Ngô Đ́nh Nhu 

 

 

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

 

  (Tùng Phong dịch)

 

 

8

MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP

VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN

 

(tiếp theo)

 

Tác dụng của tổ chức quần chúng

 

Sự thể đă như vậy, nếu chúng ta muốn thực hiện một công tŕnh của tập thể, điều trước tiên mà chúng ta phải làm là tổ chức quần chúng của chúng ta.

 

Nhưng vấn đề quan hệ hơn nữa. Bởi v́ nếu chúng ta không tổ chức quần chúng của chúng ta, cố nhiên chúng ta không thực hiện được những công cuộc mà chúng ta trù tính. Nhưng t́nh thế không phải chỉ đến đó mà thôi, bởi v́, nếu chúng ta không dẫn dắt được đoàn người trên thực hiện cuộc hành tŕnh dự tính, th́ người khác sẽ đến tổ chức họ và dẫn dắt họ đi. Trong giai đoạn hiện tại của quốc gia, nếu chúng ta không tổ chức được quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng th́ các nhà lănh đạo Cộng Sản sẽ tổ chức quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng theo quan điểm Cộng Sản. Nhưng chúng ta đă biết giải pháp Cộng Sản sẽ di hại như thế nào cho dân tộc.

 

Trong thực tế, các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt, thừa hưởng sự nghiệp nghiên cứu của Cộng Sản quốc tế, đă ư thức sự kiện trên, nên từ lâu đă chú trọng rất nhiều đến việc tổ chức quần chúng. Và chính sức mạnh của họ lâu nay nằm ở chỗ kỹ thuật tổ chức quần chúng, của Cộng Sản Quốc Tế, được đặc biệt nghiên cứu và áp dụng. Và một khi đă tổ chức được quần chúng rồi th́ họ lại nắm được trong tay một lợi khí sắc bén mà chúng ta chưa có.

 

Do đó, sự tổ chức quần chúng, đối với chúng ta là một yếu tố vô cùng cần thiết, chẳng những để thực hiện bất cứ công cuộc nào của cộng đồng, trong đó công cuộc phát triển là quan hệ nhất, mà đồng thời lại là một lợi khí để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc, đang hoạt động tại miền Nam.

 

Một lần nữa, chúng ta phải nhận thức rơ ràng rằng một bộ máy hành chính dù có tinh vi đến đâu, một ḿnh cũng không đủ để giải quyết các vấn đề hiện tại của dân tộc. Bởi v́ một bộ máy hành chính không, không có một bộ máy tổ chức quần chúng, sẽ không huy động được toàn dân. Sở dĩ có quan niệm sai lầm về vai tṛ tự măn của bộ máy hành chính là v́ kư ức của thời kỳ Pháp thuộc c̣n rất mới. Và trong thời kỳ này, thật sự bộ máy hành chính của Pháp rất là hiệu quả. Nhưng lúc bấy giờ những mục tiêu của người Pháp không phải là những mục tiêu của chúng ta hiện nay. Hai điều này chúng ta đă thấy rơ ở một đoạn trên.

 

Sau hết, lư do quan hệ nhất để chứng minh tính cách thiết yếu của sự tổ chức quần chúng, chính là công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được.

 

Trong một đoạn ở trên, chúng ta đă thấy rằng công cuộc Tây phương hoá phải toàn diện, nghĩa là phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân. Nếu công cuộc Tây phương hoá chi giới hạn trong một nhóm người lănh đạo, như trường hợp đă xảy ra cho một số quốc gia ở Cận Đông, th́ sớm hay muộn quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lănh đạo và t́nh trạng xă hội sẽ chín mùi cho một cuộc cách mạng lật đổ những người lănh đạo đă Tây phương hoá. Một công cuộc Tây phương hoá nếu muốn có kết quả mong mỏi th́ phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân.

 

Một công cuộc Tây phương hoá ăn sâu và lan rộng trong nhân dân, có nghĩa là người chủ trương công cuộc Tây phương hoá phải làm thế nào để cho quần chúng, từ thành thị đến thôn quê, chấp nhận nhiều tập quán mới, theo một lối sống mới và hoạt động theo những tiêu chuẩn mới. Một công cuộc vĩ đại như vậy không thể do một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, nhưng chỉ một ḿnh, thực hiện được Và một công cuộc vĩ đại như vậy, nếu không có sự tham gia thật sự của quần chúng, sẽ thất bại chắc chắn v́ lực lượng thụ động của khối người đă quen sống theo những nề nếp, mà công cuộc Tây phương hoá đặt cho ḿnh mục tiêu phải thay đổi.

 

Đă như thế th́, thực hiện công cuộc Tây phương hoá có nghĩa là trước hết phải hướng dẫn nhân dân ư thức tính cách cần thiết của công cuộc Tây phương hoá và làm thế nào để Tây phương hoá. Sau đó phải dẫn dắt nhân dân đến chỗ hợp tác, với các nhà lănh đạo, để thực hiện những công tác cần thiết cho công cuộc Tây phương hoá.

 

Và những hoạt động có tính cách ăn sâu và lan rộng trong quần chúng như trên, không thể thực hiện được trong t́nh trạng vô tổ chức của nhân dân ngày nay, trong xă hội của chúng ta. Điều kiện thiết yếu và tiên quyết cho những hoạt động trên là sự tổ chức quần chúng. Và xuyên qua các tổ chức quần chúng đó, những hoạt động trên mới có thể nảy nở được và mới có thể đưa quần chúng đến sự hợp tác, trong công cuộc Tây phương hoá, với các nhà lănh đạo.

 

Tóm lại, các đoạn trên đây, chúng ta nhận thức:

 

Trong t́nh trạng b́nh thường, các tổ chức quần chúng đă là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của một quốc gia độc lập.

 

Trong một t́nh trạng quyết liệt như t́nh trạng hiện nay, của các quốc gia đang t́m phát triển như chúng ta, các tổ chức quần chúng là một yếu tố c̣n thiết yếu hơn nữa cho đời sống của quốc gia.

 

Trong hiện tại chính trị của miền Nam ngày nay, sự tổ chức quần chúng lại là một khí giới để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc. Nhưng quần chúng của chúng ta hiện nay hoàn toàn không có tổ chức. Chúng ta quen sống trong một t́nh trạng hỗn loạn mà chúng ta lầm là cho là một t́nh trạng tự do. Thật sự, trở lại vấn đề thăng bằng động tiến cần thiết cho mọi cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng, xă hội của chúng ta ngày nay là một xă hội sắp mất thăng bằng nói trên, và chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh mà quyền lợi của cộng đồng bị hy sinh cho quyền lợi của cá nhân. Do đó, sự tổ chức quần chúng và các tổ chức quần chúng, đối với chúng ta, trở thành một yếu tố quyết định cho sự mất c̣n của cộng đồng.

 

Tổ chức quần chúng như thế nào

 

Dưới một chế độ độc tài Đảng trị, cũng như dưới một chế độ dân chủ Pháp trị, tổ chức quần chúng đều cần thiết v́ những lư do mà chúng ta đă phân tích. Tuy nhiên, quan niệm tổ chức, mục đích của các tổ chức và h́nh thức của các tổ chức đều khác nhau dưới hai chế độ.

 

Phương pháp lănh đạo của một chế độ độc tài Đảng trị là cưỡng bách dưới mọi h́nh thức và với mọi tŕnh độ, với mục đích biến cá nhân thành những bộ phận dễ uốn nắn và dễ điều khiển của một bộ máy chung, mà tất cả giềng mối đều nằm trong tay nhóm người lănh đạo. V́ vậy cho nên, ngoài những tác dụng của những tổ chức quần chúng mà chúng ta đă biết, tổ chức quần chúng của một chế độ độc tài Đảng trị c̣n có tác dụng uốn nắn cá nhân. Và v́ vậy mà h́nh thức của các tổ chức quần chúng trong chế độ này được trù liệu để chặt đứt hết các dây liên hệ của cá nhân với cộng đồng, dù là các dây liên hệ gia đ́nh, tôn giáo, văn hoá, kinh tế hay xă hội và thay vào bằng dây liên hệ duy nhất giữa cá nhân và Đảng nắm chính quyền.

 

V́ quan niệm đó mà các tổ chức quần chúng trong một chế độ độc tài Đảng trị đều là những tổ chức do chính quyền chủ trương, chính quyền điều khiển, chính quyền kiểm soát hoạt động và quản trị tài chính. Sự gia nhập vào tổ chức, cũng như sự tham gia vào hoạt động của tổ chức đều là cưỡng bách. Tính cách cưỡng bách, đương nhiên, sẽ tạo ra một sự tham gia lấy lệ của cá nhân. Lúc bấy giờ, thích nghi với nguyên tắc cưỡng bách, một sự khủng bố khéo léo hoặc công khai nhưng đúng mức, sẽ được thi hành để tích cực hoá sự tham gia của cá nhân đến một mức độ cần thiết cho sinh hoạt và sinh lực của tổ chức.

 

Phương pháp lănh đạo của một chế độ dân chủ pháp trị là một phân định cưỡng bách pháp luật hoà hợp với tŕnh độ tự giác của cá nhân về nhiệm vụ đối với cộng đồng. Tổ chức quần chúng của một chế độ dân chủ pháp trị, ngoài những tác dụng thông thường c̣n có tác dụng phát huy ư thức cộng đồng của cá nhân. V́ vậy cho nên, tổ chức quần chúng có một h́nh thức trù liệu để thêm dây liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong mọi lĩnh vực, gia đ́nh, tôn giáo, văn hoá, kinh tế và xă hội.

 

Do đó, các tổ chức quần chúng, trong một chế độ dân chủ pháp trị, sẽ do sáng kiến tư nhân chủ trương, tổ chức, điều khiển sinh hoạt và quản trị tài chính, dưới sự kiểm soát của chính quyền. Sự gia nhập của cá nhân vào tổ chức hoàn toàn tự ư, hay nếu cần được khuyến khích bằng những đặc quyền, ngoài quyền công dân thông thường, dành cho nhân viên của một tổ chức quần chúng. Những cơ hội hoạt động để phát triển khả năng, t́m thấy ở các tổ chức quần chúng, cũng là một yếu tố khuyến khích sự gia nhập. Nhưng, dù trong trường hợp nào, sự gia nhập cũng hoàn toàn tự ư, và v́ vậy sự tham gia vào sinh hoạt của tổ chức, đương nhiên, rất tích cực, sinh lực của tổ chức tự nhiên dồi dào.

 

Chúng ta đă loại trừ Chủ Nghĩa Cộng Sản, th́ chúng ta cũng không thể chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài Đảng trị, nếu không, th́ lư do loại trừ Chủ Nghĩa Cộng Sản của chúng ta cũng không tồn tại.

 

Nhưng, giả sử chúng ta vượt qua quan điểm lư thuyết trên, và v́ sự cám dỗ của phương pháp độc tài, chúng ta chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài Đảng trị, th́ theo một cơ thức giản dị, chúng ta sẽ đi đến một t́nh trạng không có lối ra. Nếu đă chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài Đảng trị, th́ chính quyền sẽ tổ chức, điều khiển và quản trị các tổ chức quần chúng. Lúc bấy giờ, v́ một lư do dễ hiểu, sự gia nhập vào tổ chức cũng như sự tham gia vào hoạt động của các tổ chức sẽ không c̣n tự ư và tích cực nữa. Trong trường hợp đó, chính quyền tiến thoái lưỡng nan. Nếu giữ nguyên t́nh trạng th́ các tổ chức quần chúng, v́ thiếu sự tham gia tích cực của cá nhân, sẽ không có đủ sinh lực để có tác dụng mong mỏi. Nếu dùng biện pháp cưỡng bách để tích cực hoá sự tham gia của cá nhân, th́ chính quyền, v́ không phải là một chính quyền độc tài Đảng trị, sẽ không làm sao sử dụng được những biện pháp độc tài Đảng trị mà không tạo ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng cho chính thể. Vả lại, chính quyền cũng không có đủ những biện pháp cưỡng bách như trong một chế độ độc tài Đảng trị để khắc phục được t́nh thế.

 

V́ vậy cho nên, chúng ta không thể áp dụng một h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài Đảng trị. Tuy nhiên, nếu chúng ta áp dụng h́nh thức tổ chức quần chúng, của chế độ dân chủ pháp trị nói trên đây, chúng ta sẽ phải gặp một trở lực, đặc biệt cho các quốc gia chậm tiến như quốc gia Việt Nam.

 

Trong hoàn cảnh xă hội của chúng ta hiện nay, ư thức tập thể của quần chúng rất yếu kém và kinh nghiệm tổ chức, điều khiển và quản trị các tổ chức quần chúng rất nghèo nàn. Sự đóng góp tài chính của cá nhân, đương nhiên sẽ rất giới hạn. V́ vậy sáng kiến tổ chức quần chúng không thể hoàn toàn phát xuất từ trong nhân dân được. Chính quyền ngoài nhiệm vụ kiểm soát, đương nhiên phải đảm trách nhiệm vụ hướng dẫn sự tổ chức, hướng dẫn sự đào tạo người điều khiển hoạt động, và quản trị tài chính cho tổ chức. Điều thiết yếu là nhiệm vụ hướng dẫn phải được minh định và không để cho có sự lầm lẫn với vai tṛ trực tiếp tổ chức, trực tiếp điều khiển và quản trị của chính quyền như trong một chế độ độc tài Đảng trị.

 

Trong trường hợp mà chúng ta đă có sẵn những tổ chức quần chúng đă trưởng thành, và có nhiều cán bộ đă được trang bị với những kinh nghiệm chuyên môn, về vấn đề tổ chức quần chúng, th́ chẳng những vai tṛ hướng dẫn của chính quyền sẽ không cần thiết, mà chúng ta nhờ cái vốn tổ chức quần chúng sẵn có, c̣n có thể tránh được những lỗi lầm mà một sự hướng dẫn, vô t́nh không đúng mức, có thể gây ra cho hệ thống tổ chức quần chúng của chúng ta.

 

Tổ chức quần chúng và tổ chức chính trị

 

Thường thường hay có sự lầm lẫn giữa các tổ chức chính trị và các tổ chức quần chúng. Nhiều người, vô t́nh, tưởng các tổ chức quần chúng là tổ chức chính trị và nh́n thấy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng. Nhưng cũng có nhiều người, cố t́nh, gây sự lầm lẫn v́ muốn lợi dụng ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng để hậu thuẫn cho một vận động chính trị.

 

Riêng ở Việt Nam, sự ngộ nhận một tổ chức quần chúng ra một tổ chức chính trị, thường hay xảy ra v́ một nguyên nhân lịch sử mà chúng ta đă có đề cập đến trong một đoạn trên. Sau hơn tám mươi năm bị loại ra ngoài ṿng các vấn đề liên quan đến sự lănh đạo quốc gia, một số đông người Việt Nam đă nối trở lại với các vấn đề lănh đạo trong thời kỳ kháng Pháp. Nhưng lúc bấy giờ Cộng Sản chi phối t́nh thế, nên các biện pháp lănh đạo được áp dụng lại được xem như là những sáng kiến độc quyền của Cộng Sản, hay là những biện pháp chính trị mà chế độ nào cũng phải áp dụng. Và trong chế độ độc tài Đảng trị của Cộng Sản, các tổ chức quần chúng, là những công cụ chính trị của chế độ. V́ những lư do trên, mà nhiều người vẫn tin rằng, trong mọi chế độ, tổ chức quần chúng là tổ chức chính trị.

 

Ngoài ra, trong những quốc gia, như quốc gia Việt Nam hiện nay, đang bị nạn đột nhập xâm lăng của Cộng Sản, th́ các tổ chức quần chúng lại bị Cộng Sản dùng làm b́nh phong để che đậy những hoạt động chính trị bí mật. Hoặc Cộng Sản lợi dụng các tổ chức quần chúng như là một lực lượng chính trị áp đảo chính quyền quốc gia.

 

Các sự kiện trên tạo một hoàn cảnh thuận lợi để cho sự lầm lẫn dễ xảy ra giữa các tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng. Tuy nhiên, nguyên do chính của sự lầm lẫn vẫn là ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng.

 

Chính trường của một cộng đồng quốc gia là trường hoạt động chung của tất cả các phần tử của cộng đồng. V́ vậy cho nên, trên nguyên tắc, mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến chính sự của cộng đồng. Tuy nhiên ảnh hưởng chính trị của cá nhân rất giới hạn, trừ ra trường hợp hoặc cá nhân đóng một vai tṛ quan trọng trong bộ máy quốc gia, hoặc nhiều cá nhân tập hợp lại thành một khối có một lực lượng đáng kể. Nguồn gốc của ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng là sự kiện trên đây.

 

Nhưng điều cần thiết cho chúng ta là phải nhận thức rằng, trong một chế độ dân chủ Pháp trị, sự khác nhau, giữa hai tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng rất rơ ràng, về mục đích cũng như h́nh thức tổ chức và phương pháp hoạt động.

 

Một tổ chức chính trị gồm những người cùng tin tưởng vào một đường lối chính trị, nghĩa là một toàn bộ giải pháp đối với các vấn đề của cộng đồng quốc gia, trong mọi lĩnh vực của đời sống. Mục đích tranh đấu của một tổ chức chính trị, nghĩa là của một chính đảng, là nắm chính quyền để mang các giải pháp mà chính đảng chủ trương áp dụng vào các vấn đề của cộng đồng. Trong chế độ dân chủ Pháp trị, các tổ chức chính trị hoạt động công khai và là một bộ phận của bộ máy lănh đạo. Tổ chức chính trị có một hệ thống tổ chức địa dư như một hệ thống hành chánh.

 

Một tổ chức quần chúng gồm những người cùng làm một nghề, hoặc cùng có những quyền lợi kinh tế tương đồng, hoặc cùng theo đuổi một mục đích tôn giáo, hay một công cuộc xă hội, văn hoá, đức dục hay thể dục. Mục đích của các tổ chức quần chúng là bảo vệ quyền lợi chuyên nghiệp, kinh tế, văn hoá hay xă hội của các nhân viên của tổ chức, hoặc bảo vệ một tín ngưỡng, hoặc phát triển một công cuộc xă hội hay văn hoá. Hoạt động của các tổ chức quần chúng do mục đích ấn định và không có lúc nào trực tiếp đi vào lĩnh vực chính trị, nghĩa là vào lĩnh vực của bộ máy lănh đạo. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần chúng sẽ giới hạn trong việc ủng hộ hay không ủng hộ một đường lối chính trị, khi cơ hội đưa đến, ví dụ trong một chiến dịch tuyển cử, v́ đường lối đó có lợi hay không có lợi cho mục đích riêng của tổ chức quần chúng.

 

V́ những sự kiện vừa phân tích trên đây mà trong một chế độ dân chủ Pháp trị, sự lầm lẫn giữa hai tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng, sẽ mang đến nhiều hậu quả bất lợi cho cộng đồng. Trước hết sự lầm lẫn sẽ mang đến một sự hỗn loạn trong tổ chức của bộ máy quốc gia và gây một hoàn cảnh thuận lợi cho sự đột nhập của Cộng Sản. Nếu chúng ta tôn trọng các tiêu chuẩn phân biệt tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng, th́ các tổ chức quần chúng nào, lấy quần chúng của ḿnh để hậu thuẫn cho một vận động chính trị, đương nhiên sẽ là một tổ chức quần chúng đă bị sự đột nhập của Cộng Sản. Kinh nghiệm chỉ rằng sự kiện trên đây rất chính xác.

 

Ngoài ra, sự cố t́nh lầm lẫn giữa một tổ chức quần chúng và một tổ chức chính trị v́ một nguyên nhân chính trị, sẽ mang đến cho tổ chức quần chúng một cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng, v́ mục đích của tổ chức đă bị xâm phạm. Cuộc khủng hoảng có thể mang đến sự tan ră của tổ chức.

 

Các tổ chức quần chúng công nhân và nông dân

 

Trong xă hội của chúng ta ngày nay, sự phân chia dân số theo ngành hoạt động kinh tế, ấn định hai loại tổ chức quần chúng quan trọng hơn hết về số lượng. Loại thứ nhất gồm các tổ chức quần chúng công nhân trong các xí nghiệp kỹ nghệ hay canh nông và thương măi, nghĩa là các nghiệp đoàn. Loại thứ hai gồm các tổ chức nông dân, như chúng ta sẽ thấy trong một đoạn sau, thích hợp nhất trong hoàn cảnh hiện nay ở thôn quê là h́nh thức hợp tác xă nông nghiệp, bảo vệ quyền lợi kinh tế của người nông dân. Hai loại tổ chức quần chúng trên đây thâu gồm đến chín mươi phần trăm dân số hoạt động, và v́ những liên hệ gia đ́nh, sẽ ảnh hưởng đến chín mươi phần trăm dân số toàn quốc. Xét các bách phân dân số trên đây, chúng ta nhận thức vai tṛ quan trọng của các tổ chức nghiệp đoàn, và các tổ chức hợp tác xă nông nghiệp, trong đời sống quốc gia. V́ vậy cho nên, các nỗ lực tổ chức quần chúng của chúng ta phải tập trung về hai lĩnh vực nghiệp đoàn và hợp tác xă nông nghiệp.

 

Hợp tác xă nông nghiệp lại gồm từ bảy đến tám mươi phần trăm dân số. Nghiệp đoàn từ mười đến mười lăm phần trăm. Bộ máy quần chúng của chúng ta gần như là bộ máy hợp tác xă nông nghiệp. Nông thôn đóng một vai tṛ quyết định trong công cuộc tổ chức quần chúng và trong các công cuộc khác của quốc gia, bởi v́ như chúng ta đă thấy, tổ chức quần chúng là một lợi khí để chúng ta thực hiện các công cuộc dự tính của cộng đồng.

 

Thành phần dân số c̣n lại ở các đô thị, tuy nhẹ về số lượng, nhưng lại vô cùng quan trọng về phẩm chất và tính của chất hoạt động của họ, bởi v́ trong số này gồm tất cả những phần tử của các bộ phận khác của bộ máy quốc gia: Các bộ máy lănh đạo, hành chánh và quân sự, và các cơ cấu điều khiển của những khu vực kỹ nghệ và thương măi công cộng và tư nhân.

 

Số người này, ngoài các tổ chức đương nhiên của ngành hoạt động của họ, có thể tham gia vào nhiều loại tổ chức quần chúng mà mục đích là bảo vệ tín ngưỡng, quyền lợi nghề nghiệp hay kinh tế, hay theo đuổi một công cuộc văn hoá, xă hội hoặc đức dục hay thể dục hay du lịch. Đời sống của quốc gia ở các đô thị và ở thủ đô càng phức tạp và càng phong phú, th́ các tổ chức quần chúng cũng phải được thích nghi hoá với hoàn cảnh và gồm nhiều loại.

 

Ở nông thôn, đời sống của nhân dân giản dị hơn và h́nh thức sống kém trù mật hơn. Do đó tổ chức quần chúng có thể chỉ là những hợp tác xă nông nghiệp với một h́nh thức rất là sơ đẳng, dễ điều khiển và dễ sinh hoạt.

 

Ở trên các tổ chức nghiệp đoàn và các tổ chức hợp tác xă một bậc, về tính cách tinh vi của tổ chức và kỹ thuật chuyên môn khá cao, mà sự điều khiển các tổ chức này sẽ đ̣i hỏi, có các tổ chức hỗ tương bảo hiểm. Bảo hiểm về bệnh hoạn, bảo hiểm về tai nạn lao động, bảo hiểm về trâu ḅ, bảo hiểm về sinh sản và về già cả. Tất cả các tổ chức tương hỗ bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ trên nhiều phương diện và bằng nhiều h́nh thức quyền lợi cá nhân của các phần tử của tập thể, đồng thời phát huy tinh thần tập thể của cá nhân.

 

Giáo dục quần chúng

 

Ngoài những tác dụng đương nhiên của các tổ chức quần chúng mà chúng ta đă biết, bộ máy tổ chức quần chúng của quốc gia, c̣n đóng góp một phần rất quan trọng vào các chương tŕnh giáo dục quần chúng. Các chương tŕnh giáo dục quần chúng khác biệt và không thay thế các chương tŕnh thông thường giáo dục tổng quát mà chúng ta sẽ đề cập đến trong một đoạn sau này.

 

Các chương tŕnh giáo dục quần chúng là những khí cụ cần thiết và hữu hiệu để hậu thuẫn cho công cuộc Tây phương hoá ăn sâu và lan rộng trong dân chúng, như chúng ta đă biết. Các mục tiêu vừa có tính cách ngắn hạn đối với những kỹ thuật sản xuất Tây phương, vừa có tính cách dài hạn đối với những tập quán mới cần phải trang bị dân chúng trong công cuộc Tây phương hoá toàn diện. Các tổ chức quần chúng c̣n là những hoạt động trường để huấn luyện tinh thần tập thể của nhân dân, và ư chí tự do và độc lập mà dân tộc đ̣i hỏi trước sự đe doạ xâm lăng liên tục của Trung Hoa.

 

Trong những mục tiêu ngắn hạn, có những chương tŕnh phổ biến các kỹ thuật sản xuất của Tây phương và chương tŕnh đào tạo tinh thần kỷ luật mà các phương tiện sản xuất kỹ nghệ đ̣i hỏi.

 

Công cuộc phổ biến những kỹ thuật sản xuất của Tây phương liên hệ trước hết đến nông nghiệp và tiểu công nghiệp. Các hợp tác xă sơ đẳng và các nghiệp đoàn tiểu công nghiệp đóng một vai tṛ chính yếu trong việc phổ biến này.

 

Lâu nay người dân Việt Nam chỉ quen với lề lối sản xuất của một nền kinh tế nông nghiệp. Công việc đồng áng không đ̣i hỏi ở người nông dân một kỷ luật cứng rắn về thời gian và một sự căng thẳng về tinh thần, như khi một người công nhân một xí nghiệp chịu trách nhiệm về một bộ phận của một xưởng máy kỹ nghệ to tát. Công việc đồng áng của chúng ta cho phép ít nhiều một sự luộm thuộm trong công tác và một sự lờ mờ trong sự phân chia công tác. Tính cách thiếu phân minh và thiếu trật tự của lối sản xuất nông nghiệp của chúng ta, trải qua nhiều thế hệ, đă tạo cho người nông dân chúng ta một tập quán bừa băi trong công việc và sự mù mờ trong sự hiểu biết.

 

Lối sản xuất kỹ nghệ, trái lại không dung nạp sự bừa băi trong công việc, và sự mù mờ trong sự hiểu biết. Sản xuất kỹ nghệ chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trong trật tự, trong phân minh. Ngoài ra, việc săn sóc và tu bổ các máy móc, nghĩa là các phương tiện sản xuất kỹ nghệ, đ̣i hỏi ở người sử dụng, những nỗ lực liên tục hàng ngày. Các cố gắng đó là những nguyên nhân đưa đến một t́nh trạng căng thẳng tinh thần mà đời sống lâu nay ở thôn quê, trong một hoàn cảnh kinh tế hoàn toàn nông nghiệp chưa hề biết đến.

 

V́ thế cho nên, khi một người nông dân, từ biệt ruộng đất của ḿnh để trở thành một công nhân xí nghiệp, hành vi nhỏ nhặt đó không phải chỉ có nghĩa là đổi công việc mưu sinh. Thực ra hành vi đó c̣n có nghĩa là người nông dân từ bỏ một lối sống dễ dăi và vô trật tự theo nhịp khoan thai của thời tiết để đi vào một lối sống kỷ luật và ngăn nắp theo nhịp thúc đẩy của máy móc. Nghĩa là người nông dân sẽ phải làm quen và chấp nhận một sự căng thẳng về tinh thần mà lâu nay họ chưa hề biết đến. Và lần lần chính tâm lư của nông dân cũng sẽ thay đổi, cũng như lối nh́n đời sống của họ.

 

Một sự biến đổi tương tự, đương nhiên không thể là một việc dễ. Không bao giờ, dù mà sinh kế có bắt buộc họ trở thành một công nhân xí nghiệp, một người nông dân, tự họ có thể thực hiện được sự tự biến đổi nếu không có những sự hướng dẫn và giúp đỡ hữu hiệu bên ngoài. Nhưng lâu nay, trong sự biến đổi này, người nông dân không hề được hướng dẫn và giúp đỡ. Sự biến đổi này cũng mang tính cách hỗn loạn chung của công cuộc Tây phương hoá, không đường hướng của xă hội chúng ta dưới thời Pháp thuộc.

 

Nhiệm vụ hướng dẫn và giúp đỡ nói trên đây một phần lớn là nhiệm vụ của nghiệp đoàn công nhân và một phần nhỏ là nhiệm vụ của các xí nghiệp. Nhưng lâu nay các xí nghiệp hoặc do người ngoại quốc điều khiển, hoặc được tổ chức trên căn bản quyền lợi cá nhân, cho nên không bao giờ quan tâm đến vấn đề biến đổi những nông dân thành người công nhân trong khuôn khổ một công cuộc Tây phương hoá toàn diện. Nghiệp đoàn của chúng ta, cũng như của các quốc gia đang phát triển, đều chưa hoàn toàn cởi bỏ được cái áo Tây phương, nên cũng chưa chú trọng đúng mức đến sự biến đổi của người nông dân nói trên đây. Nguyên nhân của t́nh trạng đó như sau:

 

Nghiệp đoàn Tây phương

 

Nguồn gốc của các nghiệp đoàn Tây phương theo các nhà xă hội học, là các phường nghề nghiệp xưa kia gồm những người cùng hành một nghề, vừa chủ nhân vừa công nhân. Nhưng nghiệp đoàn công nhân, dưới h́nh thức hiện tại ở Tây phương, mới được quan niệm rơ rệt và phát triển đến mức trưởng thành từ sau cuộc cách mạng kỹ nghệ của các quốc gia Tây phương. Và ngày nay, tổ chức nghiệp đoàn là một yếu tố quân b́nh quan trọng trong bộ máy quốc gia.

 

Sau khi các phương tiện sản xuất kỹ nghệ được phát minh và thâu nhận vào xă hội Tây phương, như chúng ta đă phân tích trong một đoạn trên, các lực lượng sản xuất mới đă tạo ra nhiều xáo trộn xă hội, làm lung lay đến nền tảng các cơ cấu quốc gia của các nước đă kỹ nghệ hoá. Các cơ cấu xă hội cũ, tổ chức trên căn bản kinh tế thủ công nghệ và nông nghiệp, hoàn toàn bất lực trong công việc thâu nhận những lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Các trạng thái thăng bằng của xă hội bị áp đảo đến cực độ.

 

Nhân đó, thuyết Cộng Sản được đề nghị như là một phương thuốc để trị các cơn khủng hoảng. Chúng ta đă thấy, trong hoàn cảnh nào, các nhà lănh đạo Tây phương, v́ lư do ǵ, đă từ chối giải pháp Cộng Sản. Và ngày nay chúng ta đang mục kích sự thành công của Tây phương trong công cuộc chẳng những bài trừ các cơn khủng hoảng của xă hội mà lại c̣n đặt những căn bản thiết thực để bảo đảm cho sự phát triển của toàn thể cộng đồng bằng cách sử dụng những phương tiện kỹ thuật ngày càng tinh vi.

 

Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công nói trên.

 

Nguyên do chính của các xáo trộn xă hội trong các quốc gia Tây phương lúc vừa xảy ra cuộc cách mạng kỹ nghệ, là sự kiện trạng thái thăng bằng động tiến, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng bị áp đảo đến cực độ, v́ sự bành trướng khác thường của quyền lợi cá nhân. Sự thiếu kinh nghiệm, đương nhiên, đối với những hậu quả xă hội của những phát minh mới, và tổ chức của xă hội lúc bấy giờ, căn cứ trên một nền kinh tế thủ công nghiệp và nông nghiệp, đă cho phép sự thâu gồm vào tay một thiểu số những phương tiện sản xuất cực kỳ hùng hậu. Ư thức cộng đồng của thiểu số nắm trong tay các lực lượng sản xuất mới, lại không phát triển đồng thời với khả năng hùng hậu của kỹ thuật mới phát minh.

 

Tổ chức xă hội cũ hoàn toàn bất lực trong công việc phân phối tài sản quốc gia một cách công b́nh. Tài sản quốc gia có tăng, nhờ các lực lượng sản xuất mới, mà mức sống phần đông lại giảm,v́ sự phân phối thất bại.

 

V́ các lư do trên đây, tác dụng nguyên khởi của các nghiệp đoàn công nhân là góp một phần hữu hiệu vào công việc đặt căn bản mới cho sự phân phối tài sản quốc gia. V́ vậy cho nên, trọng tâm hoạt động của các nghiệp đoàn công nhân Tây phương, lúc đầu, là yêu sách về quyền lợi của đoàn viên, để bảo đảm cho công nhân một bách phân xứng đáng trong sự phân chia lợi tức quốc gia. Tuy nhiên, những biện pháp yêu sách vẫn chưa có tác dụng quyết định và lâu dài, để bảo đảm cho trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng.

 

Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân đă nghiễm nhiên từ một vai tṛ phản đối và yêu sách, trở thành một yếu tố quân b́nh quan trọng trong bộ máy quốc gia. Và lịch sử của tổ chức nghiệp đoàn công nhân Tây phương, minh tả sự biến h́nh của một h́nh thức xă hội mới, có khả năng thâu nhận những lực lượng sản xuất kỹ nghệ, duy tŕ trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng, và nhất là đặt những căn bản thiết thực, bảo đảm cho sự sử dụng những phương tiện kỹ thuật càng ngày càng tinh vi để phát triển cộng đồng nhân loại và phát triển con người.

 

Đồng thời, các hoạt động của nghiệp đoàn công nhân Tây phương cũng tăng gia và biến chất. Thêm vào các hoạt động yêu sách, càng ngày các hoạt động giáo dục và huấn luyện đoàn viên càng được bành trướng và trở thành hoạt động chính yếu của các nghiệp đoàn công nhân Tây phương. Phạm vi huấn luyện và giáo dục, đi từ các kỹ thuật tổ chức chuyên môn của nghề nghiệp đến các kỹ thuật tổ chức và điều khiển nghiệp đoàn và đến vị trí và nhiệm vụ của nghiệp đoàn, xem như là một yếu tố quân b́nh của bộ máy quốc gia.

 

Nghiệp đoàn Việt Nam

 

Các nghiệp đoàn công nhân Việt Nam hiện nay là những tổ chức quần chúng công nhân có một giá trị thật đáng chú ư. Các quốc gia ở Đông Nam Á, và nhiều quốc gia trên thế giới, cùng ở vào một t́nh trạng kém mở mang và vô tổ chức như chúng ta, vẫn chưa có một tổ chức quần chúng công nhân như của chúng ta. Nhưng giá trị của các nghiệp đoàn công nhân Việt Nam không phải chỉ ở sự hiện diện hiếm có đó.

 

Trong một xă hội vô tổ chức như xă hội của chúng ta hiện nay, các nghiệp đoàn công nhân, tổ chức có quy củ và ăn rễ sâu vào quần chúng, là một cái vốn tổ chức quần chúng rất quư cho chúng ta. Các nghiệp đoàn công nhân sẵn có, tự nó đă là một cái vốn. Nhưng những kinh nghiệm lănh đạo, tổ chức, hoạt động và điều khiển của các cán bộ, đă nhiều năm hoạt động, c̣n là một cái vốn rất hiếm có để phát triển các tổ chức quần chúng của chúng ta trong tương lai. Chúng ta đă thấy, trong một đoạn trên, các trở lực mà một quốc gia, kém mở mang như chúng ta, đương nhiên gặp phải trong công cuộc tổ chức quần chúng, bởi v́ dân chúng thiếu sáng kiến và kinh nghiệm về tổ chức quần chúng. Với cái vốn hiện tại của chúng ta, do các tổ chức công nhân cung cấp, các trở lực trên sẽ không c̣n khó vượt nữa.

 

Sau hết, trong một xă hội thiếu tín hiệu tập hợp như xă hội chúng ta, các tổ chức nghiệp đoàn là một tín hiệu tập hợp có nhiều khả năng quy tụ.

 

Tuy nhiên, trong cộng đồng quốc gia Việt Nam, cũng như trong tất cả các quốc gia chưa kỹ nghệ hoá, vai tṛ của nghiệp đoàn, tuy rất quan trọng, nhưng không thể quan trọng như trong một quốc gia Tây phương đă phát triển.

 

Trước hết, tổng số công nhân xí nghiệp của chúng ta, ước lượng từ mười đến mười lăm phần trăm dân số hoạt động, vẫn là một tỷ lệ nhỏ đối với tổng số dân số. Trong các quốc gia đă phát triển, bách phân công nhân xí nghiệp rất cao, đối với tổng số dân số hoạt động. Ở Pháp 53 phần trăm, ở Anh 65 phần trăm, ở Mỹ chỉ có 12 phần trăm dân số sống về nông nghiệp. V́ vậy cho nên, hoạt động của nghiệp đoàn công nhân đương nhiên giới hạn ở Việt Nam.

 

Ngoài lư do số lượng, sở dĩ các tổ chức nghiệp đoàn công nhân Tây phương đă góp một phần quyết định vào sự xây dựng một h́nh thức mới cho xă hội Tây phương, là v́ các nguyên nhân áp đảo trạng thái thăng bằng của xă hội Tây phương, như chúng ta đă thấy trên kia, xuất phát từ các xí nghiệp kỹ nghệ, trường hoạt động của quần chúng công nhân. Trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội chúng ta ngày nay cũng có bị áp đảo, nhưng bởi những nguyên nhân phát sinh từ một khu vực khác của nền kinh tế của chúng ta: khu vực nông nghiệp. Vả lại, khi Tây phương dùng nghiệp đoàn để ứng phó với các xáo trộn xă hội, th́ nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng, lúc bấy giờ, là sự bất lực của xă hội cũ trong công việc phân phối tài sản của quốc gia. Ngày nay, trong xă hội của chúng ta, nếu có một sự phân phối không công b́nh khối tài sản quốc gia eo hẹp của chúng ta, th́ sự kiện đó cũng không làm sao quan trọng bằng sự kém mở mang của quốc gia.

 

V́ vậy cho nên, trong hiện t́nh Việt Nam, các tổ chức nghiệp đoàn công nhân chưa đóng góp một phần quan trọng vào bộ máy quốc gia, như ở xă hội Tây phương.

 

Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt công cuộc phát triển, bằng cách Tây phương hoá, làm mục đích trước và trên hết trong giai đoạn này, th́ sau khi phát triển, xă hội của chúng ta sẽ là một xă hội kỹ nghệ. Lúc bấy giờ, vai tṛ của các tổ chức nghiệp đoàn công nhân sẽ trở thành quan trọng, như trong xă hội Tây phương hiện nay. Nhưng ngay trong thời gian phát triển, vai tṛ của các tổ chức nghiệp đoàn công nhân cũng đă là vô cùng quan trọng, v́ nhiệm vụ biến đổi người nông dân của thời tiết, thành người công nhân của một nền kinh tế sản xuất theo nhịp kỷ luật và thúc giục của máy móc. Trong công cuộc phát triển mà chúng ta chủ trương, nhiệm vụ này vô cùng quan trọng và các tổ chức nghiệp đoàn công nhân phải phụ trách.

 

Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân là một phát minh của Tây phương. Việc nhập cảng các tổ chức ấy vào xă hội chúng ta, cũng là một phần trong công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta chủ trương: Tây phương hoá trong lĩnh vực tổ chức xă hội. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ nguyên bản chất của các tổ chức nghiệp đoàn Tây phương th́ chúng ta lại mắc vào cái bệnh Tây phương hoá h́nh thức, và đương nhiên, hiệu lực của các tổ chức nghiệp đoàn sẽ suy giảm.

 

V́ các lư do trên đây mà các tổ chức nghiệp đoàn công nhân của chúng ta, mặc dầu không phủ nhận hoạt động yêu sách, xem như là một hoạt động có khả năng quy tụ, phải tập trung các nỗ lực vào hoạt động giáo dục, huấn luyện và tổ chức. Chương tŕnh giáo dục và huấn luyện gồm chương tŕnh huấn luyện và giáo dục của tổ chức nghiệp đoàn Tây phương, thêm vào một chương tŕnh giáo dục và huấn luyện liên quan đến sự biến đổi người nông dân như đă nói ở trên. Chương tŕnh tổ chức phải được phát triển đến cực độ và xem như một bộ phận của chương tŕnh tổ chức quần chúng.

 

Tổ chức quần chúng nông thôn

 

Các tổ chức quần chúng quan trọng nhất của chúng ta về số lượng là các tổ chức quần chúng nông thôn. Theo số ước lượng, quần chúng nông thôn của chúng ta chiếm một bách phân từ 70 đến 80 phần trăm dân số. Cũng như các nước kém mở mang và có một nền kinh tế hoàn toàn nông nghiệp, vốn về nhân lực của chúng ta ở nông thôn. V́ vậy cho nên, vấn đề tổ chức quần chúng ở nông thôn, thành hay bại, sẽ quyết định sự thành công hay sự thất bại của chúng ta, trong công cuộc phát triển dân tộc.

 

Nhưng sự tổ chức quần chúng nông dân đặt ra nhiều vấn đề tiên quyết, mà sự tổ chức quần chúng công nhân không hề biết đến.

 

Sự tập trung các công nhân, trong khung cảnh tập thể của một xí nghiệp, đương nhiên tạo ra những điều kiện thuận lợi chẳng những cho sự tổ chức các công nhân thành nghiệp đoàn, mà lại c̣n cho sự nuôi dưỡng và phát triển hoạt động của tổ chức khi đă thành lập. Đối tượng tranh đấu chung tự nhiên có và dễ nh́n thấy: bảo vệ quyền lợi của công nhân đối với ban quản trị xí nghiệp.

 

H́nh thức vật chất của đời sống ở nông thôn, trong khung cảnh bao la của đồng ruộng, đương nhiên không có điều kiện trù mật. Công việc đồng áng, tuỳ theo thời vụ, có lúc đ̣i hỏi một công tác tập thể đến cao độ. Nhưng ngoài những cơ hội đó, tinh thần tập thể của nông dân không có, v́ nếp sống cổ truyền của một nền kinh tế nông nghiệp là một sự quy phục không điều kiện các may rủi của thời tiết, thay v́ một sự tranh đấu tập thể để biến đổi hoàn cảnh bên ngoài, như đào kinh, xẻ cống, đắp đường và xây cầu. Mỗi người chỉ chăm lo cho thửa ruộng của ḿnh cày cấy được nhiều huê lợi.

 

Tinh thần tập thể của nông dân cũng không dễ khêu gợi bởi v́ những lư do thuyết minh cho một sự tập hợp tranh đấu chung, mặc dầu rất nhiều, nhưng không dễ nh́n thấy.

 

Sự thiếu điều kiện trù mật của đời sống nông thôn, đương nhiên tạo ra nhiều trở lực vật chất cho các dự tính tổ chức những dây liên hệ cộng đồng, ngoài những dây liên hệ gia đ́nh. Điều kiện trù mật cần thiết, không những cho giai đoạn tổ chức, mà c̣n cần thiết hơn nữa, cho sự nuôi dưỡng và phát triển hoạt động của tổ chức. Đường đất càng xa giữa các nóc gia, sự tổ chức quần chúng nông dân càng ít hy vọng thành công. V́ vậy cho nên, ở những vùng mà điều kiện trù mật ở dưới một mức độ ấn định, sự tổ chức quần chúng nông dân muốn có kết quả, phải tuỳ thuộc một điều kiện tiên quyết: tổ chức đời sống trù mật cho nhân dân.

 

Hợp tác xă nông nghiệp

 

Khi các điều kiện tiên quyết đă được thoả măn, vấn đề cần đặt ra là h́nh thức của tổ chức áp dụng cho quần chúng nông thôn. Ngoài những tác dụng mà chúng ta mong mỏi ở các tổ chức quần chúng nông dân, trong khuôn khổ một chương tŕnh phát triển của quốc gia, mục đích trực tiếp của các tổ chức này là bảo vệ quyền lợi kinh tế của người nông dân. Nhưng đối tượng tranh đấu không dễ nh́n thấy như đối với một nghiệp đoàn công nhân. Trong trường hợp người nông dân, phải đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi một cách rộng răi và thiết thực, bảo vệ đối với thiên nhiên, đối với thị trường nông phẩm. Nhiệm vụ của tổ chức là huy động nông dân thực hiện nhiều công tác có lợi cho toàn thể các phần tử, đào kinh, đắp đường, xây cầu và xẻ cống. Đối với thị trường nông phẩm, một sự bảo vệ hiệu quả chỉ có thể thực hiện được bằng những biện pháp kinh tế, trừ nạn cho vay nặng lăi, tích trữ nông phẩm và tiêu thụ đúng lúc.

 

V́ những điều kiện về mục đích và nhiệm vụ trên đây, h́nh thức của tổ chức quần chúng nông dân phải là h́nh thức của một hợp tác xă nông nghiệp sơ đẳng và đa nhiệm.

 

Sơ đẳng vừa có nghĩa là đơn vị hợp tác xă nhỏ nhất, vừa có nghĩa là cơ cấu của tổ chức đă được giản dị hoá đến mức tối đa, để chấp nhận một sự điều khiển của chính những đoàn viên nông dân.

 

Hệ thống tổ chức, đương nhiên là một hệ thống địa dư.

 

Trách nhiệm tổ chức

 

Chúng ta đă thấy rằng, trong một chế độ dân chủ pháp trị, trách nhiệm tổ chức, điều khiển và quản trị của các tổ chức quần chúng phải thuộc về sáng kiến tư nhân. Và chúng ta cũng đă thấy rằng, nếu nguyên tắc trên không được tôn trọng, th́ hậu quả sẽ là sự thất bại trong công cuộc tổ chức quần chúng.

 

Tuy nhiên, trong một quốc gia kém mở mang như quốc gia Việt Nam, ư thức cộng đồng c̣n thấp kém và kinh nghiệm kỹ thuật tổ chức, điều khiển và quản trị cũng không dồi dào. Trong trường hợp đó, chính quyền có nhiệm vụ hướng dẫn sự tổ chức và nhiệm vụ hướng dẫn sự đào tạo các cán bộ điều khiển và quản trị. Tuy nhiên, sự phân biệt cần phải được minh định giữa nhiệm vụ hướng dẫn và nhiệm vụ trực tiếp phụ trách của chính quyền như trong một chế độ độc tài Đảng trị, nếu chính quyền muốn bảo đảm sự thành công trong công cuộc tổ chức quần chúng.

 

Trong phạm vi các tổ chức quần chúng công nhân, Việt Nam đă có một cái vốn đáng kể, các nghiệp đoàn đă có và với cái khối kinh nghiệm sẵn có, sự phát triển trong tương lai cũng được bảo đảm.

 

Các tổ chức quần chúng nông dân của chúng ta rất là phôi thai. Nhưng cái vốn của chúng ta trong khu vực tổ chức quần chúng công nhân có thể sử dụng được một cách hữu hiệu trong khu vực tổ chức quần chúng nông dân. Các kinh nghiệm lănh đạo, tổ chức, điều khiển và quản trị của hệ thống nghiệp đoàn sẽ góp một phần quyết định vào công cuộc tổ chức quần chúng nông thôn. V́ vậy cho nên, trong trường hợp của chúng ta, trách nhiệm tổ chức quần chúng nông thôn là trách nhiệm của hệ thống tổ chức nghiệp đoàn sẵn có. Nhưng ngoài lư do của cái vốn phương tiện kể trên, c̣n có lư do của sự liên hệ mật thiết giữa hai loại tổ chức quần chúng, đối với công cuộc biến đổi người nông dân thành công nhân trong khuôn khổ công cuộc phát triển toàn diện của dân tộc.

 

Lĩnh vực kinh tế – quyền sở hữu

 

Trong đoạn dưới đây, chúng ta sẽ phân tích một thái độ kinh tế thích nghi, một mặt với các sự kiện lịch sử mà chúng ta đă tŕnh bày trong các phần trên, một mặt với thái độ chính trị mà chúng ta đă lựa chọn.

 

Chúng ta sẽ không nêu lên và bênh vực một thuyết kinh tế nào hết. Và chúng ta cũng sẽ tự ư không phê b́nh và nhận xét về một thuyết kinh tế nào hết. Dưới đây chúng ta chỉ nhận định xem hoàn cảnh lịch sử của chúng ta trong giai đoạn này, những vấn đề mà dân tộc chúng ta cần phải giải quyết và thái độ chính trị mà chúng ta đă lựa chọn, đ̣i hỏi những điều kiện ǵ trong lĩnh vực kinh tế. Nếu cần, việc xây dựng một hệ thống kinh tế, thoả măn các điều kiện trên, thuộc thẩm quyền của các nhà kinh tế học.

 

Chúng ta cũng không nên quên rằng công cuộc Tây phương hoá, mà chúng ta phải thực hiện, bao trùm các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Và chúng ta cũng phải thực hiện công cuộc Tây phương hoá trong lĩnh vực kinh tế. Trong lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta phải tuyệt đối tránh một sự Tây phương hoá trên h́nh thức. Nghĩa là tránh việc nhập cảng nguyên bản một hệ thống kinh tế của Âu Mỹ, và nắn ép thực trạng của hoàn cảnh Việt Nam phải ăn khuôn vào đó, và tránh việc dùng những danh từ kinh tế của Tây phương để chỉ danh những hoạt động kinh tế không có ǵ là Tây phương của chúng ta.

 

Vấn đề kinh tế phức tạp như tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống. Và môn kinh tế học, v́ đó, không thể mang danh là một môn khoa học chính xác, những định luật kinh tế cũng biến đổi thiên h́nh vạn trạng như những thăng bằng hoá học trong cơ thể của con người, hay những định luật về vị trí của các điện tử trong nguyên tử. Tuy nhiên, nếu các nhà kinh tế học không t́m được những định luật bất biến ấn định nguyên nhân và hậu quả của các sự kiện kinh tế, như một nhà khoa học chính xác, th́ họ cũng có thể, sau khi phân tích các sự kiện của một trường hợp kinh tế, nh́n thấy và đoán trước hướng đi và chiều biến chuyển trong tương lai của trường hợp đó.

 

Như thế, trong công việc Tây phương hoá của chúng ta, trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta, trước hết, cần t́m hiểu những nguyên tắc ngự trị các hệ thống kinh tế của Tây phương. Sau đó, t́m hiểu những điều kiện mà hoàn cảnh lịch sử của chúng ta đ̣i hỏi, trong lĩnh vực kinh tế, và sau cùng xây dựng một hệ thống kinh tế vừa tôn trọng các nguyên tắc, vừa thoả măn các điều kiện địa phương của chúng ta.

 

Trước hết, chúng ta chủ trương một thái độ chính trị đặt trên căn bản bảo vệ trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của tập thể. Thái độ kinh tế phải thích nghi với thái độ chính trị trên và làm hậu thuẫn cho nó.

 

Trong tất cả các yếu tố, xác nhận quyền lợi cá nhân của các phần tử trong một tập thể, th́ quyền sở hữu là bảo đảm hữu hiệu và cụ thể nhất cho tự do cá nhân. Có quyền sở hữu, cá nhân mới tự bảo vệ được khi bị tập thể áp bức. V́ vậy mà, phủ nhận quyền sở hữu như dưới các chế độ độc tài Cộng Sản, có nghĩa là đặt cá nhân hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của quốc gia một cách không bù đắp và phá vỡ trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Và cũng v́ vậy mà, trong chủ trương kinh tế của chúng ta, quyền sở hữu phải được tuyệt đối tôn trọng.

 

Tuy nhiên, một mặt t́nh trạng vô tổ chức của xă hội chúng ta, một mặt chế độ ưu đăi kẻ thống trị dưới thời kỳ Pháp thuộc, đă tạo hoàn cảnh cho nhiều loại tư hữu trở nên to tát và đe doạ quyền lợi tập thể.

 

Điền địa

 

Quyền sở hữu đối với đất, ruộng, trong xă hội vô tổ chức của chúng ta, dễ lâm vào nhiều trường hợp lạm dụng, bởi v́ về thuế vụ cũng như về luật pháp, chúng ta không có những biện pháp để giới hạn diện tích có thể là tư hữu của một cá nhân. Dưới chế độ quân chủ xưa, thỉnh thoảng có một cuộc phân chia đất ruộng trở lại. Nhưng chẳng bao lâu, bởi v́ thiếu các yếu tố giới hạn, qua các cuộc mua bán, lần lần đất ruộng lại tập trung vào tay một thiểu số. T́nh trạng đâu lại hoàn đó và sự tập trung trở thành một mối đe doạ cho tập thể, bởi v́ sự tập trung đất ruộng vào tay một thiểu số làm mất trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Và trong trường hợp đó, một cuộc phân chia mới trở thành khẩn thiết.

 

Hiện nay, sau thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta ở vào một thời kỳ tập trung như vậy. V́ thế cho nên, một cuộc cải cách điền địa trở thành thiết yếu. Chẳng những thế, các luật về thuế vụ và về quyền sở hữu phải được chỉnh đốn để ngăn ngừa một sự tập trung tái diễn.

 

Các biện pháp về luật pháp và về thuế vụ giới hạn quyền sở hữu, để đề pḥng các loại tư hữu trở thành những đe doạ cho quyền lợi tập thể, rất cần thiết trong giai đoạn này, không phải chỉ để ngăn ngừa một sự tập trung ruộng đất tái diễn. V́ ngoài tác dụng ấy ra, như chúng ta sẽ thấy dưới đây, việc kỹ nghệ hoá, tự nó sẽ đ̣i hỏi một cách c̣n khẩn yếu hơn nữa, những biện pháp giới hạn quyền tư hữu.

 

Kỹ nghệ

 

Kỹ nghệ hoá một xă hội có nghĩa là nhập cảng vào xă hội đó những lực lượng sản xuất hùng mạnh, gấp muôn lần những lực lượng sản xuất của một nền kinh tế nông nghiệp. V́ vậy cho nên, sự chiếm hữu đối với các lực lượng sản xuất to tát như vậy sẽ biến các sở hữu chủ thành những người nắm trong tay những lực lượng có thể đe doạ quyền lợi của tập thể và an ninh của quốc gia, nhưng mà, không đồng thời và một cách tương xứng, tăng gia trách nhiệm của những người này đối với quốc gia. Sự tập trung các phương tiện sản xuất nông nghiệp trong tay của một thiểu số đă là một yếu tố làm mất trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Sự tập trung những lực lượng sản xuất mạnh gấp muôn lần, là một nguy cơ cho tập thể.

 

Cho nên trong một xă hội kỹ nghệ hoá, nghĩa là đă sử dụng được những lực lượng sản xuất hùng mạnh, công việc giới hạn quyền tư hữu là một bảo đảm cho sự tồn tại của tập thể. Giới hạn bằng cách quốc hữu hoá những kỹ nghệ trực tiếp liên quan đến quốc pḥng, và những kỹ nghệ thiết yếu cho đời sống hằng ngày của đa số nhân dân, ví dụ, kỹ nghệ sản xuất dược phẩm. Sở hữu chủ các lực lượng sản xuất đó phải là tập thể nghĩa là quốc gia, nghĩa là Chính Phủ.

 

Sự giới hạn quyền sở hữu có thể thực hiện bằng những biện pháp thuế vụ, mục đích để cho sự tập trung các phương tiện sản xuất trong tay một thiểu số, không thành một mối lợi cám dỗ.

 

Tuy nhiên, quyền sở hữu phải được tuyệt đối tôn trọng, bởi v́ chỉ có quyền sở hữu là bảo đảm hữu hiệu nhất cho sự tự do và quyền lợi cá nhân. Phủ nhận quyền sở hữu, như ở các quốc gia Cộng Sản, có nghĩa là hoàn toàn hy sinh cá nhân cho tập thể, hay nói một cách khác phá huỷ trạng thái thăng bằng động tiến trong xă hội.

 

Đơn vị kinh tế

 

Sự kỹ nghệ hoá một xă hội c̣n có thể làm mất trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, một cách khác nữa.

 

Trong một xă hội nông nghiệp, các lực lượng sản xuất tương đối không hùng hậu. Và v́ vậy, đơn vị hoạt động kinh tế thông thường là gia đ́nh. Do đó sự phân phối các lợi tức vật chất, qua một hệ thống tổ chức trên căn bản gia đ́nh, đủ bảo đảm cho sự công b́nh xă hội.

 

Nhưng đối với một xă hội đă kỹ nghệ hoá, sự kiện lại khác hẳn. Trước hết sự kỹ nghệ hoá xă hội có nghĩa là xă hội đă chế ngự được những lực lượng sản xuất mà hiệu năng không thể lường được. Sức sản xuất của máy móc vô tận, nghĩa là miễn có đủ nguyên liệu, th́ máy móc có thể sản xuất nhiều như thế nào cũng được. Mức độ sản xuất có thể thoả măn nhu cầu của một làng, cũng như cho một tỉnh, hay cho khắp một xứ hay cho khắp thế giới. Cho nên đơn vị hoạt động kinh tế đúng theo tầm mức đó, không c̣n phải là một làng, một xứ, mà là tất cả một thế hệ trên thế giới.

 

Dựa trên hiệu năng kinh tế này, chủ nghĩa Mác-xít mới chủ trương một quốc tế chính trị để phù hợp với những lực lượng sản xuất kỹ nghệ mà khoa học đă phát minh. Tuy nhiên, thực tế lịch sử lại không ăn nhịp vào đó, v́ hai lư do. Trước hết, đồng thời với sự phát minh các lực lượng sản xuất kỹ nghệ trong lĩnh vực kinh tế, Tây phương lại t́m lại được chủ nghĩa Dân Chủ. Ư thức dân chủ, khi bành trướng và đánh đổ các chế độ quân chủ, đương nhiên tạo ra thực trạng quốc gia chủ quyền, để thay thế cho tín hiệu tập hợp đă bị tiêu diệt: chế độ quân chủ. Ở đây chúng ta không tự ư bàn đến chế độ Dân Chủ và chế độ Quân Chủ. Sở dĩ chúng ta phải nhắc lại các sự kiện lịch sử trên, là v́, thực trạng quốc gia chủ quyền, đương nhiên giới hạn đơn vị hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia. Và như thế th́ trên lĩnh vực kinh tế, các lực lượng sản xuất kỹ nghệ và ư thức dân chủ đă có những ảnh hưởng trái ngược nhau.

 

Lư do thứ hai là các thành kiến về chủng tộc c̣n lâu mới tiêu mất trong tâm lư nhân loại. Chỉ đến khi nào, toàn bộ nhân loại đă tiến lên đến một tŕnh độ văn minh cao hơn tŕnh độ hiện nay rất nhiều, th́ những thành kiến về chủng tộc mới có thể không c̣n là những trở lực giới hạn đơn vị hoạt động kinh tế của những lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Nhiều trăm thế hệ sẽ sinh và chết trước khi tŕnh độ đó sẽ đến.

 

V́ vậy cho nên, mục tiêu mà lư thuyết Cộng Sản tự đặt ra cho ḿnh, là tạo một chủ quyền chính trị quốc tế ăn khớp với khả năng sản xuất của kỹ nghệ, chỉ là một ảo mộng, trước thực tế lịch sử.

 

Ngày nay, mặc dầu các tư bản quốc tế t́m bằng đủ mọi cách đả phá các bức tường quốc gia chủ quyền, để thoả măn nhu cầu tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế, gồm cả nhân loại và thích nghi với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, các bức tường quốc gia chủ quyền vẫn đứng vững. Cuối cùng th́ lại chính các đơn vị hoạt động kinh tế phải tuỳ thuộc biên giới của một quốc gia. Biên giới càng rộng, đơn vị hoạt động kinh tế càng lớn và do đó càng mạnh. Biên giới càng nhỏ hẹp, hoạt động kinh tế càng nhỏ và càng yếu. Đó là lư do v́ sao các quốc gia Tây Âu đang nỗ lực tạo những thị trường hoạt động kinh tế chung, cho tất cả các quốc gia trong vùng.

 

Để thực hiện một đơn vị hoạt động kinh tế rộng lớn, nhiều quốc gia tự ư hợp thành những liên bang. Điều này liên quan đến chúng ta rất nhiều. Sau này chúng ta sẽ trở lại một cách tỉ mỉ hơn.

 

Trong thực tế, nếu v́ hai lư do trên mà đơn vị hoạt động kinh tế phải giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp của một quốc gia, th́ sự phân phối các lợi tức vật chất cho các phần tử trong quốc gia, theo hệ thống tổ chức trên căn bản gia đ́nh, không c̣n đủ bảo đảm cho sự công b́nh xă hội nữa.

 

Bởi v́ đơn vị hoạt động kinh tế, mặc dù bị giới hạn trong phạm vi quốc gia, vẫn vượt ra khỏi phạm vi gia đ́nh, đơn vị hoạt động kinh tế xưa. Cho nên để bảo đảm sự công b́nh xă hội, chính quốc gia, nghĩa là chính phủ phải đảm đương công việc phân phối lợi tức vật chất. Như thế có nghĩa là, trong thực tế, chính phủ phải quốc hữu hoá nhiều ngành kỹ nghệ và kiểm soát nhiều ngành khác. Đồng thời, nhiều sắc thuế sẽ được đặt ra, để bảo đảm sự phân phối tài sản của quốc gia, trên nguyên tắc công b́nh xă hội.

 

Đă như thế th́, các đoạn trên đây đă nêu lên hai sự kiện chính:

 

1. Quyền sở hữu phải được tuyệt đối tôn trọng để bảo đảm quyền lợi và tự do của cá nhân.

2. Quyền sở hữu phải được giới hạn bằng những biện pháp luật pháp và thuế vụ để bảo đảm công bằng xă hội và quyền lợi của tập thể.

 

Kinh tế chỉ huy

 

Công cuộc kỹ nghệ hoá, như đoạn trên đây vừa chỉ rơ, tự nó mang đến hai hậu quả. Trước hết là sự kiểm soát của tập thể đối với các lực lượng sản xuất to tát và hùng hậu, bảo vệ trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân. Các kỹ nghệ quốc pḥng, các kỹ nghệ có lợi ích công cộng phải đặt dưới sự trực tiếp chỉ huy của chính phủ.

 

Hậu quả thứ hai là hệ thống phân phối tự nhiên của xă hội, dựa trên căn bản tổ chức gia đ́nh, không c̣n đủ bảo đảm công b́nh xă hội nữa. Sự phân phối phải do tập thể đảm nhiệm, và qua trung gian các cơ quan an ninh xă hội, các lợi tức quốc gia được phân chia, một cách đồng đều hơn, cho mọi phần tử của tập thể. Riêng hai sự kiện trên cũng đủ để chứng minh rằng một nền kinh tế kỹ nghệ đúng nghĩa phải được hướng dẫn, phải được chỉ huy.

 

Đối với một quốc gia đang t́m phát triển, nền kinh tế lại c̣n cần phải được chỉ huy hơn nữa, v́ những lư do dưới đây.

 

Công cuộc kỹ nghệ hoá là một phần chính yếu trong công cuộc phát triển kinh tế. Công cuộc phát triển kinh tế chính nó là một phần trong công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá.

 

Công cuộc phát triển dân tộc như chúng ta đă biết là một sự nghiệp vĩ đại chỉ có thể thực hiện được với sự tham gia của toàn dân, theo một chương tŕnh phân minh bao trùm các lĩnh vực của đời sống quốc gia và gồm nhiều giai đoạn tiến triển. Thực hiện một chương tŕnh như vậy có nghĩa là phải chấp thuận một sự lănh đạo có đường hướng và một sự chỉ huy chặt chẽ.

 

Trong lĩnh vực kinh tế, sự khai triển phải thực hiện bằng cách biến đổi nền kinh tế nông nghiệp hiện tại thành một nền kinh tế kỹ nghệ. Muốn như vậy điều kiện cốt yếu là phải trang bị những phương tiện sản xuất kỹ nghệ cho quốc gia, nghĩa là những máy móc sản xuất và những nguồn năng lực để làm chạy các máy móc nói trên.

 

Để mua các máy móc, một phần số vốn xuất ra do viện trợ của các nước. Nhưng phần lớn số vốn phải do chính các quốc gia muốn khai triển kinh tế xuất ra. Và số vốn này, như chúng ta đă thấy, truất ở lợi tức hằng năm của quốc gia, nghĩa là mỗi phần tử trong tập thể phải truất ra một bách phân, trong số tiền ḿnh làm ra được hằng năm, để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hoá, thay v́ mang đi tiêu thụ.

 

Hơn nữa, trong t́nh trạng hiện hữu, các quốc gia có một nền kinh tế nông nghiệp, như chúng ta, đă có một lợi tức quốc gia rất thấp v́ các lực lượng sản xuất nông nghiệp của các quốc gia đó rất yếu. Lợi tức kém, mức sống thấp, nay lại phải truất ra một bách phân trong quỹ tiêu thụ để bỏ vào quỹ kỹ nghệ hoá. Như thế, sự đóng góp vào quỹ kỹ nghệ hoá chỉ có thể thực hiện bằng cách mỗi người phải nỗ lực làm việc nhiều hơn để cho mức sản xuất cao hơn và lợi tức của quốc gia gia tăng, mà mức sống của toàn dân không v́ đó mà sụt dưới một mức độ có thể chấp nhận được.

 

Một công cuộc nỗ lực sản xuất kinh tế như vậy cố nhiên là phải thực hiện theo một chương tŕnh, nghĩa là phải có sự chỉ huy.

 

Sau hết, trong một công cuộc kỹ nghệ hoá, các lĩnh vực kỹ nghệ không thể đồng phát triển cùng một lúc và với một cường độ ngang hàng nhau. Trước hết, phương tiện không đủ, để có thể thực hiện công cuộc kỹ nghệ hoá trong tất cả các lĩnh vực, cùng một lúc. Đă như vậy th́, một thứ tự ưu tiên cần phải được đặt ra dựa trên những nhu cầu của tập thể. Và chúng ta đă thấy rằng những nhu cầu của tập thể do hoàn cảnh lịch sử, vị trí địa dư và địa vị quốc tế của quốc gia chi phối. Nói một cách khác, thứ tự ưu tiên trong các lĩnh vực kỹ nghệ phải được nghiên cứu tỉ mỉ và sau đó tôn trọng một cách trung thành. Như vậy th́ công cuộc kỹ nghệ hoá phải được thực hiện theo một chương tŕnh cố định rơ ràng, và như vậy là phải có sự chỉ huy.

 

Các trường hợp đă được phân tích trên đây đều chứng minh rằng nền kinh tế của quốc gia, đang t́m phát triển, phải là một nền kinh tế chỉ huy.

 

Điều mà chúng ta cần đặc biệt chú ư, là chúng ta đă đi đến kết luận trên đây, không phải sau khi đă phân tích các thuyết kinh tế, đă cân nhắc lợi và hại của mỗi thuyết, và cuối cùng đă chọn một thuyết tối tân và hoàn toàn nhất. Chúng ta cũng không làm một tổng hợp các thuyết kinh tế để dung hoà các chủ trương và rút các tinh tuư của nhiều thuyết để làm một toàn bộ. Chúng ta đă không làm cái công việc lư thuyết đó, và chúng ta đă tự ư đặt ḿnh ra ngoài ṿng một sự phân tích các thuyết kinh tế v́ các công việc ấy, thuộc thẩm quyền các nhà kinh tế học.

 

Chúng ta chỉ có phân tích các sự kiện thực tế của lịch sử đang chi phối trường hợp của chúng ta. Và chính các sự kiện đó đă tạo ra cho chúng ta những điều kiện và những nhu cầu trong lĩnh vực kinh tế mà chúng ta cần phải thoả măn.

 

Thái độ của chúng ta ở trong lĩnh vực này, cũng như là thái độ của chúng ta đối với vấn đề chính của dân tộc, trong tập sách này. Thái độ đó có thể không thoả măn một lư thuyết, nhưng chắc chắn là thiết thực và sát với sự kiện cụ thể của lịch sử.

 

Dưới đây chúng ta trở lại một lần nữa về vấn đề kinh tế chỉ huy. Sự chỉ huy đă là một sự hiển nhiên, chúng ta cần phải nhận thức rơ ràng tính chất của sự chỉ huy và ấn định phân minh giữa giới hạn của sự chỉ huy, mà chúng ta chủ trương.

 

Tính chất và giới hạn của sự chỉ huy

 

Trước hết, sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế sẽ do thái độ chính trị của chúng ta định nghĩa và giới hạn. Trong lĩnh vực chính trị, chúng ta đă chứng minh v́ sao trong hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta, một chủ trương độc tài không thể áp dụng được, và chỉ mang đến những kết quả thảm hại cho dân tộc.

 

V́ thái độ chính trị đó mà sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, cũng như sự hướng dẫn của chúng ta, trong lĩnh vực tổ chức quần chúng, không thể đi đến mức độ hoàn toàn cưỡng bách được. V́ thái độ chính trị của chúng ta, nên chúng ta không làm sao sử dụng được những biện pháp độc tài để khắc phục cho kỳ được, sự tham gia thật sự nhưng cưỡng bách của nhân dân vào các công cuộc của quốc gia. Đă không khắc phục được sự tham gia của nhân dân bằng những phương pháp hoàn toàn cưỡng bách, th́ chúng ta phải khắc phục sự tự ư tham gia của nhân dân. Cũng như trong lĩnh vực tổ chức quần chúng, nếu quần chúng không tham gia th́ các tổ chức quần chúng không c̣n lư do tồn tại nữa. Trong lĩnh vực kinh tế, nếu không có sự tham gia của nhân dân, bằng sáng kiến, bằng tư bản và bằng kỹ thuật kinh doanh th́ kinh tế không phát triển được.

 

Nhận xét trên đây ấn định rơ ràng giới hạn của sự chỉ huy mà chúng ta chủ trương. Sự chỉ huy kinh tế của chúng ta sẽ ở trong giới hạn lập các kế hoạch phát triển kinh tế, phân loại các khu vực cần được quốc hữu hoá, tạo hoàn cảnh thuận lợi, trang bị phương tiện và kiểm soát. Công việc điều khiển và khuếch trương các doanh nghiệp trong các lĩnh vực không quốc hữu hoá, phải được giao hoàn toàn cho sáng kiến, kỹ thuật và tư bản của tư nhân.

 

Sự chỉ huy của chúng ta chủ trương trong lĩnh vực kinh tế, không thể vượt ra ngoài giới hạn ấn định trên đây được. Bởi v́, nếu chúng ta vượt ra ngoài phạm vi đó, chúng ta sẽ không có sự tham gia của nhân dân, trong các công cuộc dự tính của quốc gia, trong lĩnh vực kinh tế, ngoại trừ một sự tham gia cưỡng bách. Nhưng thái độ chính trị mà chúng ta đă lựa chọn, không cho phép chúng ta sử dụng những biện pháp khả dĩ để khắc phục được một sự tham gia cưỡng bách như vậy.

 

Tóm lại, trong lĩnh vực kinh tế, các chương tŕnh phát triển phải được đặt dưới sự chỉ huy của chính phủ, ngoài những khu vực sẽ do chính phủ trực tiếp phụ trách. Tính cách cần thiết của sự chỉ huy do các yếu tố dưới đây tạo ra:

 

1. Pḥng ngừa một sự tập trung trong tay một thiểu số, những phương tiện sản xuất to tát có thể trở thành một mối đe doạ cho tập thể.

2. Bảo đảm một sự phân phối lợi tức quốc gia một cách công b́nh giữa các phần tử trong tập thể.

3. Bảo đảm một sự gây vốn cho quỹ kỹ nghệ hoá quốc gia.

4. Bảo đảm một công cuộc kỹ nghệ hoá đúng nhu cầu của tập thể.

 

Nhưng sự chỉ huy phải được giới hạn trong phạm vi ấn định bởi thái độ chính trị của chúng ta. Và v́ thái độ này mà chúng ta không thể sử dụng được nhiều biện pháp khả dĩ khắc phục được sự tham gia cưỡng bách của nhân dân vào các công cuộc dự tính của tập thể.

 

Trên đây nhiều lần chúng ta đă đề cập đến những khu vực, trong đó các công cuộc phát triển kinh tế phải được quốc hữu hoá.

 

Lư do chính yếu của sự quốc hữu hoá một ngành kỹ nghệ là đề pḥng sự kiện những phương tiện sản xuất của ngành kỹ nghệ đó, tập trung trong tay một thiểu số, biến thành một mối đe doạ cho tập thể.

 

Hiểu một cách hẹp th́ tất cả các kỹ nghệ quốc pḥng, hay trực tiệp liên hệ đến quốc pḥng, phải là những kỹ nghệ được đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của quốc gia. Trong các loại thứ nhất, có những xí nghiệp về năng lực, những xí nghiệp kỹ nghệ nặng, những xí nghiệp về nguyên tử và những xí nghiệp về điện tử, ngoại trừ những máy điện tử thông dụng. Các xí nghiệp chuyên chở đại quy mô thuộc vào loại thứ hai. Tuy nhiên, tính cách liên hệ đến quốc pḥng thiết yếu nhiều hay ít, biến đổi tuỳ theo t́nh h́nh chính trị. Đối với các loại thứ nhất, chính phủ có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển thường xuyên và liên tục. Đối với các loại thứ hai, sự trực tiếp điều khiển chỉ là giai đoạn.

 

Hiểu một cách rộng, sự đe doạ đối với tập thể chẳng cứ trong phạm vi quân sự, quốc pḥng mới có. Khi nào có sự tập trung trong tay một thiểu số những phương tiện sản xuất liên quan đến đời sống của nhiều người, th́ có một trường hợp đe doạ cho tập thể. V́ vậy cho nên, việc quốc hữu hoá phải lan rộng đến các khu vực kỹ nghệ cung cấp cho những nhu cầu thông thường những thiết yếu cho đa số. Ví dụ, các xí nghiệp sản xuất dược phẩm và các xí nghiệp sản xuất vải sợi. Tuy nhiên trong những trường hợp này, sự quốc hữu hoá không cố định và thường xuyên. Nguyên tắc cần phải được tôn trọng là sự thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể lúc nào cũng phải được giữ vững. Nhưng lúc nào những nhu cầu sơ đẳng của đa số chưa được thoả măn, th́ kỹ nghệ liên hệ phải được đặt dưới sự trực tiếp điều khiển của chính quyền. Trái lại, lúc nào v́ mức sản xuất đă đủ dồi dào để bảo đảm cho nhu cầu của tập thể, những kỹ nghệ liên hệ có thể bằng nhiều h́nh thức tài chính, trả về cho phạm vi tư nhân.

 

Một thái độ kinh tế như thái độ chúng ta chủ trương trên đây, phức tạp và khó thực hiện hơn là thái độ một chiều: hoặc hoàn toàn giao cho sáng kiến tư nhân hay hoàn toàn quốc hữu hoá. Thái độ chúng ta chủ trương không phải là một thái độ dung hoà giữa hai thái độ cực đoan, mà là một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai yếu tố đối chọi: Quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể. Một thái độ dung hoà là một thái độ tĩnh, nhu nhược và không chính xác; giữ vững một trạng thái thăng bằng động tiến là một cố gắng không ngừng, để t́m cho đúng vị trí thăng bằng lúc nào cũng xê dịch và lúc nào cũng thay đổi.

 

Và chính v́ thế mà thái độ kinh tế của chúng ta phức tạp. Nhưng cũng chính v́ thế mà thực hiện được sự thăng bằng động tiến là t́m được lối sống.

 

(c̣n tiếp)

Tùng Phong Lê Văn Đồng

 

 

 

* Trang Chủ

* Kim Âu

* Báo Chí

* Quảng Cáo

* Tác Giả

* Mục Lục

* Pháp Lư

* Cộng Đồng Georgia

* Một Trang Lịch Sử /details

* Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

* Một Trang Lịch Sử /org/3

* Một Trang Lịch Sử/pdf

* Biệt kích trong gịng lịch sử

* Hồi Chuông Báo Tử

* Mapquest

* Thời Thế

* Tháng 07-2008

* Tháng 08-2008

* Tháng 09-2008

* Tháng 10-2008

* Tháng 10.2008

* Tháng 11-2008

* Tháng 12-2008

* Tháng 01-2009

* Tháng 02-2009

* Tháng 03-2009

* Tháng 04-2009

* Tháng 05-2009

* Tháng 06-2009

* Tháng 07-2009

* Tháng 08-2009

* Tháng 09-2009

* Tháng 10-2009

* Tháng 11-2009

* Tháng 12-2009

* Tháng 01-2010

* Tội Ác của nhóm PG Ấn Quang

* Vụ Đài Việt Nam Hải Ngoại

* Vấn đề Cựu Tù CT

* Về Tác Phẩm Vô Đề

* Hồng Y Và Lá Cờ

* Giấc Mơ Lănh Tụ

* Biến Động Miền Trung

* Con Đường Đạo

* Gian Đảng Phở Ḅ

* Băng Đảng Việt Tân

* Gian đảng bịp bợm

* Mộng Bá Vương

* Phía Nam Hoành Sơn

* Vô đề - Khuyết danh

* Lưu Trữ

* Nguyễn Mạnh Trinh

* Phùng Ngọc Sa

* Nguyễn văn Chức

* Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

* Hoàng Đạo Thế Kiệt

* Dương Như Nguyện

* Đinh Thạch Bích

* Hoàng Hải Thủy

* Đỗ Hoàng Gia

* Trúc Đông Quân

* Nguyễn Mạnh Quang

* Đào Vũ Anh Hùng

* Đỗ Văn Phúc

* Đinh Lâm Thanh

* Nam Nhân

* Nguyễn Đạt Thịnh

* Phạm Thanh Phương

* Thuư Đặng (BN 587)

* Trương Minh Ḥa

* Tân Dân

* Trần Thanh

* VietEdit

* ChinhNghia Forum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   

    Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ . Báo Chí . BBC . RFI . RFA . Tác Giả . Kỹ thuật . Dịch Thuật . Quảng Cáo . Groups . Portal . Forum .Tinh Hoa . Da Lat . Thư Quán . ChinhNghiaMedia . Liên lạc

 

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)