MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềOANĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune 

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews

v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyvvArchive

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia

v RamussenvWikileaksvFederalist

v The Online Books vBreibart vInterceipt

v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic

v National Public Radio vForeignTrade vSlate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

SEPTEMBER 2017

 

 

Marco Polo (1254 – 1324) nhà thám hiểm Châu Á lừng danh

 

 

 

 

Phạm Văn Tuấn

 

Trong thời Trung Cổ, không một người châu Âu nào đă đi du lịch qua phía đông quá xa như Marco Polo và đă mang về các tin tức của một xứ sở xa lạ là nước Trung Hoa. Cuộc viễn du của Marco Polo đă đóng góp vào sự hiểu biết của người tây phương về châu Á, mở ra các đối thoại và mậu dịch với châu Á, giúp công vào việc làm giầu cho xứ Venice cùng các thành phố khác của nước Ư nhờ đó Thời Phục Hưng đă phát triển.

 

Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên tới được Bắc Kinh nhưng là người đầu tiên mô tả từng chi tiết về các cung điện, lối sống và triều đ́nh của Đại Hăn nhà Nguyên tại Bắc Kinh, người đầu tiên nói về các miền đất Java, Sumatra, Thái Lan và Miến Điện. Sự giàu có của nước Trung Hoa vào thế kỷ 14 đă là điều nghi ngờ và mơ ước của các người tây phương, họ hỏi làm sao tới được miền đất trù phú đó, nếu không bằng đường bộ th́ bằng đường biển. Marco Polo đă trải qua 24 năm tại một thế giới xa lạ và c̣n bí ẩn đối với người châu Âu, sự bí ẩn giống như của các hành tinh đối với chúng ta ngày nay. Câu chuyện kể của Marco Polo về nước Trung Hoa được coi là một loại huyền thoại và trong 200 năm, cuốn sách “Mô tả về Thế Giới” của ông đă là nguồn tin tức chính về một xứ phương đông chưa được biết tới.

 

1/ Chuyến đi buôn của người cha, Nicolo Polo.

 

Vào thế kỷ 13, châu Âu đă trải qua Thời Kỳ Đen Tối (the Dark Ages) và cô lập, chuyển sang giai đoạn phát triển về thương mại và chiến tranh với vùng Cận Đông. Dân chúng của châu Âu gia tăng, các thành phố bắt đầu mở rộng khiến cho có nhu cầu về hàng hóa. Vào thời đại đó, các nhà quư tộc thường khinh rẻ ngành buôn bán nên đă xuất hiện một tầng lớp trung lưu gồm các thương nhân tại một số thành phố lớn nhỏ. Trong các địa điểm đông dân cư đang phát triển, không nơi nào thích hợp với công việc mậu dịch hơn thành phố Venice của nước Ư. Đây là nơi lư tưởng, nằm trên biển Adriatic và hướng về phương Đông.

 

Năm 1254, ông Nicolo Polo cùng người em trai tên là Maffeo, là hai thương nhân về nữ trang, đă thực hiện một chuyến đi xa, tới thành phố Constantinople, rồi cũng do công việc thương mại, hai người này đă đi khá xa về phía đông, tới tận Bukhara, sâu vào bên trong miền đất thời bấy giờ thuộc quyền kiểm soát của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ đă từ phần đất phía bắc của nước Trung Hoa, tràn qua đánh chiếm châu Âu và lập nên các lănh thổ mới do các Khả Hăn cai trị. Tại nước Nga, người Mông Cổ được gọi là rợ Thát Đát (Tartars).

 

Hai anh em thương nhân này đă bị mắc kẹt trong xứ của người Thát Đát trong 3 năm v́ các trận chiến quanh vùng, v́ các bọn cướp đe dọa đường về. Cuối cùng, nhân một chuyến về thăm triều đ́nh Đại Hăn tại Trung Hoa của một vương hầu Thát Đát, hai anh em Polo được mời đi theo. Đây là cơ hội rời khỏi miền Bukhara một cách an toàn, nên hai thương nhân này đă nhận lời theo đoàn sứ quân ra đi.

 

Năm 1265, sau hơn một năm trời gian nan trên đường trường, hai anh em Nicolo và Maffeo đă tới được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và được Đại Hăn Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) đón tiếp niềm nở. Đại Hăn là cháu nội của Thành Cát Tư Hăn, vị hoàng đế đă lập nên đế quốc Mông Cổ rất rộng lớn, trải dài từ miền bắc châu Á tới tận các phần đất phía đông của châu Âu.

 

20 năm về trước, đă có vài người châu Âu là các thương nhân hay các tu sĩ tới được nước Trung Hoa và xứ Mông Cổ, nhưng Nicolo và Maffeo là hai người châu Âu đầu tiên được tŕnh diện trước triều đ́nh của Đại Hăn. Hai thương nhân miền Venice khi tới Yên Kinh, đă rất ngạc nhiên về nhiều điều mới lạ.

 

Kinh đô này có các bức tường thành cao bao vây chung quanh và phần bên trong tường thành được phân chia thành nhiều vùng với lâu đài hoàng gia ở giữa. Anh em nhà Polo cũng rất cảm kích trước ḷng hiếu khách của Đại Hăn và sự xuất hiện của những người xa lạ, từ một xứ chưa được biết tới, đă khiến cho Đại Hăn Hốt Tất Liệt phải quan tâm. Đại Hăn cũng thắc mắc về đạo Thiên Chúa nên khi anh em Polo rời khỏi Trung Hoa, nhà vua đă yêu cầu họ mang một bức thư gửi cho Giáo Hoàng, yêu cầu phái đến triều đ́nh Mông Cổ 100 tu sĩ học giả. Đại Hăn cũng chân thành mời anh em Polo trở lại Trung Hoa đồng thời cấp cho họ một giấy phép có đóng mộc vàng, để bảo đảm an toàn lúc đi đường.

 

Năm 1269, hai anh em Polo đă về tới Venice th́ được biết bà vợ của Nicolo đă qua đời sau lần sinh hạ một cậu con trai đặt tên là Marco Polo và cậu này được một người trong gia đ́nh nuôi dưỡng. Lúc này, cậu Marco Polo đă là một thiếu niên 15 tuổi, lanh lẹ, tháo vát, thường lân la chơi đùa tại bến tầu và quen biết với khá nhiều thủy thủ.

 

2/ Chuyến đi xa của Marco Polo.

 

Hai năm sau ngày trở về, ông Nicolo lại cùng với người em trai xuống tầu từ Venice và trong lần viễn du này, có dẫn theo cậu con trai Marco. Khi đến Jerusalem th́ vị Giáo Hoàng quen biết khi trước đă qua đời trong khi đó các hồng y chưa bầu ra được một Giáo Hoàng mới. Anh em nhà Polo đành quyết định vẫn ra đi với 2 tu sĩ và một số dầu thánh (holy oil). Đường đi gian truân đă làm cho 2 tu sĩ nản ḷng rồi v́ lo sợ cho sự an toàn, họ đă giả vờ bệnh nặng và trở về, c̣n các thương nhân Venice vẫn tiếp tục lên đường. Marco Polo lúc này là cậu thanh niên yêu thích thiên nhiên, có đầu óc thực tế, biết nhận xét những điều xa lạ, nên đă giữ sổ nhật kư, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc hành tŕnh.

 

Rời Jerusalem bằng thuyền, hai thương nhân tới thị trấn Acre rồi thị trấn Ayas. Tại nơi này họ lên bờ, đi theo đoàn lạc đà. Khi hai thương nhân đă rời khỏi Jerusalem th́ được tin Theobald of Piacenza được bầu làm Giáo Hoàng Gregori X. Để tránh nơi giao tranh giữa hai lực lượng Thập Tự Chinh (Crusaders) và các quân Hồi Giáo, họ đă đi về phía bắc, hướng tới Hắc Hải rồi ṿng qua hướng đông, tới gần núi Ararat, nơi mà nhiều người tin rằng con thuyền lớn của ông Noah đă được kéo lên bờ. Đoàn lữ hành cũng đă đi qua các ngọn đồi của miền nam xứ Georgia thuộc nước Nga ngày nay. Các vùng đất này đều quen thuộc với các thương nhân châu Aâu nhưng riêng với Marco Polo, cậu rất ngạc nhiên trước các loài chim lạ, loại đá muối, các loại hồng ngọc và các giếng dầu. Loại dầu này không dùng để ăn mà được người dân địa phương chữa các bệnh ngoài da cho người và lạc đà, và dùng để đốt đèn vào ban đêm.

 

Khi vào xứ Iran, anh em nhà Polo đă dừng chân tại Saba, nơi mà theo chuyện kể, 3 tu sĩ Magi đă mang quà tặng, theo chỉ hướng của các v́ sao tới thăm viếng Chúa Hài Đồng tại Bethlehem. Tới lúc này, đoàn thương nhân đă đi quá xa, tới vùng xa lạ và nguy hiểm, đi rất chậm với tốc độ từ 10 tới 20 dậm một ngày, qua các thung lũng lạnh lẽo, các xa mạc nóng bỏng và toàn sỏi đá, không c̣n thấy các cây cối xanh tươi. Khi đến thị trấn Kerman, anh em Polo cho rằng nên dùng đường biển để tới Trung Hoa, họ đă đổi hướng về phía nam, tiến tới hải cảng Hormuz nằm trong vịnh Ba Tư. Trên đường đi, họ đă thấy các làng mạc ẩn hiện sau các bức tường thành cao đắp bằng đất để ngăn cản loại quân chuyên cướp bóc Karaunas. Bỗng nhiên, bầu trời tối sầm lại và trong trận băo cát, đoàn thương nhân bị quân cướp kể trên ập tới đánh phá. Marco Polo đă kể lại rằng người Karaunas biết dùng phép phù thủy khiến cho trời quang trở thành tối tăm, mọi người khó nh́n thấy mặt nhau trừ khi đứng rất gần nhau. Trong trận đánh cướp này, cha và chú Polo cũng như Marco đă thoát nạn nhờ may mắn, một số người cùng đi đường bị bắt, nhiều kẻ bị giết. Cuối cùng, đoàn lữ hành cũng tới được hải cảng Hormuz. Tại nơi này, khi nh́n thấy các con thuyền đi biển mỏng manh, may bằng sợi dây dừa, các kẻ viễn du đă phải đổi ư, quay trở lại thị trấn Kerman, theo Con Đường Tơ Lụa hướng lên phía bắc rồi đi về phía đông, tới thành phố Balkh tại mạn bắc của xứ Afghanistan.

 

Balkh 50 năm về trước là một thành phố với các lâu đài tráng lệ xây bằng đá hoa trắng, là kinh đô của xứ Bactria và cũng chính tại nơi đây, Đại Đế Alexander đă cưới công chúa của vua Ba Tư Davis. Nhưng vào lúc này, Marco Polo thấy thành phố đă bị cháy rụi, trở thành b́nh địa, tàn phá do đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hăn. Sau khi rời khỏi Balkh, gia đ́nh Polo đă đi về hướng Badakhshan là một tỉnh nằm về phía bắc của rặng núi Hindu Kush và cũng là nơi có nhiều mỏ đá màu xanh da trời, gọi tên là “lapis lazuli”. Marco Polo cũng ghi nhận rằng nơi này sản xuất ra các loại hồng ngọc rất quư và đây cũng là nơi có khí hậu rất tốt, sớm làm phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. Từ Badakhshan, đoàn lữ hành đi qua cao nguyên Pamir, một vùng mà Marco Polo đă thấy có rất nhiều loại hươu sừng rất dài. Rồi đoàn người leo lên trên một cao nguyên 12,000 bộ, được gọi là “Mái nhà của thế giới” (the Roof of the World). Marco Polo đă ghi trong sổ rằng: “không thấy có chim muông nào trên miền núi” và “lửa không c̣n cho cùng sức nóng như ở các mạn dưới thấp”.

 

Từ miền núi cao, đoàn lữ hành xuống thấp dần, lọt vào vùng Tân Cương, một vùng có các ốc đảo xanh tươi và bờ sông đầy loại đá hoa cương. Khi tới thị trấn Lop, đoàn lữ hành chuẩn bị băng qua phần phía nam của Sa Mạc Takla Makan. Theo lời ghi chép của Marco Polo th́ “những người sửa soạn vượt qua sa mạc đă nghỉ ngơi tại thị trấn này một tuần lễ để phục hồi người và vật, rồi họ lo một tháng thực phẩm cho cuộc hành tŕnh. Khi rời thị trấn này, họ đi vào sa mạc. Chiều dài của sa mạc lớn tới độ người ta nói rằng phải mất một năm hay hơn để đi từ đầu này tới đầu kia, và đi theo chiều ngang ngắn nhất cũng phải mất một tháng”. Người dân địa phương tin rằng sa mạc Takla Makan có các loại ma quỷ, gọi tên người, giả làm kẻ đồng hành và đưa các kẻ lữ hành tới chỗ chết. V́ vậy anh em nhà Polo đă phải rất cẩn thận trước sa mạc cát nóng, tạo ra các ảo ảnh. Trong nhiều tuần lễ, họ đă đi men theo phía nam của sa mạc Gobi, tới được thị trấn Kumul rồi vào xứ Mông Cổ. Đây là phần đất có giống người Thát Đát cư ngụ. Marco Polo đă thấy tận mắt loại thạch miên (asbetos), nh́n thấy bức tượng Phật nằm rất lớn và đă ghi chép các nhận xét chính xác về người Mông Cổ : “các người Thát Đát giàu có mặc y phục bằng lụa và vàng, bằng da và lông của các thú vật với các kiểu cách sang trọng. Người Thát Đát rất gan dạ trong trận chiến, tới độ cực đoan. Họ có thể chịu đựng mọi loại thiếu thốn và khi cần, có thể sống cả tháng bằng sữa của lừa ngựa hoang mà họ săn bắt được. Các người đàn ông Thát Đát được huấn luyện sống trên lưng ngựa hai ngày mà không xuống đất, ngủ trên lưng ngựa khi ngựa ăn cỏ. Không một giống dân nào trên trái đất vượt hơn họ về cách chịu đựng các khó khăn và kiên nhẫn. Nếu hoàn cảnh cần đến, họ có thể đi bộ 10 ngày mà không đốt lửa hay dùng bữa. Trong thời gian này, ho sống bằng máu ngựa”.

 

Sau khi rời thành phố Venice trong 3 năm rưỡi, anh em Polo đă vượt qua 8,000 dậm đường, băng qua các miền đất rất khó đi và nguy hiểm. Sự việc đoàn lữ hành tới đất Mông Cổ đă được báo về cho Đại Hăn rơ và nhà vua đă cho người đón trước ở khoảng cách 40 ngày đường, ra lệnh cho mỗi nơi dừng chân dành cho họ các tiện nghi tối đa.

 

Mùa hè năm 1275, đoàn lữ hành tiến vào cung thành Mông Cổ là Thượng Đô (Shangtu), nơi có các lâu đài mùa hè rất lớn bằng đá hoa rực rỡ, tọa lạc trên vùng đất rộng 16 dậm vuông, với các suối nước và thật nhiều hươu nai cùng các con thú khác mà Đại Hăn đă săn bắt được bằng các con báo rừng hay diều hâu. Vào thời kỳ này, đế quốc Mông Cổ là miền đất rộng lớn nhất chưa từng thấy, trải dài từ bờ biển Trung Hoa ở phía đông tới tận xứ Hungari ở phía tây. Hai ông Polo và cậu Marco được dẫn tới một đại sảnh có dát vàng rực rỡ. Ở giữa cung điện và ngồi trên ngai vàng là ĐaÏi Hăn Hốt Tất Liệt mặc áo lụa thêu chỉ vàng, vào cỡ tuổi 60, là một nhân vật oai vệ, có chiều cao trung b́nh nhưng vạm vỡ, với đôi má hồng và “đôi mắt đẹp màu đen”. Sau khi quỳ lậy, ông Nicolo tŕnh diện cậu Marco là “kẻ hầu của nhà vua và cũng là con trai của tôi” th́ được ĐaÏi Hăn trả lời là rất vui mừng đón tiếp, rồi nhà vua hạ lệnh tổ chức tiệc rượu.

 

Thượng Đô là nơi nghỉ mùa hè của Đại Hăn, tọa lạc về phía bắc 200 dậm và không xa Vạn Lư Trường Thành. Tới cuối tháng 8, nhà vua lại dọn về sống tại Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh), một nơi có các cung điện rực rỡ hơn. Marco Polo dần dần trở nên một trong các cận thần của vua Mông Cổ nên chàng thanh niên xứ Venice này đă có nhiều cơ hội quan sát và ghi chép về lối sinh hoạt tại triều đ́nh. Đại Hăn Hốt Tất Liệt tuy bản chất là người Mông Cổ nhưng đă chấp nhận nhiều lối sống văn minh của người Hán. Nhà vua có 4 hoàng hậu với cả ngàn người hầu cận. Trong các buổi thiết triều, một trong các hoàng hậu cũng được ngồi vào ghế danh dự, ngang hàng với nhà vua. Đại Hăn c̣n có hàng trăm cung tần và mỗi hai năm, từ 30 tới 40 thiếu nữ mới được tuyển lựa cẩn thận vào cung theo các tiêu chuẩn về nhan sắc và các đặc điểm khác như khi ngủ không ngáy to, thân thể không tiết ra thứ mùi khó chịu. Cha mẹ của các cung tần này thường hănh diện khi có con gái được tuyển mộ vào cung cấm và sau vài năm sống tại hậu cung, các cung tần được nhà vua gả cho các quan trong triều. Đại Hăn là một con người nhân từ, thường ra lệnh cấp ngũ cốc và gia súc cho những miền đất bị thiên tai, hạn hán.

 

Đại Hăn c̣n có một đội ngũ các chiêm tinh gia, đúng hơn là các thầy phù thủy và Marco Polo đă mô tả họ là loại người thô lỗ, dơ bẩn, thường khoe khoang kiểm soát được gió mưa và có các khả năng huyền bí. Chung quanh Đại Hăn có các vơ tướng người Mông Cổ, một số học giả người Trung Hoa và nhà vua c̣n dùng vài người ngoại quốc trong việc cai trị xứ sở. Đế quốc Mông Cổ vào thời kỳ này rất rộng lớn, gồm 34 tỉnh do 12 vương hầu cai trị và chịu trách nhiệm trước Đại Hăn. Tuy là một miền đất bao la nhưng người Mông Cổ đă tổ chức được một mạng lưới thông tin hữu hiệu với khoảng cách 25 dậm có một trạm liên lạc, với ngựa khỏe và thông tin viên sẵn sàng mang các văn thư, hiệu lệnh của Đại Hăn tới các nơi xa xôi trong một thời gian kỷ lục. Marco Polo đă kể lại rằng một kỵ mă thông tin có thể vượt 250 dậm trong một ngày nhờ đó vào mùa hè, trái cây được hái buổi sáng tại Yên Kinh, đă được đưa đến Thượng Đô vào buổi chiều ngày hôm sau, trên một hành tŕnh mà b́nh thường cần tới 10 ngày đi đường. Marco Polo c̣n mô tả về tiền giấy, một thứ tiền được chấp nhận tại mọi nơi trong đế quốc Mông Cổ, nhờ đó các lái buôn, các kẻ lữ hành đă không gặp khó khăn khi phải mang tiền đi xa. Người Trung Hoa đă dùng vỏ cây dâu, đâm vụn thành một thứ bột giấy giống như bông g̣n và làm ra một loại giấy màu đen rồi trên đó có đóng triện đỏ của nhà vua. Việc làm bạc giả bị trừng phạt bằng tội tử h́nh.

 

Trong vài năm sống tại triều đ́nh của Đại Hăn Hốt Tất Liệt, Marco Polo đă quan sát và học hỏi được nhiều phong tục, tập quán của các người Á châu, lại nói được ít nhất bốn ngôn ngữ địa phương của đế quốc Mông Cổ, khiến cho Đại Hăn rất khâm phục trí thông minh của cậu và đă nhờ chàng thanh niên này thi hành các sứ mạng tại miền nam Trung Hoa, tại các xứ Bengal và Miến Điện. Do Đại Hăn ưa thích nghe kể về những ǵ chưa được biết tới, Marco Polo đă ghi chép nhiều chi tiết về những miền đất đă đi qua. Trong 17 năm trường phục vụ cho Đại Hăn, Marco Polo đă đặt chân tới từ miền bắc xứ Mông Cổ tới tận miền nam là Vân Nam, từ các tỉnh bờ biển phía đông tới xứ Tây Tạng về phía tây và c̣n được bổ nhiệm làm quan tại Hàng Châu (Hangchow). Marco Polo đă mô tả thành phố này giống như Venice của xứ Ư, được xây dựng trên các gịng sông với chu vi vào khoảng 100 dậm. Nơi này có hai ngàn cây cầu bắc qua sông và con đường lớn của thành phố rộng tới 40 bộ theo chiều ngang. Trên đại lộ chính này, có tới 10 trung tâm thương mại với các cửa tiệm bán thực phẩm, rượu, gia vị, và cả các nữ trang như ngọc trai. Mỗi tuần, người dân tại nơi đây họp chợ 2 hay 3 kỳ và Marco Polo đă mô tả cảnh phồn thịnh của sinh hoạt tại Hàng Châu. Nơi chợ có đủ mặt hàng, từ các thú vật như hươu, nai, công, trĩ, tới ḅ, heo, gà, vịt, các loại lá cây và trái cây, mùa nào thức nấy không thiếu chi. Trong khi cha Nicolo và chú Maffeo mải lo buôn bán nữ trang th́ Marco Polo đă đi công tác qua nhiều địa phương, biết rơ về đất nước Trung Hoa hơn phần lớn các người Mông Cổ và người Hán. Các lần đi công tác xa xôi không phải là an toàn v́ dọc đường thường có các trộm cướp, các dă thú, các thác ghềnh… Các đoàn lữ hành thường phải đóng trại vào ban đêm, đốt lửa để xua đuổi mănh thú. Marco Polo đă có dịp tới Tứ Xuyên, Vân Nam và Tây Tạng, một nơi đặc biệt tiêu xài bằng thứ tiền muối. Nơi đây có các suối muối và người dân đun muối trong các chảo nóng. Khi đă sôi trong một giờ, muối được cô đọng lại thành một loại bánh nặng chừng 3 gam, mặt dưới phẳng, mặt trên cong trên đó có đóng triện của nhà vua, để trở thành một thứ tiền tệ lưu hành trong dân chúng.

 

17 năm sống tại Trung Hoa, một thời gian quá lâu, đă làm cho các thương nhân này nhớ nhà, mong đợi được trở về thành phố Venice thân yêu. Marco Polo đă ghi lại rằng càng ngày, gia đ́nh Polo càng quyết tâm quay về v́ Đại Hăn càng già, nếu qua đời bất ngờ th́ khó ḷng xin được các ân sủng để trở về xứ sở. Rồi vào một ngày đẹp trời, Marco Polo chờ lúc Đại Hăn vui vẻ, đă sụp lậy dưới chân để xin cho ḿnh và gia đ́nh được phép ra đi. Vào lúc này, Đại Hăn đă tỏ ra bất b́nh. Nhà vua có quyền tuyệt đối, việc từ chối thường xẩy ra và ba người Ư sẽ trở thành các người tù măn đời trên đất Trung Hoa, và châu Âu sẽ không có cơ may được nghe kể về một xứ sở giàu sang, rực rỡ nhất vào thời đại đó.

 

3/ Cuộc trở về của Marco Polo.

 

Vào khoảng năm 1286, một thân nhân của Đại Hăn là Khả Hăn Tốc Bất Đài (Arghyn Khan) hiện đang cai trị xứ Ba Tư, đă phái sứ giả về Trung Hoa yêu cầu Đại Hăn kén chọn cho một cô vợ mới. Một thiếu nữ 17 tuổi, đầy đủ tài sắc, đă được tuyển lựa và phái đoàn này đă lên đường về Ba Tư theo đường bộ. Nhưng sau một năm, đoàn lữ hành đă phải quay lại Yên Kinh v́ chiến tranh giữa các bộ lạc địa phương. Chính vào thời gian này, Marco Polo cũng mới trở về sau một chuyến đi công tác xa và đă được phái đoàn Mông Cổ tại xứ Ba Tư yêu cầu hướng dẫn họ bằng đường biển. Chương tŕnh cuộc trở về châu Au được tŕnh lên Đại Hăn và nhà vua bất đắc dĩ phải nhận lời, bằng ḷng để Marco Polo với cha và chú ra đi, đồng thời Đại Hăn cũng gửi theo đoàn vài bức thư viết cho các nhà vua của châu Âu.

 

Năm 1292, một đoàn thuyền gồm 14 chiếc với hàng trăm người hộ tống, gồm có đoàn sứ giả Mông Cổ từ Ba Tư với cô dâu mới, gia đ́nh Polo, đă ra khơi từ Hàng Châu, xuôi về phía nam, qua gần bờ biển Việt Nam, tới Singapore, Sumatra, ghé Ấn Độ, Tích Lan rồi men theo mỏm cực nam của lục địa Ấn Độ và tới hải cảng Hormuz. Cuộc hành tŕnh này kéo dài mất hai năm và trên đường đi, Marco Polo đă ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe về đất đai, con người, sinh vật… mà người châu Âu chưa từng biết tới. Marco Polo đă mô tả con tê giác là loại thú có một sừng, kể chuyện về cướp biển… Các gian nguy trên đường về đă cướp đi nhiều mạng sống. Cuối cùng, đoàn sứ giả cũng tới được nước Ba Tư và cô dâu được giao cho triều đ́nh Mông Cổ địa phương nhưng Khả Hăn Tốc Bất Đài đă qua đời và cô dâu được gả cho người con của Khả Hăn. Đường về từ xứ Ba Tư tới thành phố Venice c̣n khá xa. Marco Polo đă theo đường bộ, băng qua xứ Ba Tư, tới thành phố Trebizond bên bờ Hắc Hải rồi dùng thuyền, qua Constantinople. Trong cuộc hành tŕnh, Marco Polo nghe tin báo rằng Đại Hăn đă qua đời năm 1294.

 

Cuối cùng vào năm 1295, hai ông Nicolo và Maffeo cùng với Marco Polo đă cập bến cảng Venice, sau 24 năm vắng mặt và cuộc hành tŕnh đi và về dài 15,000 dậm hay 24,000 cây số. Dân địa phương và các người họ hàng đă không nhận ra và nhớ được ba kẻ lữ hành này v́ họ đă vắng mặt quá lâu, tiếng nói pha lẫn giọng phát âm Mông Cổ. Ông Nicolo đă tổ chức một bữa tiệc khoản đăi các người trong gịng họ và bạn thân rồi sau bữa ăn, ba thương nhân Polo đă dùng dao, rạch các chiếc áo mà họ đă mặc trên đường trở về từ xứ Trung Hoa, đổ lên bàn nào là vàng bạc, ngọc trai, kim cương, hồng ngọc và các loại đá quư khác. Vào lúc này, Marco Polo ở vào tuổi trên 40 và không c̣n nghĩ tới chuyện đi xa nữa.

 

Đă từ lâu, Genoa và Venice là hai thành phố thù nghịch nhau. Năm 1296, quân lính Genoa đă đánh chiếm Venice và Marco Polo bị bắt. Không có sử gia nào cho biết về các lư do bị cầm tù này. Khi nằm trong nhà tù, Marco Polo đă kể lại các lần đi xa của ḿnh và trong số các bạn tù ngồi nghe, có một văn sĩ chuyên nghiệp từ miền Pisa, tên là Rustichello. V́ bị hấp dẫn bởi cuộc hành tŕnh, Rustichello đă yêu cầu Marco Polo cho mượn cuốn sổ ghi chép. Từ các câu chuyện kể lại và cuốn nhật kư, Rustichello đă dùng lối viết văn của minh, mô tả lại chuyến viễn du của Marco Polo và cuốn truyện được hoàn tất một năm trước khi Marco Polo được thả ra khỏi nhà tù vào năm 1299.

 

Cuốn truyện có tên là “Mô tả về Thế Giới” (Description of the World) được Rustichello viết bằng tiếng Pháp cổ, là ngôn ngữ văn chương của nước Ư vào thời kỳ đó. Cuốn truyện cho biết các tin tức đầu tiên về nước Trung Hoa mà vào thời đó c̣n được gọi là “Cathay” và Marco Polo đă kể về sự giàu sang của Đại Hăn Hốt Tất Liệt, về cách khai mỏ và dùng than đá, một loại nhiên liệu mà người châu Âu chưa được biết tới. Marco Polo cũng mô tả cách dùng tiền giấy trên đó có dấu ấn của nhà vua, các phong tục của xứ Trung Hoa, các lâu đài tráng lệ, cùng nhiều sự việc mà người châu Âu thời đó đă không tin, một phần cũng do Marco Polo nói quá sự thật.

 

Vào đầu thế kỷ 14, ngành ấn loát chưa được phát minh ra tại châu Âu. Cuốn truyện “Mô tả về Thế Giới” của Marco Polo đă được một số học giả chép tay và phổ biến, gợi trí ṭ ṃ, gây ảnh hưởng tới các nhà thám hiểm. Sau khi hai xứ Genoa và Venice tái lập ḥa b́nh năm 1299, Marco Polo được thả ra khỏi tù. Ông lập gia đ́nh và đă có ba con gái nhưng không giàu có lúc qua đời vào năm 1324 mặc dù các vàng ngọc mang về từ xứ Trung Hoa. Marco Polo trở nên nổi tiếng tại địa phương nhờ các câu chuyện hấp dẫn, khó tin và khi đó nhiều người bạn hỏi nhà thám hiểm có muốn bỏ bớt những phần nói quá sự thật không, th́ ông đă trả lời “ tôi mới chỉ kể ra một nửa những ǵ trông thấy”.

 

Các điều quan sát và tường thuật của Marco Polo đă gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ, tới các học giả, các nhà địa dư, các thợ vẽ bản đồ và các nhà thám hiểm. Một trong các nhầm lẫn của Marco Polo là đă đặt xứ Nhật Bản giữa Trung Hoa và châu Âu. Sự giàu sang của châu Á đă hấp dẫn các nhà thám hiểm như Christopher Columbus. Họ tin tưởng rằng con người nếu không dùng đường bộ, th́ có thể dùng đường biển để tới được xứ Trung Hoa.

 

Trong thời Trung Cổ tại châu Âu, chưa có nhà thám hiểm nào đi xa về phía đông như Marco Polo, một nhân vật đă kể về các nền văn hóa khác, xa lạ với những điều hiểu biết của người đương thời, đă đóng góp vào việc mở ra các liên lạc đông tây về mậu dịch và kiến thức.

 

Thời đại thám hiểm và khám phá (1420-1620)

 

 

Phạm Văn Tuấn

 

1- Nguyên do thám hiểm.

 

Trong lịch sử của thế giới tây phuơng và trong hai thế kỷ giữa các năm 1420 và 1620, người châu Âu đă mạo hiểm, vượt biển để đi t́m hiểu các miền đất xa lạ. Sự khám phá của họ đă đưa đến việc thuộc địa hóa và định cư tại các vùng đất mới, đă mang lại cho họ các sản phẩm mới, tài sản mới, cơ hội mới, vấn đề mới và cách suy nghĩ mới. Cũng do các công cuộc thám hiểm và khám phá của người châu Âu này mà các quốc gia mới được thành lập, chẳng hạn quốc gia Hoa Kỳ.

 

Các nhà thám hiểm với tên họ quen thuộc với chúng ta như Vasco da Gama, Christopher Columbus, Ferdinand Magellan… đă ra đi v́ các mục đích nào, bằng các phương tiện nào và đă đạt được các thành quả nào? Tại sao các công cuộc thám hiểm và khám phá lại bắt đầu do các quốc gia Tây âu, mà không phải do các nước đă có một nền văn minh tương đối phát triển như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản tại châu Á, do các nước theo đạo Hồi tại châu Phi và miền Trung Đông, do các xứ Aztecs, Inca và Maya của miền Trung Mỹ? Vào thời kỳ đó, các miền đất kể trên đă là các lănh thổ rộng lớn hơn, có các tŕnh độ văn minh cao hơn các quốc gia Tây Âu. Các quốc gia như Trung Hoa đă có dân số phát triển, có nền văn minh riêng với khoa học, kỹ thuật và văn chương, họ có cả các cuốn sách và bản đồ mô tả về lănh thổ của họ.

 

Vào thời kỳ Đen Tối (the Dark Ages), những người Scandinavian đă tới được miền Bắc Mỹ trước Christopher Columbus rồi trong thế kỷ 13, đă có những nhà thám hiểm như Giovanni de Plano Carpini, Willen van Rujsbroek và Marco Polo… Thời đại thám hiểm liên quan tới thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance) theo đó con người bắt đầu t́m hiểu các hiện tượng thiên nhiên, xét lại các thành quả cũ đă đạt được với sự trong sáng mới, cách khảo cứu và suy luận mới . . .

 

Vào đầu thế kỷ 15, phương pháp thám hiểm hàng hải bắt đầu được tổ chức theo hệ thống, nhờ đó các kỹ thuật đi biển được cải tiến. Việc thám hiểm và khám phá được các vua chúa và các nhà tài chính chủ trương, khuyến khích. Họ hiểu rằng các con tầu biển tốt hơn, cùng với các dụng dụ đo lường chính xác hơn, các phương pháp vẽ bản đồ và kỹ thuật đi biển mới… đă khiến cho các hải tŕnh xa hơn, khó khăn hơn được thực hiện. Vào thời kỳ đó, người châu Au đă biết rằng có các quốc gia như Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ…, việc t́m cách tới được những quốc gia này sẽ mang lại lợi ích nhờ thương mại. Các quốc gia dẫn đầu trong việc thám hiểm và khám phá là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp và Ḥa Lan. Trí tưởng tượng phong phú của người châu Âu, các nhu cầu đặc biệt của thời kỳ đó đă khiến cho họ đi t́m hiểu thế giới bên ngoài. Châu Âu của thời kỳ Phục Hưng rất cần các kim loại quư và các thứ hương liệu (spices).

 

Vào thời Trung Cổ (the Middle Ages), các thương gia của châu Âu đă trao đổi để có vàng, lụa và các loại hương liệu của miền Viễn Đông nhưng sang thế kỷ 15, các chính quyền của châu Âu đă tham gia vào việc khám phá, không phải do ḷng tham mà do nhu cầu. Châu Âu vào thời kỳ này đă thiếu kim loại quư để đúc tiền. Các mỏ vàng tại Ai Nhĩ Lan (Ireland) đă cạn, các mỏ bạc tại Đức dù cho khá phong phú cũng không đáp ứng được sức cầu. Không có tiền đúc ra, sẽ không có sự trao đổi tài chính và nền thương mại không thể phát triển. Các khối vàng bạc để đúc tiền không những tượng trưng cho sự giàu có mà c̣n là một phương tiện để làm tăng thêm sự giàu có.

 

Vào thời kỳ Phục Hưng, thực phẩm chỉ có thể lưu trữ được nhờ muối rồi sau đó, nhờ cách ướp bằng các hương liệu v́ thời bấy giờ chưa có kỹ thuật đông lạnh, và các phương tiện vận chuyển thực phẩm c̣n thô sơ. Gia vị như vậy rất cần thiết ngoài lợi ích giúp cho đồ ăn các hương vị đặc biệt.

 

Nhu cầu thưa ba của việc thám hiểm và khám phá là niềm tin tôn giáo. Các người sùng đạo đă muốn làm vừa ḷng Thiên Chúa bằng cách giảng đạo và cải biến những kẻ dị giáo theo họ. Dân chúng và chính quyền tây phương vào thời kỳ này đă tin tưởng rằng nhiệm vụ của họ là làm cho các người khác tôn giáo hay vô tôn giáo có cùng niềm tin như chính họ. Nhu cầu này c̣n có một lợi ích thực tế khác là những thổ dân theo đạo mới đă trở nên dễ bảo hơn, các tù trưởng cải đạo đă cộng tác và phục vụ chân thành hơn cho các người châu Âu. Cũng v́ thế, mặc dù biết rằng công cuộc thám hiểm thành công hay thất bại được căn cứ vào số vàng bạc và hương liệu mang về, Christopher Columbus c̣n ghi thêm vào sổ về miền đất mới của châu Mỹ một cách thành thực rằng: “tôi cho rằng điều ước mong chính của nhà Vua của chúng tôi là cải biến dân tộc này theo niềm tin của Chúa”. Người biện hộ cho các hoạt động thám hiểm của nước Anh là Richard Hakluyt đă phát biểu rằng việc mở rộng lănh thổ của Nữ Hoàng Anh sẽ mang lại lợi nhuận, quyền lực, danh dự và cả việc làm sáng danh Chúa bằng cách ươm trồng tôn giáo vào các kẻ dị giáo hay không có tín ngưỡng.

 

Vào thời kỳ Phục Hưng, việc quan tâm tới thám hiểm và khám phá không phải lư do kiến thức (knowledge). Các người châu Âu chỉ muốn khai thác các mỏ kim loại quư rồi sau đó, lo bảo vệ các con đường thương mại đă được t́m thấy. Cũng vào lúc này, các người châu Âu biết rằng nhờ các con tầu biển, các thủy thủ gan dạ có thể tới được bất cứ miền đất nào có bờ biển rồi quay về xứ an toàn. Đây là điều quan trọng nhất. Các người Norse (Norsemen) đă vượt qua vùng biển bắc Đại Tây Dương bằng các con thuyền có lẽ được trang bị bằng một cánh buồm và họ có thể đi khá xa. Người Scandinavian đă t́m cách vượt biển, di cư tới miền đất mới v́ quê hương của họ chật hẹp và đông người. Trái với hai giống người kể trên, các nhà thám hiểm châu Âu thuộc thế kỷ 15 lại có một quan niệm khác : họ muốn trở về quê hương, mang về các tài sản kiếm được.

 

2- Phương tiện thám hiểm.

 

Vào thế kỷ 15, đă có những người đi biển tại châu Á dùng thuyền có buồm, vượt qua Ấn Độ Dương để đi từ Ấn Độ tới đảo Madagascar và ngược lại, nhưng những phương tiện hải hành này phải nhờ vào các trận gió, các gịng nước biển thuận lợi. Trên các vùng biển quanh Ấn Độ, tại Hồng Hải (the Red Sea) và tại phía đông châu Phi, các con thuyền Ả Rập (the Arab dhow) đă bơi xuôi ngược, nhưng loại thuyền này không thích hợp với việc vượt biển khám phá và t́m hiểu, v́ mạn thuyền được khâu lại bằng thứ sợi dây dừa, nên không vững chắc như loại tầu biển có đóng đinh. Loại buồm một cánh h́nh tam giác của người Ả Rập đă không hơn được thứ buồm h́nh vuông của châu Âu. Tầu biển của người Tây phương vào thế kỷ 15 là sự phối hợp của hai kỹ thuật thuyền có buồm vuông của miền Bắc Hải (the North Sea) với loại thuyền chèo (oared galley) của vùng Địa Trung Hải. Chính việc thương mại giữa hai miền bắc và nam của châu Âu đă khiến cho hai loại thuyền kể trên được phối hợp để cải tiến thành một thứ tầu biển đi xa được. Tầu biển của châu Âu vào thời kỳ này dùng buồm, không dùng sức chèo, lại được lắp các khẩu súng tại hai bên sườn nhờ vậy hỏa lực rất mạnh và hữu hiệu khi tác chiến.

 

Qua nhiều thế kỷ đi biển, các quốc gia châu Âu đă có kinh nghiệm tại vùng biển English Channel, tại các vùng nước băng tuyết giữa Greenland và Scandinavia. Các thủy thủ là những người không có học vấn, không quan tâm về tôn giáo nhưng có truyền thống tận tụy, chịu đựng được gian khổ, tuy thế tỉ lệ thủy thủ trở về nhà sau các chuyến hải hành là 50 phần trăm v́ các thủy thủ thường mắc bệnh hoại huyết và các bệnh thiếu dinh dưỡng, v́ gặp băo táp và mắc cạn tại các vùng biển xa lạ, v́ gặp thổ dân ăn thịt người và các bất trắc khác. Như vậy tại sao lại có những người t́nh nguyện làm việc trên các con tầu viễn du?

 

Không có tài liệu nào cắt nghĩa các động lực theo đó có các thủy thủ t́nh nguyện, nên người ta chỉ có thể phỏng đoán có lẽ do lương bổng trả cao hơn tại các cuộc mạo hiểm, bởi v́ các chuyến vượt biển đi thám hiểm được tài trợ bởi ngân quỹ của nhà vua hay do vốn đóng góp của một số nhà buôn giàu có. Cũng vào đầu thế kỷ 15, tuổi thọ của người dân vào khoảng 30 năm và cuộc sống trên đất liền cũng khó khăn và bất chắc, số nông dân và thương nhân bị chết v́ bệnh dịch nhiều như số thủy thủ chết v́ bệnh hoại huyết. Khi tầu đă ra khơi, thuyền trưởng thường dùng tới nhiều thủ đoạn đối với thủy thủ đoàn, thường là các lời tán dương, hăm dọa, lường gạt, các khoảng cách giả, các bản đồ bỏ bớt những hải đảo mà tầu biển có thể ghé vào.

 

Theo các sổ nhật kư ghi chép trên các con tầu thám hiểm, các lời than van của thủy thủ không phải là về các hiểm nguy hay cực nhọc trên tầu, mà là sự nhàm chán của chuyến đi và sự ít cơ may trở về nhà. C̣n đối với thuyền trưởng, một trong các nguyên do thúc đẩy họ đi thám hiểm là hy vọng kiếm được nhiều tài sản, thế nhưng không một thuyền trưởng nào qua đời trong cảnh giàu sang, kể cả Christopher Columbus. Chỉ có các nhà chinh phục (conquistador) cai trị tại Ấn Độ và tại các xứ Mỹ Châu của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới giàu sang cho đến chết. Cho nên một trong các động lực của các thuyền trưởng là sự vinh quang cá nhân. Họ thích nổi danh v́ gan dạ, v́ khôn ngoan và tài giỏi. Tại Mễ Tây Cơ, Hernando Cortes đă bắt chước các hành động oai hùng của người La Mă. Ngoài ra, tại châu Âu vào đầu thế kỷ 15, con người đă có một phần nào tự do hành động, không bị trói buộc như tại xă hội Trung Hoa, nơi có gia đ́nh kiềm chế, hay tại Ấn Độ nặng về giai cấp xă hội. Tôn giáo của châu Âu là Thiên Chúa Giáo, vừa mang tính bành trướng, vừa có tính quân sự (militant). Trái với đạo Hồi chủ trương một cuộc sống tốt đẹp sau khi đă chết, đạo Thiên Chúa nhấn mạnh về hạnh phúc nơi dương thế và người theo đạo Thiên Chúa có tính tự tôn trong hành động.

 

Vào thế kỷ 14, các nền chính trị và kinh tế đă sống lại tại nước Ư. Dân chúng thành phố gia tăng đă khiến sinh ra các nhu cầu thực tế trong đó có nhu cầu Giáo Dục phổ thông, ngoài nhiều nhu cầu thuộc các phạm vi khác như Văn Thơ và Triết Học, Kiến Trúc và Y Học. Nước Ư vào thời bấy giờ gồm nhiều xứ tự trị nên mỗi khi có xứ nào bị chiến tranh tàn phá th́ các xứ khác vẫn phát triển và do người dân Ư dùng tới loại lính đánh thuê nên đời sống tại các thành thị của họ ít bị ảnh hưởng. Chính v́ thế, nền văn hóa cổ điển đă được phục hưng, đại diện chính là tác phẩm “Quân Vương” (the Prince) của Machiavelli và các công tŕnh điêu khắc của Michelangelo vào thế kỷ 16. Ngoài ra các học giả người Ư c̣n nổi tiếng trong các bộ môn Toán Học, Thiên Văn và Địa Dư.

 

Đồng thời với sự phát triển tại nước Ư, các nước tại phía tây của châu Âu cũng có những nét đặc thù : nền thương mại trở nên phức tạp hơn với ngành tài chính được chính quyền quan tâm tại các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các xứ Đức Phổ. Riêng hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đă đạt được các tiến bộ đáng kể về phép vẽ bản đồ và kỹ thuật đi biển. Những căn bản này rất quan trọng đối với các nhà thám hiểm v́ được rút ra từ kiến thức cổ điển của nước Ư cộng với các kinh nghiệm của các thủy thủ cao tay nghề, với các nguyên tắc địa dư, toán pháp của các nhà toán học người Ả Rập và với sự học hỏi do các trao đổi thương mại tại các xứ Hồi Giáo.

 

V́ vậy không đáng ngạc nhiên khi thấy nước Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm bờ biển phía tây của châu Phi vào đầu thế kỷ 15 rồi sau đó nước Tây Ban Nha cũng theo đuổi chính sách khám phá. Hai quốc gia này nằm trên bán đảo Iberian rất thuận tiện cho việc ra biển, lại quen thuộc với loại tầu biển của hai miền biển Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Các tầu buồm ra khơi từ hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đă sớm biết lợi dụng các luồng gió mùa, mùa xuân tới đầu mùa hè, gió thổi theo hướng tây nam hướng ra Đại Tây Dương, rồi đổi hướng thổi, đưa các con tầu buồm trở về bến vào mùa thu.

 

Vào thời kỳ đầu của giai đoạn thám hiểm, hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đă dấu kín các điều khám phá. Các khám phá của Vasco da Gama, của Ferdinand Magellan hay của Sebastian del Cano đă không được phổ biến, c̣n nhật kư của Christopher Columbus tuy c̣n được lưu lại nhưng chỉ là một bản tóm tắt do một người khác sao chép. Sự kín đáo này một phần cũng do các thuyền trưởng là những người thực tế, không quen với việc mô tả, ghi chép. Họ cũng không muốn cung cấp các điều khám phá cho ai ngoài các bậc vua chúa bảo trợ họ. Các chính quyền Tây Âu th́ muốn giữ độc quyền các nguồn lợi khai thác tại các miền đất mới nên càng khuyến khích sự bảo mật. Các chi tiết về khám phá v́ thế thường được ghi chép do các nhà kư sự (chroniclers) hay các nhà du lịch tài tử và những người này thường căn cứ vào các lư thuyết cổ điển, các điều ước đoán thiên văn cũng như vào các kinh nghiệm thu lượm được.

 

Trong khi hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang theo đuổi các chương tŕnh thám hiểm và dấu kín các khám phá, th́ tại hai hải cảng Lisbon và Seville, các con tầu biển trở về sau các chuyến hải hành đă mang về nào hương liệu, ngà voi, nào phẩm nhuộm… và cả người nô lệ. Các thương gia ngoại quốc buôn bán tại các hải cảng kể trên thường được nghe kể về các chuyến đi. Họ ghi chép các tin tức mới lạ, hối lộ để sao chép các bản đồ… rồi chính quyền của các nước quanh vùng đă phải quan tâm tới cảnh giàu sang mới, quyền lực mới. Đầu tiên là nước Anh, tới nước Pháp rồi tới cuối thể kỷ 16 có nước Ḥa Lan cũng tham gia vào danh sách tranh đua khiến cho việc thám hiểm trở nên một phong trào của châu Âu.

 

Trong 2 thế kỷ với một số thủy thủ gan dạ, vài quốc gia của châu Âu đă đi vào các vùng biển xa lạ, bắt cóc một số thổ dân rồi dần dần lập nên các khu vực chiếm đóng tại những địa phương đă thám hiểm. Thành công của họ là do kỹ thuật, do tâm lư muốn xâm chiếm đất đai và chế ngự các dân tộc khác. Sự đô hộ của người châu Âu đă gặp ít chống đối tại các bộ lạc kém văn minh như bộ lạc Arawark của miền Tây Ấn, hay bộ lạc Tupinamba sống tại xứ Brazil. Người da đỏ chuyên săn bắn sinh sống tại Bắc Mỹ, tại vùng đất giữa Ngũ Hồ và các tiểu bang Carolina, đă lập được hệ thống chính quyền tương đối cao nên đă kháng cự lại số người da trắng di cư tới. Nhưng khuyết điểm của họ là v́ họ tin tưởng vào các thần linh cư ngụ tại mỗi nơi, như các tảng đá, cây cao, thú vật… cũng v́ thế họ đă thỏa hiệp với những kẻ xâm lăng và đành sống lùi xa nơi khai phá của người da trắng.

 

Tại miền Trung Mỹ, giống người Maya của các miền Yucatan và Guatemala đă biết trồng ngũ cốc, sống trong các thành phố và duy tŕ được một thứ tổ chức chính quyền liên bang đơn giản. Họ có văn hóa, biết dùng các số đếm kể cả số không. Người Tây Ban Nha khi xâm lăng các vùng đất này đă gặp may mắn nhờ người Maya mới bị suy yếu v́ nội chiến, và vũ khí của họ không tinh sảo bằng thứ của người châu Âu. Hai thổ dân văn minh nhất của châu Mỹ là người Aztecs thuộc miền Trung Mỹ và người Inca của miền Peru, cũng phải đầu hàng trước súng đạn của người Tây Ban Nha, rồi do truyền thống vâng lời và kỷ luật, hai sắc dân kể trên đành tuân phục các kẻ xâm lăng.

 

Tại châu Á, các người châu Âu đă tiếp xúc với người Trung Hoa dưới triều Minh vào thế kỷ 15. Đây là xứ sở với văn hóa và nghệ thuật cao hơn thứ của châu Âu, nhưng v́ người Trung Hoa đă tự măn, một phần v́ tôn giáo, phần khác v́ bị vây quanh bởi một hệ thống thư lại khép kín và tham nhũng, họ đă không muốn tiếp xúc với các dân tộc khác.

 

Vị giáo sĩ Ḍng Tên người Ư tên là Matteo Ricci tới Trung Hoa năm 1582 và đă sống tại đó trong 28 năm cho tới khi chết, đă nói rằng người Trung Hoa không có ư niệm về thế giới bên ngoài. Trong khi tại châu Âu, các tiến bộ về Khoa Học và Kỹ Thuật đang phát triển th́ tại Trung Hoa, các bộ môn kể trên không được giới trí thức quan tâm, nhất là về Toán Học và Y Khoa.

 

Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản cũng là một quốc gia có một nền văn hóa rất rực rỡ, đặc biệt với hai ngành Kiến Trúc và Hội Họa. Cho tới thế kỷ 16, nước Nhật Bản đă ở vào t́nh trạng vô chính phủ trong ba thế kỷ và cũng giống như nước Trung Hoa, người Nhật Bản đóng cửa với thế giới bên ngoài. Sự cấm đoán đă dẫn tới các đạo luật năm 1635 kết tội tử h́nh những người đi ra khỏi xứ.

 

Như vậy trong số các dân tộc văn minh vào đầu thế kỷ 15, người châu Âu đă có được các tiến bộ Khoa Học, Kỹ Thuật, rồi nhờ căn bản Kỹ Thuật, họ đă theo đuổi các chương tŕnh thám hiểm và khám phá các miền đất mới, nơi có các thổ dân hoặc quá sơ khai hay không được vơ trang, hoặc bị chia rẽ nội bộ hay đóng cửa, làm ngơ trước các kẻ xâm lăng.

 

Trong thời đại khám phá (1420-1620), các nhà thám hiểm người châu Âu đă vượt biển, t́m hiểu những điều chưa biết, họ đă tin tưởng rất ít vào lư thuyết, không ỷ lại vào sự yểm trợ của chính quyền tại quê nhà, họ đă dùng tới kỹ năng của riêng họ cùng với ḷng cam đảm và khả năng ứng biến để chinh phục các dân tộc khác và các miền đất mới.

 

3- Các thuyền trưởng của Hoàng Tử Henry.

 

Vào thời Trung Cổ, các người châu Âu tin rằng thế giới gồm 4 lục địa là châu Âu, châu Phi, châu Á và một vùng đất được hiểu biết lờ mờ, nằm tại phía nam và được gọi bằng tên Terra Incognita. Các bản đồ của thời kỳ này đă mô tả phần đất nhiều hơn phần biển. Người ta chưa biết tới Thái B́nh Dương. Đại Tây Dương được vẽ như một con sông nhỏ và vùng đất Terra Incognita đă nằm ở phía nam khiến cho Ấn Độ Dương chỉ là một biển nhỏ nằm trong đất liền.

 

Sự sai nhầm trong cách mô tả này một phần do tŕnh độ hiểu biết của các nhà vẽ bản đồ, một phần cũng do niềm tin tôn giáo. Do truyền thống của đạo Thiên Chúa, thành phố Jerusalem được coi là trung tâm của thế giới, là tâm của thứ bánh xe tṛn với 4 lục địa ở chung quanh. Các bản đồ vẽ thế

 

4- Nhà thám hiểm Vasco da Gama.

 

1460, Hoàng Tử Henry qua đời. Sự kiện này đă làm tiêu tan động lực thúc đẩy các nhà thám hiểm Bồ. Nhưng việc t́m hiểu các miền đất mới đă không ngừng lại. Đường Xích Đạo được Lopo Goncalves băng qua vào năm 1473 mà không một thủy thủ nào bị cháy thành than! Các thám hiểm vẫn tiếp tục nhưng số lượng vàng bạc mang về xứ không được nhiều như trước, người thời đó đành hy vọng ở các hương liệu. Câu hỏi đặt ra cho họ là làm sao tới được Ấn Độ và muốn vậy, châu Phi phải là một lục địa tṛn trong khi bờ biển của lục địa này vẫn tiếp tục trải dài hướng về phía nam.

 

Sau Bồ Đào Nha, nước Tây Ban Nha bắt đầu chiếm được một số hải cảng trên các miền bờ biển châu Phi. Đă xẩy ra một số tranh chấp giữa hai nước lân bang này. Để dành riêng châu Phi cho ḿnh và giải quyết mọi tranh chấp, nước Bồ đă trông cậy vào vị Giáo Hoàng. Trong nhiều thế kỷ, giáo hội Thiên Chúa đă từng là trọng tài của các quốc gia theo Thiên Chúa giáo, nhưng ảnh hưởng của Giáo Hoàng đă bị kém dần. Tuy thế, từ năm 1455, nước Bồ Đào Nha đă nhận được một loạt các công bố của Giáo Hoàng cho họ tất cả các hải đảo và miền đất phía nam Cape Bojador. Năm 1478, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella của các vương quốc Aragon và Castile, đă xin Giáo Hoàng đặc quyền buôn bán với xứ Guinea và đă bị từ chối trong khi tầu buôn Tây Ban Nha vẫn tiếp tục đáp vào vịnh Guinea để t́m bắt nô lệ. Tại bến cảng Seville, các con tầu mang về dân nô lệ da đen là những h́nh ảnh quen thuộc, chứng tỏ các hoạt động thám hiểm của người Tây Ban Nha tới các miền đất của châu Phi.

 

Sau đó, nước Anh cũng xin phép Giáo Hoàng được quyền tới châu Phi và buôn bán. Trước những John II, vua Portuga lcạnh tranh của các quốc gia khác nhau, Vua Bồ Đào Nha John II bèn ra lệnh cho Diego Cao thực hiện một loạt các thám hiểm để t́m đường đi tới Ấn Độ. Các tầu viễn du của Diego Cao được cung cấp các cột mốc bằng đá, có ghi rơ bằng tiếng La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Ả Rập để đánh dấu những nơi t́m ra và nhận chủ quyền về cho nước Bồ Đào Nha. Diego Cao đă đóng một cột đá tại cửa sông Congo vào năm 1483 và một cột khác tại Cape Cross, 22 độ phía nam của Xích Đạo. Nhà thám hiểm Cao đă đi dọc bờ biển được 1,500 dặm, từ Cape St. Catherine tới Cape Cross nhưng lục địa châu Phi vẫn tiếp tục trải dài vô tận về phía nam.

 

Năm 1487, Vua John lại phái Bartolomeu Dias với ba tầu biển, chủ đích đi ṿng lục địa châu Phi và nếu có thể th́ bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John. Kết quả của các lần đi thám hiểm của Dias vẫn được giữ kín như trước kia và sau này, người ta được biết rằng Bartolomeu Dias đă tới được địa điểm mà ngày nay là Luderitz, 520 dặm về phía tây bắc của Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Một trận băo đă thổi con tầu của Dias ṿng qua Mũi Hảo Vọng và khi cơn gió dịu đi, Dias đă t́m nơi trú ẩn trong vịnh Mossel rồi sau đó, dương buồm tới địa điểm có tên hiện nay là Port Alfred. Trên đường về, nhà thám hiểm đă gọi mũi đất nhô ra biển nhiều nhất của phần phía nam của châu Phi là Mũi Phong Ba (Cape of Storms) và về sau, Vua John đă đổi tên là Mũi Hảo Vọng, với hy vọng ở tương lại tốt đẹp.

 

Tới lúc này, Xích Đạo đă được các tầu biển Bồ Đào Nha vượt qua nhiều lần và không một thủy thủ nào bị đốt cháy thành than. Các truyền thuyết cổ về những hiểm nguy đă bị bác bỏ và đă có tầu biển ṿng qua được mỏm cực nam của châu Phi. Người Tây phương khi bước lên bờ, thám hiểm các miền đất mới, đă gặp các loại thổ dân khác nhau. Hỏa lực, gươm giáo và áo giáp của họ đă cho phép họ chiếm đoạt bất kể món hàng nào mà họ muốn có, ngay cả khi thổ dân thù nghịch, chống cự.

 

Cũng vào năm 1487 khi sai Dias đi thám hiểm miền biển cực nam của châu Phi, Vua John của Bồ Đào Nha c̣n gửi đi hai phái đoàn cùng tới Aden theo đường bộ, một đoàn với chủ đích t́m ra con đường dẫn đến các nơi giàu có của phương đông, đoàn kia t́m cách bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John. Pero da Covilha được lệnh đi qua Arabia để tới Ấn Độ. Ông này đă t́m thấy con đường biển mà các con tầu Hồi giáo thường chuyên chở hương liệu vượt qua Ấn Độ Dương để tới châu Phi. Nhà thám hiểm thứ hai cũng thông thạo tiếng Ả Rập như Covilha, là Afonso de Paiva. Đoàn thám hiểm này đi sâu vào lục địa châu Phi từ phía đông bắc, lục t́m tại xứ Ethopia ngày nay.

 

Cũng giống như các điều t́m thấy của Bartolomeu Dias, khám phá của hai đoàn thám hiểm kể trên được giữ kín. Covilha đă tới Calicut, là một thành phố ở phía tây của xứ Ấn Độ (Calcuta ở phía đông). Tại nơi này, các con thuyền gỗ của Trung Hoa và của miền đông Ấn Độ chuyên chở tới nào hương liệu, vàng bạc, nào tơ lụa và đồ sứ… Các mặt hàng quư giá này sau đó được chuyển tới vịnh Ba Tư và tới miền đông của châu Phi.

 

Covilha thực ra không phải là người châu Âu đầu tiên tới được xứ Ấn Độ. Trước đó đă có các thương nhân từ Cairo đi theo biển Hồng Hải, rồi c̣n có những lái buôn khác từ các thành phố Venice, Genoa…, từ các xứ Pháp và Ḥa Lan. Covilha sau đó đă đi ngược về vịnh Ba Tư và tới Sofala, phía nam của Beira thuộc châu Phi. Tại nơi này, ông ta đă nghiên cứu thấy rằng Ấn Độ Dương tiếp nối với Đại Tây Dương và như vậy, từ châu Âu có thể dùng đường biển để đi ṿng phía dưới châu Phi tới Ấn Độ.

 

Khi tới Cairo vào năm 1490, Covilha mới biết tin nhà thám hiểm Paiva đă chết. Lệnh của Vua John II bắt ông phải đảm nhiệm sứ mạng của Paiva bỏ dở. Covilha t́m đường tới được triều đ́nh của vua xứ Ethopia và đă thấy rơ không có vị Vua Giáo Sĩ nào là Prester John cả. Năm 1520 có một phái đoàn khác của triều đ́nh Bồ Đào Nha tới được xứ Ethopia và đă gặp lại ông Covilha già nua tại triều đ́nh của xứ này, v́ Vua Ethopia đă không cho phép ông ta ra đi, nhưng chắc chắn là các báo cáo của Covilha cũng đă tới được tay của Vua John II của Bồ Đào Nha. Sau khi vị vua này chết năm 1495, vua kế tiếp là Manuel vẫn tiếp tục chính sách mở đường tới Ấn Độ.

 

Nhà thám hiểm đi theo con đường của Dias khi trước và được vua Manuel chọn lựa là Vasco da Gama. Không c̣n tài liệu nào nói về cuộc đời của Da Gama ngoài chi tiết ông ta sinh năm 1460, là con của một viên chức nhỏ nhưng chắc hẳn ông ta đă có một thành tích đáng kể về đi biển. Da Gama được lệnh điều kiển bốn con tầu trong đó ba chiếc được đóng dưới sự giám sát của Bartholomeu Dias, là tầu chỉ huy Sao Gabriel, tầu Sao Raphael, c̣n tầu thứ ba có tên gọi không c̣n được ghi lại và Berio là con tầu thứ tư.

 

Ngày 8 tháng 7 năm 1497, Vasco da Gama đă cho tầu rời hải cảng Lisbon. Có lẽ do lời khuyên của Dias, hải tŕnh kỳ này đă không theo sát bờ biển của miền tây châu Phi mà ṿng ra xa để tránh các gịng nước không thuận tiện và các băi đất ngầm. Da Gama đă lợi dụng được luồng gió mùa và sau ba tháng, vượt hơn 4,000 dặm, đoàn tầu đă tới được bờ biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc của Cape Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp tục dương buồm về hướng đông. Trên đường đi, Da Gama đă đặt tên cho các địa điểm như Natal với ư nghĩa là Ngày Sinh của Chúa, hay gịng sông “Các Điềm Lành” (the River of Good Omens). Khi tới hải cảng Mozambique, Da Gama đă gặp các thương nhân có h́nh dáng kỳ dị, các người Ả Rập và thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đă có một cộng đồng người Ấn Độ cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi này đă khiến cho Da Gama tin rằng Vua Giáo Sĩ Prester John ở không xa đó, sâu vào trong đất liền.

 

Sau khi Vasco da Gama thuê được một thủy thủ lái tầu tài giỏi tên là Gujarati của miền tây Ấn Độ, đoàn tầu của ông đă vượt qua eo biển Ả Rập, tới được hải cảng Calicut, nơi mà trước kia Covilha đă báo cáo vào năm 1490.

 

Ngày 29 tháng 8 năm 1498, Vasco da Gama quyết định cho đoàn tầu rời Calicut để trở về Bồ Đào Nha. Hải tŕnh qua Ấn Độ Dương mất ba tháng và nhiều thủy thủ đă mắc bệnh hoại huyết. V́ không đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ con tầu Sao Raphael gần Mombasa, rồi cuộc trở về đă không gặp khó khăn. Tháng 9 năm 1499, đoàn tầu của Vasco da Gama đă về tới bến cảng Lisbon sau hơn hai năm đi biển, vượt qua được 24,000 hải lư với 44 thủy thủ sống sót trong số 170 người đă ra đi.

 

Thành quả của Vasco da Gama trong chuyến đi ṿng qua phía nam của châu Phi để tới Ấn Độ đă khiến cho nhà hàng hải này được xếp hàng đầu trong các nhà thám hiểm của mọi thời đại. Các khó khăn gặp phải và các may rủi đ̣i hỏi tới ḷng cam đảm và tài năng của một thuyền trưởng đă khiến cho Vasco da Gama được ca tụng tương đương với Christopher Columbus.

 

Vasco da Gama đă mang lại cho người châu Âu các quan niệm mới về thế giới, một nơi không c̣n bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ nay đă được mở rộng cho nhiều người khác thám hiểm và khai thác./.

 

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: