời sau cái gọi là quốc gia Nhật Bản”!

 

Hirohito nhớ lại :

 

Khi ấy lư do thứ nhất tôi hạ quyết tâm [chấp nhận Tuyên ngôn] là: nếu cứ thế này th́ dân tộc Nhật sẽ diệt vong, tôi chẳng thể bảo vệ được các thần dân trung thành của ḿnh. Lư do thứ hai là để giữ ǵn quốc thể [thể chế đất nước]… Nếu địch đổ bộ lên gần vịnh Ise th́ đền Ise sẽ bị địch kiểm soát, như vậy sẽ không kịp di chuyển các vật thiêng. Nếu quả như thế th́ sẽ càng khó hộ tŕ quốc thể. Cho nên lúc ấy tôi cảm thấy dù phải hy sinh thân ḿnh, tôi cũng quyết giảng hoà.

 

[“Tự bạch của Hirohito”].

 

Thủ tướng Suzuki viết:

 

Thiên Hoàng tŕnh bày Thánh Dụ của Ngài về t́nh h́nh hiện nay. Đó thật là những triết lư sâu sắc, những chỉ thị sáng suốt đưa ra từ một nhận thức nh́n xa trông rộng. Qua chỉ dụ của Thánh thượng, chúng tôi cảm thấy Bệ Hạ nắm t́nh h́nh chiến cuộc chính xác biết bao! Tất cả mọi người yên lặng nghiêm chỉnh lắng nghe.

 

[“Tự truyện của Suzuki”].

 

Nước Nhật chính thức đầu hàng

 

Thiên Hoàng đă quyết th́ chẳng ai dám chống lại.

 

7 giờ sáng ngày 10 tháng 8, Thủ tướng Suzuki gửi điện báo cho các nước tham gia thành lập Liên Hợp Quốc (LHQ), nói rơ ư định chuẩn bị tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam. Trong bức điện đầu tiên do Bộ Ngoại giao Nhật dự thảo có đưa ra một điều kiện: Không đ̣i thay đổi địa vị pháp lư quốc gia của Thiên Hoàng. Chủ tịch Viện Cơ mật phản đối điều này với lư do đại quyền thống trị của Thiên Hoàng là đại quyền của thần thánh, vượt trên quốc pháp. Tuy vậy trong bức điện phát đi đă giữ nguyên câu đó.

 

Ngày 10/8, Chính phủ Nhật gửi điện cho Chính phủ Thuỵ Điển và Thuỵ Sĩ, nhờ chuyển tới Chính phủ Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc nội dung: Nhật sẵn sàng chấp nhận tất cả các điều khoản trong Thông cáo Potsdam; nếu Hoàng gia cùng chủ quyền quốc gia Nhật không bị bất kỳ tổn hại nào, Nhật sẽ lập tức chấp nhận Thông cáo đó vô điều kiện.

 

Sáng ngày 10, nhận được bức điện nói trên, Tổng thống Truman bàn với Byrnes, Stimson, Forrestal (Bộ trưởng Ngoại giao, Lục quân, Hải quân) về vấn đề có nên giữ lại chế độ quân chủ Nhật hay không. Stimson cho rằng giữ lại Nhật Hoàng sẽ có lợi cho việc giải giáp quân đội Nhật đang đóng phân tán khắp nơi trên Thái B́nh Dương. 2 giờ chiều, Truman đọc trước Quốc hội bức điện phúc đáp Nhật do Byrnes thảo với nội dung chính là: sự cai trị của Nhật hoàng và Chính phủ Nhật sẽ lệ thuộc vào (nguyên văn subject to) Tư lệnh Tối cao quân đội Đồng minh; h́nh thức chính quyền cuối cùng của Nhật sẽ do nhân dân Nhật quyết định.

 

Nhận được phúc đáp đó, Thủ tướng Nhật cho rằng có thể chấp nhận điều kiện này, v́ chế độ quân chủ vẫn được bảo lưu. Nhưng phái chủ chiến quyết không chấp nhận.

 

Ngày 13 tháng 8, điện trả lời chính thức của các nước trù bị LHQ gửi đến Tokyo. Theo Thủ tướng Suzuki, nội dung bức điện này như sau:

 

Thứ nhất, nói rơ quyền cai trị quốc gia của Thiên Hoàng và Chính phủ ta phải đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Tư lệnh Tối cao LHQ. Thứ hai, sau khi chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam, sẽ lập tức ra lệnh nói về các công việc Thiên Hoàng và Chính phủ ta phải làm. Thứ ba, nói rơ h́nh thái chính trị cuối cùng của Nhật Bản phải được quyết định căn cứ theo ư chí tự do biểu đạt của quốc dân Nhật Bản.

 

[“Tự truyện của Suzuki”].

 

Trong bức điện có câu: Thiên Hoàng và Chính phủ Nhật bản “subject to” Bộ Tư Lệnh LHQ. Từ tiếng Anh này đă gây ra sự chống đối của quân đội Nhật và nổ ra một cuộc bàn căi sôi sục về vấn đề “giữ quốc thể”.

 

Bộ Ngoại giao Nhật dịch subject to là “đặt dưới sự kiểm soát của …”, và cho rằng Nhật có thể tiếp thu. Bên quân đội dịch là “lệ thuộc vào …”, do đó họ nói như thế là mất quốc thể, v́ vậy họ càng kiên quyết không đầu hàng. Thiên Hoàng nhớ lại:

 

Trong quá tŕnh xảy ra bất đồng như vậy, Mỹ bắt đầu cho máy bay rải truyền đơn báo cho toàn thể quốc dân Nhật biết là Nhật đang xin chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam… Nếu những truyền đơn ấy rơi vào tay quân đội th́ tất nhiên sẽ nổ ra đảo chính…  Bởi vậy 8h30 ngày 14, tôi ra lệnh Thủ tướng triệu tập họp ngay.

 

[“Tự bạch của Hirohito”].

 

11 giờ trưa ngày 14, Hội đồng Tối cao và Chính phủ bắt đầu họp liên tịch. Hai phái chủ hàng và chủ chiến lại căi nhau. Cuối cùng vua Hirohito nói:

 

Trẫm đă xem xét điện văn của Đồng minh, rút ra kết luận là các điều kiện họ đưa ra đă hoàn toàn thừa nhận lập trường trong công hàm của ta. Trẫm cho rằng có thể chấp nhận bức điện này… mong Nội các lập tức dự thảo Chiếu thư chấm dứt chiến tranh… Thời vận nay đă như thế rồi, ta không c̣n sức để chống lại nữa. Tiếp tục chiến tranh chỉ dẫn đến sự huỷ diệt dân tộc… Đúng là Trẫm sẽ vô cùng đau ḷng khi nh́n thấy quân đội trung thành với Trẫm bị tước vũ khí … Nhưng bây giờ ta cần nhẫn nhịn cái không thể nhẫn nhịn được. Cho nên Trẫm dự định tiếp nhận toàn bộ các điều kiện của đối phương.”

 

Nói đến đây, Bệ Hạ ngừng lại. Tôi ngẩng đầu nh́n, ôi, thật đau ḷng! Th́ ra, Bệ Hạ đang khóc…. Tất cả mọi người cũng không thể chịu đựng được nữa, họ oà lên khóc hu hu, thậm chí có người khóc tru tréo, kêu trời gọi đất…

 

[“Nhật kư của Kido”].

 

Theo truyền thống Vơ Sĩ Đạo, đàn ông Nhật “không bao giờ thất sắc khi Thái Sơn sụp đổ ngay trước mặt”,[1] thế mà bây giờ các vị samurai cấp cao nhất ấy lại khóc hu hu. Bộ trưởng Lục quân quỳ xuống ḅ lết về phía nhà vua nói to: “Xin Bệ hạ không đầu hàng!”

 

Bây giờ Thiên Hoàng đă hai lần quyết định, chẳng ai dám chống lại Thánh ư nữa.

 

Hai nhà Hán học giỏi nhất nước được mời đến để thảo “Chiếu Thư chấm dứt chiến tranh” cho Thiên Hoàng kư. Nửa đêm 14, Chiếu Thư viết bằng chữ Hán-Nhật dự thảo xong tŕnh lên Hội đồng Tối cao. Bộ trưởng Lục quân đ̣i sửa đi sửa lại từng chữ sao cho “giữ được quốc thể”. Câu viết về “Ba vật thiêng” cũng bị xoá, v́ sợ phía Mỹ biết sẽ đi t́m kiếm. Cuối cùng Thiên Hoàng đọc Chiếu Thư ghi âm vào đĩa để hôm sau phát trên đài phát thanh.

 

Khi Bộ trưởng Lục quân Anami về cơ quan bộ truyền đạt Thánh chỉ, nhiều sĩ quan doạ “Thà chết chứ không đầu hàng”. Anami rút súng lục ra đặt lên bàn hét lớn: “Thánh chỉ đă hạ, ai không phục tùng th́ hăy giết tôi trước!”  Hai sĩ quan lập tức nổ súng tự sát. Anami cũng quyên sinh.

 

Theo ấn định, ngày 15/8 đài phát thanh Tokyo sẽ phát đi lời Thiên Hoàng đọc Chiếu thư gửi toàn thể thần dân ghi trên đĩa.

 

Suốt đêm trước, 30 sĩ quan trẻ trong đội cảm tử của “Trung đoàn Thần phong (Kamikaze) Quốc gia” do một đại uư chỉ huy đi xe tải từ cảng Yokohama đến Tokyo, sát khí đằng đằng tuyên bố sẽ giết hết lũ “phản nghịch” quốc gia, tức phái chủ hoà. Trước tiên chúng đi t́m Thủ tướng Suzuki. Lúc nửa đêm, chúng bắn súng máy vào Phủ Thủ tướng. Lính bảo vệ ở đây trốn sạch. Biết Suzuki không có mặt, chúng phóng hoả đốt toà nhà rồi kéo đến nhà riêng Thủ tướng. Do được báo trước, Suzuki đang ngủ vội kéo cả gia đ́nh lên xe, chạy được một quăng th́ gặp xe của đội Thần phong. Suzuki vội bảo mọi người cúi rạp xuống, nhờ đó mới thoát chết.

 

Cho dù Bộ trưởng Lục quân đă ra sức khuyên mọi người kiềm chế không được chống lại Thánh chỉ, nhưng lũ sĩ quan trẻ không nghe. Con rể cựu Thủ tướng Tojo cùng em trai Bộ trưởng Lục quân và các sĩ quan trẻ chủ trương dùng vũ lực diệt phái chủ hàng và buộc Nhật Hoàng tiếp thu yêu cầu đánh đến cùng. Chúng kéo đến Hoàng cung để t́m và huỷ đĩa ghi âm lời nhà vua đọc Chiếu thư đầu hàng, nhưng muốn vào th́ phải được tướng Mori chỉ huy sư đoàn cận vệ Hoàng gia cho phép. 1 giờ sáng, chúng đến nhà riêng Mori, nhưng cũng nhận được khuyên không được chống lại Hoàng thượng. Lập tức chúng bắn chết Mori và chặt đầu em trai ông này, rồi tự viết “Mệnh lệnh số 584 của sư đoàn cận vệ” và đóng dấu của sư đoàn trưởng. Sau khi phân phát lệnh đó đi các nơi, quân đảo chính xông vào Hoàng cung sục t́m đĩa ghi âm Chiếu thư, nhưng v́ Hoàng cung quá rộng nên không t́m được.

 

5 giờ sáng, Đại tướng Tanaka đến sư đoàn cận vệ giải quyết vụ rắc rối và được biết, chính Liên đội 2 của sư đoàn này chiếm Hoàng cung. Ông ra lệnh bắt giam viên thiếu tá kư “Mệnh lệnh 584” và gọi điện cho đại tá chỉ huy Liên đội 2 ra lệnh rút hết quân ra khỏi Hoàng cung, và tuyên bố ông tiếp quản chỉ huy sư đoàn cận vệ Hoàng gia.

 

Cuộc đảo chính kết thúc với thất bại thảm hại vào lúc toàn thể dân chúng Nhật túm tụm bên loa truyền thanh hoặc ra-đi-ô để lần đầu tiên trong đời được nghe tiếng nói của Thiên Hoàng. 11 giờ 30 ngày 15, đĩa ghi âm lời Thiên Hoàng đọc Chiếu thư được đưa đến đài phát thanh canh gác vô cùng cẩn mật. Đúng 12 giờ trưa, đài phát thanh phát quốc ca Nhật Bản. Tiếp đó, giọng Thiên Hoàng Hirohito vang lên:

 

Sau khi xem xét xu thế lớn của thế giới và hiện trạng của Đế quốc (tức Nhật Bản), Trẫm muốn dùng biện pháp bất thường để thu dọn thời cuộc. Nay Trẫm báo để các thần dân trung thành và lương thiện của Trẫm biết: Trẫm đă ra lệnh cho Chính phủ Đế quốc thông báo cho 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Xô, tiếp thu Thông cáo chung của họ …

 

Nói cách khác, tức là chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, nhưng v́ giữ sĩ diện, Chiếu Thư không hề dùng những từ “thua trận”, “đầu hàng”. Chiếu Thư c̣n nói: trước đây Trẫm không định xâm lược nước khác; Nhật tuyên chiến với Mỹ, Anh là do nhu cầu “tự tồn và an ninh của Đông Á”, … “nhưng chiến cục không chuyển biến tốt, xu thế lớn trên thế giới bất lợi cho ta; cộng thêm địch mới đây sử dụng loại bom tàn nhẫn giết người vô tội, không thể lường được thiệt hại. Nếu tiếp tục giao chiến, cuối cùng sẽ dẫn đến sự diệt vong dân tộc ta, phá hoại nền văn minh nhân loại.” Nghĩa là Nhật ngừng chiến không phải do thua mà chỉ là để tránh thảm hoạ dân chúng bị bom nguyên tử giết hại. Chiếu thư cũng lờ đi việc Nhật xâm lược Trung Quốc và bị Liên Xô đánh cho tơi bời ở Măn Châu… Tóm lại, chính quyền Nhật vẫn c̣n vô cùng ngoan cố.

 

Trước t́nh h́nh đó, ngày 19/8, MacArthur Tư lệnh quân đội Đồng minh đă giao cho Nhật 3 văn bản để kư, đó là:

 

– Bố cáo của Thiên hoàng về việc chấm dứt chiến tranh;

– Văn bản đầu hàng;

– Quân lệnh số Một về việc hạ vũ khí đầu hàng vô điều kiện.

 

Nhận được Chiếu thư ngày 15 tháng 8 nói trên của Thiên Hoàng, quân đội Nhật trên tất cả các mặt trận trong và ngoài nước đă lập tức nghiêm chỉnh ngừng chiến và sau đó nộp vũ khí khi quân đội Đồng Minh tới giải giáp. Nước Nhật thành lập Chính phủ mới do Hoàng thân Higashikuni làm Thủ tướng và cử Bộ trưởng Ngoại giao cùng Tổng Tham trưởng quân đội dẫn đầu phái đoàn Nhật đến kư văn bản đầu hàng không điều kiện ngày 2/9 trên chiến hạm Missouri của Mỹ neo đậu trong vịnh Tokyo.

 

Chiến tranh Thái B́nh Dương chấm dứt từ đó, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho nhiều dân tộc châu Á, trong đó có Việt Nam, giành lại độc lập từ tay các đế quốc phương Tây. Một kỷ nguyên mới bắt đầu bừng sáng ở phương Đông – kỷ nguyên tan ră, sụp đổ của chế độ thực dân trên toàn cầu./.

 

Nguyễn Hải Hoàng là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.

 

H́nh: Đô đốc Nimitz kư vào văn kiện đầu hàng của Nhật trên chiến hạm Missouri đậu trong Vịnh Tokyo. Nguồn: Alamy.com.

 

———————————

 

[1] Xem “Vơ Sĩ Đạo – Linh hồn Nhật Bản”,


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Việt Thức

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

ThếGiới

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng