KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION -LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO -THỜI THẾ - VĂNHỌC - MỤCLỤC POPULATION - WBANK - BNG - ARCHIVES - ĐKN. POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION -
VẤN ĐỀ - LÀMSAO -T̀M IP - COMPUTER - USFACT
POP EIR FDA EXPRESS. LAWFARE NEWSMAX
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam
with Ross Perot, Billionaire
with General Micheal Ryan
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER
ĐEM TÂM T̀NH VIẾT LỊCH SỬ
MẸ,
MẸ SOI SÁNG ĐƯỜNG ĐI CHO CÁC CON CỦA MẸ.
Nguyễn Mạnh Côn
Vào cuối tháng chạp năm ngoái anh Nguyễn Đình Vượng
đã in xong cuốn “ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ” này của tôi.
Tập san Chỉ Đạo có thịnh tình báo tin là sang đầu Giêng
1958 chúng tôi sẽ có sách bán. Kể từ bấy giờ, chúng tôi
đã nhận được khá nhiều thư hỏi thăm. Nhưng cuốn sách vẫn
chưa ra được, cho đến nay đã sang tháng Năm…
Cuốn sách không ra được vì thếu hẳn một khuôn 16 trang
đầu. Khuôn này không in được vì chúng tôi chưa có bài tựa.
Tôi vẫn đinh ninh xin một bạn văn viết cho mấy lời giới
thiệu. Hoặc nữa –tôi nghĩ như vậy- tôi có thể tự mình bày
tỏ những nguyên nhân vì đâu tôi tạo thành được cuốn sách.
Từ năm đến bảy trang in chỉ là việc làm trong một đêm. Thế
mà hơn một trăm đêm qua đi, chúng tôi vẫn chưa có bài tựa.
Hay nói cho đúng, trong số bảy tám bài đã viết xong, chúng
tôi không tìm được bài nào tương xứng với cuốn sách.
Thật xa xôi những kỳ thị chủ quan về giá trị văn
chương hay tư tưởng của bài tựa: Tôi vẫn muốn được giới
thiệu, hoặc tự giới thiệu, hoàn toàn về tình cảm. Nhưng
tình cảm trong bản thân tôi, sau khi tôi viết xong cuốn sách,
đã lắng xuống, như trời quang mậy tạnh sau một cơn giông tố.
Ngày này qua ngày khác, tôi tìm hoài hủy không có được một
rung động nhỏ. Tôi không sao viết nổi bài tựa. Tôi nghĩ mãi:
Thì ra vấn đề không thu hẹp trong phạm vi văn nghệ hay kỹ
thuật, vấn đề bao quát cả một niềm hi vọng tha thiết của
quốc dân năm 1945, cả một cuộc phản bội của Mặt Trận Việt
Minh, với không biết bao nhiêu người sống quằn quại, không
biết bao nhiêu người chết thảm thê vì sự phản bội ấy. Tôi
không viết được là phải. Tôi có lẽ nào đem chút tình cảm
vụn vặt của mình làm mào đầu cho cả một giai đoạn lịch
sử cao quý, hùng vĩ của dân tộc?
Nhưng vì đâu hôm nay tôi tự nhiên thấy bùng lên trong tâm
hồn một ngọn lửa như ngày nào còn đương viết về những
người bạn bị hạ sát trong cuộc Đấu Tranh Chính Trị của
Việt Cộng. Tôi nóng nảy, muốn trút ngay lên mặt giấy một
sự cần thiết phải gào thét, phải nức nở, cho số phận
những người bạn tôi sắp phải chết, ngoài kia, bên trên vĩ
tuyến Bắc 17 độ.
Nói là bạn nhưng chỉ có một số nhỏ là bạn tôi thật,
còn nhiều người mới quen sơ qua trên con đường kháng chiến,
nhiều người chưa hề được gặp mặt, nhiều người tôi đáng tôn
lên bậc Thầy. Phan Khôi, Đào Duy Anh, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng
Cầm, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… Những
người ấy sắp bị Việt Cộng đem ra xử án.
Tôi đủ hiểu Việt Cộng, để biết đích vì sao họ phải
đem ra buộc tôi công khai những người đáng lẽ họ có thể thủ
tiêu bí mật. Nhất định là trong hàng ngũ của họ có sự
sứt mẻ trầm trọng. Một luồng dư luận mãnh liệt rõ rệt
đương sôi sục lên giữa những người trí thức. Việt Cộng có
thể giết bỏ vài chục nhân mạng bằng một chuyến máy bay
định trước cho phát hỏa trên không trung, nhưng Việt Cộng cần
phải dập tắt một luồng dư luận. Việt Cộng cần phải tổ
chức cho kỳ được những phiên tòa công khai, trong đó từng
người, từng người, trong số những người chủ trương chống
lại chủ nghĩa Stalin-Mao-Hồ, phải công khai nhận tội, sau khi
được giáo dục một lần cuối cùng bằng những phương pháp
phát minh bởi đội M.V.D., đặc vụ chính trị. Năm 1936, Stalin
đã dùng thử những phương pháp ấy vào những vị lãnh tụ
của thời kỳ tiền khởi nghĩa 1917 : tất cả mọi người đã
nhận tội phản đảng, phản quốc, phản nhân dân.
Bây giờ đến lượt những nhà trí thức Việt Nam kháng
chiến. Họ sẽ ra tòa, ngây độn, ngớ ngẩn vì những liều
thật nặng của những thứ thuốc Pentholal, Morphine, Largactil,
vì cả đêm đứng dưới hàng chục ngọn đèn 500 nến, không được
nhắm mắt. Họ mệt mỏi cùng cực, với một phần đầu óc bị
tê liệt bởi độc dược, họ sẽ nhận hết mọi tội, xin lỗi
Đảng đủ điều, để chóng được nằm xuống nghỉ, dù là nghỉ
chẳng bao giờ còn dậy. Họ sắp phải trả giá bằng tính
mạng, những lỗi lầm của họ năm 1954.
Năm ấy, bằng sự tự ý ở lại miền bắc, họ đã chấp
nhận những nguyên tắc thiết yếu của một chế độ độc tài.
Họ đã nhìn chúng tôi –chúng ta- ra đi, hoặc thương tình hoặc
rễu cợt. Tin tưởng vào lý luận, họ chờ đợi trông thấy giai
cấp vô sản nắm quyền chuyên chế, nhờ có sức mạnh của đa
số. Họ không phải là người đa số, họ biết từ lâu đa số sẽ
quá khích và độc đoán. Nhưng họ không phút nào sợ hãi,
viện cớ rằng họ chính là những người chỉ đường cho đa số
– người ta, bọn lãnh tụ, vẫn nói như thế trong suốt thời
kỳ kháng chiến.
Họ không chịu rằng họ chỉ là những phương tiện của
bọn lãnh tụ, phương tiện dùng để khích động dân chúng reo
hò băng mình vào lửa đạn. Phương tiện đã hết mọi tác dụng
khi cuộc kháng chiến tạm thời dừng lại. Mà họ không chịu
biết như thế, nên vẫn còn muốn soi sáng cho dân chúng đi lên
con đường tự do hạnh phúc. Rất có thể họ muốn lãnh đạo
cả chính trị, ảnh hưởng cả lãnh tụ, bởi nhân danh văn nghệ
sĩ, họ gần gụi nhân dân hơn ai hết. Họ nghĩ mình là những
phần tử thành tâm nhất của một chế độ cộng hòa nhân dân
hay xã hội chủ nghĩa lý tưởng, nếu không phải là những
người cộng sản thuần túy. Họ quên mình vốn dĩ là trí
thức, trí thức tư sản.
Họ, nói cho thật đúng, có nhớ rằng từ khi chính phủ
công khai lệ thuộc đảng, đảng đã có thái độ rõ rệt đối
với những kẻ thù số một là giai cấp tiểu tư sản, lãnh
đạo bởi tầng lớp trí thức, luôn luôn bảo vệ nhân phẩm, nhân
đạo, tự do cá nhân, và tình thương yêu từ con người đến đất
nước. Thái độ này nhằm xử trí trước tiên những phần tử
tiểu tư sản đối kháng, chỉ giữ lại một số nhửng kẻ nào
chịu đầu hàng. Chính họ đã đầu hàng, nên cho chết tinh
thần tự trọng để học tập chối bỏ cha ông và quá khứ. Họ
tưởng thật làm như thế sẽ được đảng tha thứ cho cái tội
đầu thai nhầm giai cấp.
Cho nên họ không ngờ phía sau những danh từ tốt đẹp
của “Cuộc Cách Mạng Vô Sản Vĩ Đại của nhân dân ta” đã có
sẵn một bản án của bọn lãnh tụ. Và tất cả những trọng
tội bọn chúng đem buộc cho họ hôm nay: Phản đảng, phản cách
mạng, gián điệp, tất cả chỉ để trừng trị họ dám theo
đuổi một khẩu hiệu: Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc, lợi dụng
khẩu hiệu ấy để vận động nhân dân, tranh giành ảnh hưởng
trong nhân dân với lãnh tụ.
Sự nhầm lỗi của họ sẽ phải trả giá bằng tính mạng.
Nhưng trước khi chết, họ đã phải hối hận. Những truyện
ngắn, những bức tranh, những bài thơ hay những bài tham luận
họ sáng tạo ra trong ba năm gần đây, hết thảy đều chứng tỏ
niềm thất vọng, cay đắng, xót xa của họ. Đến bây giờ, đọc
những bài buộc tội họ, do bọn học trò của họ viết ra,
tất họ đã hiểu Việt Cộng đã quyết định từ lâu rằng, sống
tiểu tư sản, họ sẽ chết tiểu tư sản, không bao giờ không là
tiểu tư sản!
Cái chết trông thấy của những người bạn có thể nào
không gây ra trong tâm hồn tôi một sự xúc động cùng cực, mặc
dầu họ có thể vẫn tự nghĩ là nghững người cộng sản bị
những người Cộng Sản khác sát hại vì tranh nhau quyền lợi?
Trong lúc này, tôi không sao nghĩ đến họ một cách chia rẽ.
Họ, như Trương Tửu, có thể vẫn ôm lấy danh nghĩa Cộng
Sản (anh theo chủ nghĩa Mác ngoài hai chục năm, chẳng có gì
bảo đảm anh đã rời bỏ chủ nghĩa ấy từ 1954!) Họ, như Phan
Khôi, Đào Duy Anh, Hoàng Cầm, chưa hề bao giờ là những người
Cộng Sản. Nhưng cùng nhau, họ đã chống lại Việt Cộng. Điều
cần biết, đối với tôi, là trong hàng ngũ duy vật, một sự
nứt nẻ trầm trọng đã được xác nhận.
Một điều cần biết nữa là thực tế đang chứng minh
rằng những con người ấy, vốn dĩ cộng sản hay chỉ đầu hàng
hoặc thỏa hiệp với Việt Cộng, cuộc tranh đấu của họ gần
đây là cuộc tranh đấu tiểu tư sản. Dưới bất kỳ nhãn hiệu
chính trị nào, do họ tự nhận lấy hoặc bị kẻ khác gán cho
họ, họ quả thật là những người tiểu tư sản, trí thức
tiểu tư sản.
Những người trí thức tiểu tư sản, trong hòa bình và
vì lý tưởng, dám liều mình chống lại cường quyền và bạo
lực, đó là câu kết cho cuốn ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ, câu
kết tôi muốn viết, mà trước kia không dám viết, e ngại rằng
chưa đủ bằng chứng cho chúng ta tin cậy.
Thì bậy giờ, những nhà trí thức của thành Hà Nội,
của Hồ Gươm và Hồ Tây không bao giờ phai nhòa trong tâm tưởng
kẻ lưu vong, những nhà trí thức anh dũng ấy, bằng tai nạn
của họ, đã cho phép chúng ta một lời quyết định.
NGUYỄN KIÊN TRUNG
Hà Nội, ngày 3 tháng 9 năm 1945
Thân ái Trung,
Hôm nay viết cho Trung mà tâm hồn tôi còn thắm mầu của
cả một rừng cờ, còn rực tiếng reo của muôn vạn người say
sưa giữa vườn hoa Ba Đình.
Chao ơi Trung,
Chúng tôi hôm qua, đã uống từng tiếng, từng chữ của
bài Tuyên Ngôn Độc Lập. Và thế là chúng ta trở nên những
công dân của một nước độc lập, trước quốc tế, trước thế
giới, trước nhân loại và trước Đất Trời.
Tôi có thể nói với Trung rằng mười lăm đêm nay tôi không
hề chợp mắt ngủ. Mà tôi không mệt. Trái lại, sau mỗi đêm
thao thức để toan tính, để thèm khát những ngày mai nhất
định rực rỡ, rực rỡ như Cha Mẹ tôi, Ông Bà tôi chưa bao giờ
biết, thì cứ mỗi lần ánh sáng mặt trời trở lại chiếu
vào lá cờ đỏ thắm vẫn phấp phới trước cửa nhà là mỗi
lần tôi được tiêm thêm một liều sinh lực. Mỗi ngày chúng tôi
một thêm khỏe, mỗi ngày chúng tôi một thêm hăng hái.
Chúng tôi hăng hái đến nỗi có những lúc muốn chết,
muốn chết ngay cho tổ quốc, và chết ngay giũa lúc vinh quang
sáng chói này.
Trung mỉm cười nghi ngờ, -Trung cho rằng tôi nói cho
đẹp, cho bảnh mà thôi?
_ Nhưng không đâu! Trung! Trung ở nơi hải ngoại, giữa
quang cảnh thành Ba Lê đã phục hồi tự do và đời sống hoa
lệ, làm sao Trung có thể hiểu nỗi lòng bạn Trung ở nước
nhà?
Tôi biết Trung có tham gia chiến khu “Pháp tự do” chống
Đức. Tôi tưởng tượng được cuộc đời gian khổ mà Trung và
các đồng chí của Trung đã sống. Tôi cảm thông được niềm
hãnh diện cũng như nỗi vui mừng của Trung khi bước lên giải
phóng Ba Lê.
Tôi hiểu Trung nhưng Trung không thể hiểu tôi. Bởi lẽ tôi
biết rõ hoàn cảnh Trung, mà Trung không biết gì về hoàn
cảnh của tôi. Tôi viết rõ hơn nữa nhé, Trung là khách đến
đất Pháp, Trung thấy Bạo Ngược đàn áp Tự Do, nên con người
“mã thượng anh hùng” đã không bỏ lỡ cơ hội tiếp tay cho Công
Lý thắng Cường Quyền. Như thế là Trung có mọi điều kiện
để mình tự bằng lòng mình.
Có phải hoàn cảnh của Trung đúng như thế không?
Còn hoàn cảnh của Minh thế nào? Chắc trung muốn hỏi
lại như vậy. Cho nên, sau đây, tôi sẽ thuật lại cho Trung hay
những gì đã xảy ra chung quanh tôi, trên đất nước, từ ngày
Trung ra đi, tới nay thắm thoát đã trọn sáu năm (tôi sẽ không
ngại viết dài, vì tôi biết Trung sẽ không ngại đọc dài. Tôi
vụng về nhưng chận thành nên những gì tôi thuật lại với
Trung đề là những sự kiện có thật. Và cũng bởi vậy, nếu
lá thơ này không thể có giá trị văn chương thì ít ra nó
cũng có giá trị tâm tình, giữa Trung với tôi, và giá trị
tài liệu, đối với lịch sử dân tộc Việt. Vì lịch sử là
gì, nếu không phải là một thứ tâm sự lớn lao, bao gồm tất
cả tâm sự vụn vặt nhưng tâm thành của mỗi người dân như
chúng ta?)
***
Vậy thì Trung ơi, đây là chút ít lịch sử Việt Nam, từ
1939 đến 1945. Lịch sử của một dân tộc qua sự sống của một
cá nhân lịch sử chủ quan. Nhưng mỗi cá nhân lại là một
phần tử của con số hai mươi nhăm triệu cá nhân có khả năng
dựng nên lịch sử. Bởi thế Trung có thể tin lời tôi.
***
Năm 1939 là năm Trung sang Pháp, để thỏa mãn tính giang
hồ nhiều hơn để giúp “mẫu quốc” chống Hitler. Cuối năm ấy,
theo gót Trung, tôi cũng đi Hương Cảng.
Tôi nhớ lại tâm tình của chúng ta lúc bấy giờ: Chúng
ta thèm khát không gian như loài người thèm khát khí trời.
Vì trong chúng ta là cả một tâm hồn đào tạo bởi văn hóa
Pháp. Chúng ta thèm khát tự do mà tự do không có. Sự học
như mở cho ta một cánh cửa sổ, để nhìn ra ngoài thì thấy
cảnh vật huy hoàng chói lọi, nhưng chúng ta không tới được
cảnh vật, vì cửa sổ cao quá (hay thấp quá?)
Chắc Trung không quên rằng, vào năm đó, tâm hồn ta hèn
yếu đến nỗi ta không dám nhảy qua cửa sổ. Ta cũng không dám
cả nghĩ đến sự nhảy qua cửa sổ. Căn nguyên của sự hèn
nhát này là sự quá quen hưởng thụ một cuộc sống tuy thiếu
tự do mà thừa yên ổn. Nết xấu chung của hai ta, của chung
của đa số thanh niên thời ấy, là cầu an.
Riêng chúng ta, nhờ địa vị của Cha Mẹ, được thoát thân
ra đi. Ra đi để học hỏi, Trung tâm sự với tôi thế, và tôi
cũng nhủ lòng như thế.
Nhưng trái với Trung, có hoàn cảnh để kéo dài sự học
hỏi đến ngày nay, tôi đã lại trở về Hà Nội tháng sáu năm
1940.
Tôi về nước không phải bị bắt buộc; tiền nhà vẫn gởi
sang đều đặn, và sự học vấn vẫn tiến bộ đều đều. Sự “quy
cố hương” của tôi thành ra không có lí do chính đáng đến
nỗi về hà Nội sáu tháng rồi mà tôi không dám về thăm Thầy
tôi : tôi biết nói với người thế nào để khỏi hổ thẹn vì
sự thằng thúc đòi đi năm trước?
Thầy tôi có lẽ hiểu, và thương tình con trẻ hay thay
đổi, nên cũng không hỏi lại về việc này. Duy Mẹ tôi, thương
tôi một cách khác và lo sợ cho con có điều gì u uất trong
lòng, Mẹ tôi nhất định hỏi tôi cho ra lẽ. Thành thử có một
buổi chiều tôi phải thu hết can đảm để trả lời Mẹ tôi rằng
:” Con chắc rồi đây sẽ có những sự biến chuyển lớn lao
trong đất nước.”
Mẹ tôi nhìn tôi ngạc nhiên không hiểu. Tôi lại không sao
nói rõ hơn. Ý tôi muốn nói thêm rằng tôi không muốn vắng
mặt khi có những biến chuyển lớn lao trong đất nước, nhưng
tôi hổ thẹn quá mà không nói nên lời.
Tại sao có thế mà tôi lại hổ thẹn, chẳng hóa ra làm
thân trai, chú trọng đến việc nước là xấu xa lắm sao? –
Chắc không phải thế. Tôi hổ thẹn, có lẽ vì trong tình
trạng dân ta hồi ấy, sự cam lòng vâng lệnh chính phủ bảo
hộ đã là sự quá quen rồi. Và trong thâm tâm, trong tiềm
thức, có lẽ tôi nghĩ đến Thầy tôi là người sinh ra tôi, đến
nhiều người ở địa vị cao quí hơn cả địa vị của Thầy tôi,
mà thấy các “bậc trên” ấy còn không bận tâm lo việc nước,
thì cái cá nhân tiểu mọn của tôi dám nói đến việc nước,
há chẳng phải ngông cuồng, khoác lác lắm sao?
Căn nguyên sự hổ thẹn của tôi là như thế. Nhưng tôi
không chỉ hổ thẹn không mà thôi đâu. Sự hổ thẹn ngắn ngủi,
sự tủi cực về sau mới lâu dài hơn; cứ mỗi khi nghĩ rằng
trong toàn dân không có mấy ai muốn lo việc nước, tôi lại
thấy thấm thía trong tâm hồn một thứ cảm xúc như bàng
hoàng lo sợ, như tủi nhục, như uất hận…
Trạng thái tâm lý này của tôi kéo dài trong mấy
tháng. Cảm xúc xao xuyến đến chỗ bế tắc cả khả năng suy
nghĩ, tôi tự nhiên lâm vào một thời kỳ sinh hoạt hoàn toàn
theo con đường phóng đãng và trụy lạc, lấy thú vui ồ ạt
bên ngoài để đàn áp tâm tướng sôi nổi bên trong.
Nhưng cũng may là thời kỳ này chóng hết. Tôi về nước
chỉ được mấy tháng là quân Nhật tiến đánh vào Lạng Sơn.
Cho đến nay tôi vẫn không biết lý do thực sự vì sao
người Nhật đánh Lạng sơn, vì trước khi tiến đánh, họ đã
điều đình với người Pháp và đã giành được ít nhiều quyền
lợi.
Có lẽ họ cho rằng quyền lợi giành được chưa đủ, có
lẽ rằng họ nghĩ thế nào cũng phải chiếm Đông Dương để
thực hiện khối “ Đại Đông Á”, có lẽ nữa là đoàn quân Nhật
ở Hoa Nam bị du kích Trung Hoa tiêu hao đến độ phải vội vã
tìm lối thoát ra bờ biển…? Tôi không biết rõ, nhưng lại
biết rõ một điều khác, chẳng kém phần hệ trọng, là người
Nhật đến, đánh thức tinh thần quật khởi của người Việt.
Thật thê. Trước khi người Nhật vào Lạng Sơn thì một
tập thể cách mạng Việt Nam đã vùng lên chiếm chính quyền
và lập tỉnh chính phủ ở đó. Phong trào này vội vã, ô
hợp. Tuy trên cấp lãnh tụ có những Trần trung Lập, Nông
Kích Du, Đoàn Kiếm Điểm, Hoàng Lương, nhưng cấp lãnh tụ
cũng không làm gì nên chuyện, với đa số nhân sự là binh sĩ
của Pháp (đội pháo thù ở Lạng Sơn) cùng là dân chúng chưa
hề biết, được học thế nào là chiến thuật đấu tranh cách
mạng.
Chính vì thế mà tính chính phủ của Phục-Quốc quân
chóng bị tan vỡ, sự tan vỡ nguyên do ở sự thỏa hiệp giữa
Nhật với Pháp một phần lớn: Nhật trả chủ quyền toàn vẹn,
nghĩa là cả vùng Lạng Sơn cho Pháp. Nhưng sự tan vỡ còn
chủ ở sự non kém về kỹ thuật lãnh đạo cuả cấp chỉ huy:
Đáng lẽ lập chiến khu, phân tán lực lượng để đánh du kích
(như chiến thuật của quân đội Trung Hoa lúc đó đương chống
Nhật), thì 2 lãnh tụ Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm lại
tập trung quân lực, giàn thành trận địa chiến, để quân pháp
có dịp huy động cơ giới tiêu diệt.
Cuộc khởi nghĩa Lạng Sơn tan vỡ, người Pháp trả thù
cực kỳ dã man. Hơn nữa, rút kinh nghiệm vụ Yên Bái, bọn
Chauvet, Lannèque, Lartigue, dùng dây thép xâu tay hàng ngàn
người vào với nhau rồi đem ra bắn ngoài bãi bắn kia. Nhưng
trái lại vụ yên Bái, chúng không cho một tờ báo nào đăng
tin. Vì thế mà dân ta ít người biết đến cuộc khởi nghĩa
chống Pháp lớn lao nhất từ trước, có hàng ngàn quân tham
dự giao chiến.
Cuộc khởi nghĩa tan vỡ, không gây nỗi một luồng sóng
dư luận xôn xao như hồi Yên Bái khởi nghĩa. Tuy nhiên, nếu
không có dư luận mạnh mẽ, thì ít ra cũng có một thứ uất
hận ngấm ngầm trong lòng người Việt, càng kín đáo càng sâu
sắc, đành rằng những người Việt này chỉ là một thiểu số.
Trên đây tôi có nói Nhật muốn thực hiện khối Đại Đông
Á, hoặc ít ra là nhờ danh nghĩa ấy mà lôi cuốn người da
vàng giúp họ đánh người da trắng. Người Nhật không dại nên
người Nhật lợi dụng niềm uất hận này, cùng lợi dụng tấm
lòng khát khao độc lập của người Việt, để gây một tinh
thần chống Pháp, thân Nhật.Trông cậy ở quân lực của Nhật
để diệt Pháp, để khôi phục độc lập cho tổ quốc và để tham
gia bình đẳng vào khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, đó là
thái độ chính trị của một số khá đông người Việt lúc bấy
giờ (bạn anh, chao ôi, cũng là một phần tử dại dột trong
số đông này!).
Nhưng người Nhật đã không dại, rồi lại dại. Dại có
lẽ vì quá khôn. Có lẽ họ chỉ thấy cần giải quyết được
đối thủ chính là lực lượng Hoa Kỳ, tất sau đó họ rãnh tay
tha hồ làm mưa làm gió. Có lẽ ngay từ lúc bấy giờ họ đã
không thật tâm với dân tộc Việt. Có lẽ đối với Đông Dương
họ tạm thời họ chỉ cần đến cứ địa quân sự và tiếp tế
lương thực, cho nên họ mặc cho người Pháp giữ việc cai trị
để giúp họ rảnh tay làm việc khác. Có lẽ họ đã khôn như
thế ở Việt Nam, ở Phi Luật Tân, ở Miến Điện, ở Mã Lai.
Mặc dù ở mỗi nơi họ xử sự một cách khác. Có lẽ vì thế
mà khi Anh vào Miến Điện, Hoa Kỳ vào Phi Luật Tân, thì mặc
dầu những hứa hẹn thịnh vượng chung và bình đẳng của họ,
các dân tộc sở quan đã bỏ họ mà theo Đồng Minh: Đó là một
trong những lý do khiến họ bị thất bại.
Trở về đấy nước ta. Người Nhật cứ hứa hẹn và cứ xui
ta theo Nhật chống Pháp, người Pháp cứ khéo léo với Nhật
và khủng bố ngầm những người chống lại họ. Còn người
Việt, đa số vẫn thản nhiên trước “định mệnh”, thản nhiên
đến độ có thể coi họ là những kẻ bàng quang đứng xem 2 con
gà chọi nhau, làm như con gà nào thắng, con nào bại, cũng
không liên hệ gì tới ai hết (vì theo đa số, thì tham dự
cuộc đấu tranh là chỉ làm tay sai cho một trong hai bên, để
rốt cuộc bên nào thắng vẫn cứ đô hộ Việt Nam như thường).
Tình trạng kéo dài như thế hơn 3 năm.
Năm 1944 là năm người Pháp tìm ra được một kế hoạch
cực kỳ khôn ngoan (nhưng khôn quá lại hóa dại cho mà xem!):
Lợi dụng việc người Nhật mỗi năm cần dùng một số thóc
gạo của Việt Nam để nuôi quân, họ bầy ra một phương pháp vô
cùng xảo quyệt, vô cùng nham hiểm.
Họ bầy ra một cách bắt nông dân bán thóc theo tỉ lệ
ruộng cầy. Người Nhật mua, trả tiền. Người Pháp mua cũng
trả tiền. Nhưng người Nhật mua 1 thì người Pháp bắt nông dân
bán mười, bán trăm. Bán kỳ hết thóc trong cót trong lẫm.
Kết quả là ngót 2 triệu người Việt Nam chết đói ở
Bắc Việt.
Trung ơi, Trung không tin có phải không? Vì Trung nghĩ
Bắc Việt có bao nhiêu người mà chết đói được 2 triệu…vì
Trung nghĩ bán thóc lấy tiền thì lại đong thóc, có sao đâu
mà phải chết đói đến 2 triệu người, phải không Trung?
Nhưng Trung không thể tưởng tượng được sự tàn ác của
bọn thực dân. Trung không thể ngờ rằng trong Việt Nam có
thóc thừa mà không có than, phải đổ thóc vào lò máy đốt
cho xe lửa chạy. Thế mà không một hạt thóc, không một hạt
gạo ra Bắc. Đó là 1 quyết định của thực dân.
Trung lại không ngờ được rằng tất cả – Trung đọc cho
kỹ: tât cả nông dân phải bán thóc. Người cấy 1 sào không đủ
ăn cũng phải bớt ăn mà bán. Người cấy đủ ăn, chừng ba mẫu,
phải bán quá nửa, nên thiếu gạo ăn trong một nửa năm. Người
có hàng chục hàng trăm mẫu phải bán quá số thu hoạch bình
thường, đến các kho dự trữ cũng phải mở ra để lấy thóc
bán.
Vụ chiêm năm 1954, nông dân bán gần hết thóc, nhưng sống
vất vưởng đến được vụ mùa. Vụ mùa nông dân bán gần hết
thóc, nên chỉ đủ sống được đến cuối năm.
Đầu năm 1954, giữa một mùa rét kinh hồn như một trăm
năm nay chưa từng thấy, người ta đã gặp những xác chết khô
đét, co quắp bên lề đường cái quan.
*
Trung ơi, Trung làm thế nào mà tưởng tượng được cái
cảnh một người chết đói? Trung làm sao mà tưởng tượng được
cái cảnh hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người
chết đói?! Nhất là những người chết đói đó là đồng bào
của trung?
Trung đi trên đường cái, từ Thái Bình sang Ninh Giang,
sang Hải Dương rồi lên Hà Nội… Trung không đi quá 50 thước đã
lại gặp ngỗn ngang vài ba, hay năm bảy cái xác chết trần
truồng và chồng chất lên nhau: Đó thường là 1 gia đình bỏ
làng đi tìm kế sống ở tha phương. Họ đi, nhưng đói quá không
đi được, nên ngã xuống đấy. Có người may mắn (!) lên cơn
chuột rút mà chết ngay được. Nhưng cũng có người thoi thóp
mãi không chết. Và đến lúc ấy, trong giây phút sự sống
chợt trở về, họ nghĩ đến nhau, thương nhau, nên thu hết sức
tàn mà lê lại gần nhau, ôm lấy nhau, nhìn nhau khô nước mắt,
cầm tay nhau, để chết.
Trung đi trên đường cái, nhưng Trung không đi được, vì
tấm lòng của Trung không nỡ. Trung dừng lại, đem chút ít
tiền có trong túi phân phát cho những người còn tỉnh. Họ
cầm tiền ngơ ngác: Họ có ăn được tiền đâu ? Rồi Trung nhìn
họ, thấy họ lặng lẽ buông tay cho tờ giấy nhỏ rơi xuống
đất, đến lúc đó trung mới hiểu hết nông nổi thảm thiết
của họ, và chắc là trung sẽ ứa nước mắt.
Nhưng trung lại cứ đi, bởi lẽ Trung còn sống. Qua gần
cầu Bo, Trung sẽ thấy những người hành khất ngoạm vào xác
chết, nhai ray rứt miếng thịt không còn máu, rồi phát điên.
Trung sẽ thấy cái quán cơm bến đò Nhống bán thịt người.
Trung sẽ thấy đứa hài nhi lồm cồm bò trên người mẹ
nó đã chết. Trung sẽ thấy đứa hài nhi khác nhay mãi vú mẹ
nó đã chết. Trung sẽ thấy người đàn bà ôm đứa con thơ trong
lòng mà nhỏ nước mắt vào người nó: Vì hai mẹ con cùng
chờ chết.
Chết đói ! Cả vạn người chết đói, cả triệu người
chết đói.
Ở Hà Nội người ta dùng xe rác chở người chết đói đem
chôn. Chôn vào từng hố lớn, dài hàng chục thước. Xác vất
xuống ngổn ngang, có cái xác thật là xác, nhưng có nhiều
cái xác còn cựa quậy…Người phu xác rùng mình, đau thắt
ruột. Nhưng người phu rác có muốn cứu chỉ được một người,
không cứu nổi ngàn người. Nên người phu rác nghiến răng, gạt
cả những xác chết cùng những người chưa chết xuống hố sâu.
Trung ơi trung, Trung sẽ nghĩ rằng Trung thà bán hết cả
quần áo, bán hết cả sách vở, bán đến cả tài sản của
Thầy Mẹ Trung chưa chia cho Trung, để cứu những người chết
đói…Nhưng cái thống khổ, cái kinh khủng của Trung, lúc đó,
là không biết cứu những ai. Trung không thể có hàng triệu
bì gạo để chia cho tất cả mọi người. Nếu Trung vẫn cứ bán
hết đi, hãy biết cứu lấy một số người qua cơn đói một
ngày, thì ngày mai Trung lại nằm xuống như họ !
Vậy th́ cái kinh khủng của Trung là trông thấy đồng bào chờ
chết, hay đương chết, mà Trung phải làm thinh. Để sống.
*
Để sống mà rửa mối hận ngút trời ấy, phải chăng Trung?
Hẳn thế, v́ đó cũng là suy nghĩ của muôn người trai trẻ như
Trung, như bạn Trung.
Đó cũng là lư do, cũng là HOÀN CẢNH, để cho có cuộc Cách Mạng
Tháng Tám này.
*
Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ trước hết là để tuyết hận cho ngót
hai triệu đồng bào ta đă chết đói.
Những người mẹ đến lúc chết c̣n thu sức tàn mà gh́ đứa con bé
bỏng vào ḷng, h́nh như để c̣n bao nhiêu sinh lực th́ truyền cho nó,
cho nó được sống.
Những người cha bất lực, trông từng đứa con ngă xuống mà hận
thịt ḿnh không ăn được, máu ḿnh không uống được.
Những người dân của những làng chết đói cả làng, của những
huyện mười phần người c̣n một.
Hai triệu người oan thác, v́ thực dân muốn đánh vào quân phiệt
một đ̣n tinh thần chí mạng: gạt cho người Nhật chịu trách nhiệm về
hai triệu mạng người này.
Nhưng rút cục người ta không thể lừa dân chúng đến thế, người
Việt-Nam đă đành căm giận người Nhật đến xương tuỷ, nhưng người
Việt-Nam căm giận người Pháp cũng chẳng kém ǵ.
Trước mắt hơn bảy triệu người Việt miền Bắc c̣n sống sót, cái
chết kinh hoàng, khủng khiếp của đồng bào họ đă thâu tóm vào hai chữ
vắn tắt: Ngoại thuộc.
V́ chỉ có ngoại nhân, khát máu tanh ḷng, mới đành tâm và thản
nhiên giết đến hai triệu người Việt. Chỉ có ngoại nhân mới can đảm
chém đầu Nguyễn Thái Học ở Yên Bái, xử bắn Trần Trung Lập ở Lạng
Sơn. Chỉ có ngoại nhân mới đầu độc non nửa dân số Việt-Nam bằng rượu
và thuốc phiện. Chỉ có ngoại nhân mới thu vét hết vàng bạc ở đất này
mang về nước họ. Chỉ có ngoại nhân mới cố t́nh đầy đoạ dân chúng
Việt-Nam trong cảnh lầm tan, cực nhọc, và u mê, tối tăm.
Thành ra ngót hai triệu người chết năm 1945, từ tháng Giêng
đến tháng Tư, là chết để đem linh hồn dâng vào luyện sự tỉnh ngộ và
ư chí phục thù cho toàn dân.
Đó là HOÀN CẢNH cho phép đấu tranh bộc phát.
Đấu tranh lúc đó quy tụ cả vào Mặt trận Việt Minh.
Giữa một ngàn người được tổ chức, không có lấy một người được
đọc qua chính cương của mặt trận. Nhưng cần ǵ, khi mới nói hờ một
câu, tự nhiên người ta đă đồng t́nh đánh Nhật đuổi Tây?
Mặt trận Việt Minh, chính tôi cũng biết, chỉ là một đảng của
riêng một số người, lập ra để theo đuổi những mục đích riêng của họ.
Nhưng trong số mục đích của họ có mục đích đánh Nhật đuổi Tây. Và
hơn nữa, họ hoạt động có khoa học, có tổ chức nhất trong các đoàn
thể lúc bấy giờ. Họ lại nắm được yếu tố quyết định là có bằng cớ có
liên lạc với Đồng Minh, được Đồng Minh tiếp tế vơ khí và giao cho
nhiệm vụ t́nh báo kháng Nhật. Họ chụp ảnh sĩ quan Hoa Kỳ đương dự
lớp huấn luyện cán bộ, ảnh phi cơ Mỹ thả dù tiếp tế cho chiến khu.
Họ in những ảnh ấy vào một tờ giấy lớn gọi là báo “Dân Chủ”, số đặc
biệt. Sự tuyên truyền thật hết sức khôn khéo: Người ta chỉ tưởng như
ḿnh mới biết được một nguồn tin đặc biệt. Người ta không thấy ḿnh
bị tuyên truyền trước ảnh chụp, bởi lẽ, theo đại chúng, ảnh chụp chỉ
chứng minh một sự kiện có thật, khác hẳn lời tuyên truyền. Đại chúng
tin tưởng, gây nên một luồng dư luận hoan nghênh Việt Minh mạnh mẽ.
Đến nỗi dư luận này, sau cùng, lại có tác động vào tâm lư của một số
người đă biết rơ mấy người Mỹ trên chiến khu chỉ là nhân viên liên
lạc để “xem xét khả năng” cuả Việt Minh, ngơ hầu công nhận sự hoạt
động của họ sau này. (Sự công nhận đă không có, v́ được tin Nhật đầu
hàng và một cuộc đổ bộ lên bờ biển Việt-Nam không cần đến nữa, mấy
sĩ quan Mỹ đă bỏ về bộ Tư lệnh quân đội nước họ ở Côn Minh. Một số
về qua Hà Nội, xung vào phái bộ Điều Tra Tù Binh (Phái Bộ Patti,
21-9).
Sự hoan nghênh Việt Minh, v́ thế mà lan rộng rất nhanh. Nhanh
đến nỗi, ở nhièu vùng, công tác tổ chức đảng viên không theo kịp
ḷng ngưỡng mộ của công chúng. Người ta thao thức chờ đợi, lần ṃ
t́m kiếm cho được “anh cán bộ” để xin đi theo hoặc để giúp tiền bạc,
khí giới.
Thân ái Trung,
Năm Trung ra đi, có một phút nào chúng ta dám mơ ước rằng một
cụ phán già sẽ chia đôi lương hưu trí, một bà chủ tiệm kim hoàn sẽ
chia đôi tài sản cho những người sắp đứng lên làm một cuộc khởi
nghĩa? Ấy thế mà chính những ai tha thiết với cuộc sống b́nh thản
của họ nhất, sẽ lại là những người hăng hái nhất.
Cuộc khởi nghĩa quả nhiên là một sự quật khởi của những người
tư bản, tiểu tư bản và trí thức. Lẽ cố nhiên tôi không định nói tất
cả những phần tử tư bản, tiểu tư bản v.v…đă quật khởi, nhưng tôi
muốn cho Trung nhận thấy rơ rệt được rằng vừa đây dân ta đă làm được
một cử chỉ cao quư về tinh thần nhiều hơn về vật chất.
Tôi không quên chính tôi vừa mới viết “hai triệu người chết
đói để tạo ra hoàn cảnh đấu tranh”. Như thế đáng lẽ cuộc khởi nghĩa
phải là cống tŕnh cái thành phần xă hội đă có nhiều người chết đói
nhất, để giành lại quyền lực về thóc gạo, là vật chất, để không bao
giờ bị đói một lần nữa. Cuộc khởi nghĩa đáng lẽ phải là một cuộc
khởi nghĩa của đồng bào nông dân vô sản.
Nhưng sự thật không giản dị như vậy. V́ sao? – Có lẽ v́ đồng
bào ta ở nông thôn chưa ư thức được cái bổn phận của bộ máy nhà nước
đối với họ. Trải hàng chục, hàng trăm đời người, kể từ những thời kỳ
bị đô hộ tàn bạo nhất đến những thời kỳ tự chủ oanh liệt nhất đồng
bào ta ở nông thôn có lẽ không có ai dám nghĩ rằng nếu nhân dân có
bổn phận phục ṭng chính quyền, th́ chính quyền, ngược lại, có bổn
phận phục vụ nhân dân.
Tinh thần dân chủ có đâu đă nảy nở được giữa cảnh đồng ruộng?
Đồng bào ta, trước năm 1945, chỉ có thể có một chiều suy nghĩ: làm
dân là phải tuân phép vua, tuân lệ làng, lúc đó người dân sẽ có
quyền được sinh sống và kiếm ăn thong thả.
Năm 1945 chỉ là một năm “khó làm ăn”. Đáng lẽ oán giận chính
quyền thu hết thóc, làm cho hai triệu đồng bào của họ phải chết đói,
th́ những người sống sót lại đi t́m những căn nguyên trực tiếp của
từng nạn nhân mà họ quen biết. Chả hạn như ông Chánh tổng X. có rất
nhiều thóc, nhưng phát chấn quá tay, đến lúc hết thóc không vay,
không đong được ở đâu mà ăn nữa. Chả hạn như bà Phó Y. thấy đồng bào
trong xă bán ruộng rẻ quá nên bán hết thóc để tậu ruộng, vào tháng
Hai, không ngờ đến tháng Tư bà Phó Y. ôm mớ văn tự mà chết đói. Ấy,
đại loại mỗi người t́m thấy một hoàn cảnh, một hoàn cảnh trước mắt,
để tạo ra một căn nguyên hợp lư cho sự lâm nạn của đồng bào họ sau
này. Chính bởi thế mà ngay vụ đói và sau vụ đói người Việt-Nam ở
nông thôn không biết đến thủ đoạn tàn ác, ghê gớm của thực dân.
Chính cũng bởi thế mà tôi có thể nói quyết với Trung rằng nếu vụ đói
năm 1945 quả nhiên có gây ra hoàn cảnh cho tinh thần đấu tranh, th́
tinh thần ấy chỉ nẩy nở trong đám người có hiểu biết, có học hành,
và được đủ no để biết sợ cái đói. Những người tư sản trí thức.
Thế rồi nỗi niềm phẫn uất, căm hờn, sẽ truyền từ cái nhân tư
sản trí thức sang cái quả dân tộc đa số là nông dân. Trung c̣n lạ ǵ
trạng thái tâm lư của đồng bào nông thôn của chúng ta? Họ là những
người c̣n giữ được tâm hồn trong sạch nhất, lành mạnh nhất trong
khối dân tộc. Đúng như tinh thần cổ truyền của đời sống xă hội ta,
đồng bào nong thôn thật sự vẫn c̣n coi trọng đạo đức, lễ nghĩa, và
học thức hơn của cải với uy quyền nhiều lắm. Chúng ta có thể dễ dàng
t́m thấy một bạn điền nghèo túng đương quỵ luỵ tên chủ điền trọc
phú. Chúng ta càng dễ thấy nhiều người khúm núm, sợ sệt trước một
viên quan huyện hống hách.
Nhưng chúng ta biết chắc rằng, một khi ra khỏi nhà tên trọc
phú, khỏi công đường của viên quan huyện, tức khắc cái khúm núm, cái
quỵ luỵ, cái sợ sệt sẽ biến đi ngay. Và cứ mỗi khi gặp được hoàn
cảnh được tự ư lựa chọn một thái độ, nhất là trong cơn nguy biến hay
vào những giờ phút nghiêm trọng, người nông dân c̣n giữ được nhiều
phần chất phác kia nhất định sẽ có một thái độ rập khuôn với thái độ
của người có đạo lễ, có học hành hay có kiến thức nhất trong thôn
xóm.
Trung sẽ bảo tôi: – “Đó là một thái độ khôn ngoan, nhưng đa số
quần chúng nước nào mà chẳng khôn ngoan như thế?”. Tôi hoàn toàn
đồng ư với Trung. Ư của Trung, hơn nữa, lại giúp cho sự nhận thức
của tôi thêm chắc chắn, là một cuộc khởi nghĩa lớn lao của toàn dân,
ở đâu cũng thế, ít khi do đại chúng tự động thực hiện được.
Một cuộc khởi nghĩa – hay một cuộc cách mạng – bao giờ cũng có
một cơ sở chỉ đạo, một cơ sở lănh đạo. Cơ sở trước có thể là một
người, một nhóm người, hoặc có thể chỉ là một ư chí mănh liệt chung
của một số người. Trong trường hợp chúng ta, cơ sở chỉ đạo khởi
nghĩa là một danh vị trừu tượng, là ư chí giành độc lập, diệt ngoại
xâm, để tuyết hận cho hai triệu người “tử v́ đạo”, và để bảo đảm cho
tương lai khỏi trông thấy một vụ oan khốc tầy trời như thế nữa.
Ư chí trên đây là một sự kiện có thật, không thể chối căi
được, giữa tầng lớp tư sản, trí thức của xă hội ta năm 1945. Đánh
Nhật, đuổi Tây, giành độc lập… đó là ư chí chỉ đạo. Ư chí lănh đạo
sẽ từ mặt trận Việt Minh mà tới.
Tôi chưa muốn vội vă xét đoán đến thiện chí hay những ư định
khác của số người mới này. Tôi hăy muốn tách ra một tính chất rơ rệt
của họ. Họ là những người có được học tập, được huấn luyện về phương
pháp lănh đạo một cuộc khởi nghĩa. Họ là những người may mắn nắm
được một số lợi điểm: Có một chút giao dịch với Đồng Minh, có một
chiến khu để gọi là nơi đồn trú lực lượng vơ trang (mặc dầu, nói cho
thật chiến khu 1 của họ không phải tự họ đánh mà chiếm được).
Bao nhiêu hy vọng kháng Nhật đều đặt vào sự thắng lợi của Đồng
Minh, bởi ai nấy đều biết rằng một đội quân cách mạng ô hợp đâu có
dám đương đầu với quân đội Nhật. Đó là lư lẽ khiến một chút giao
dịch với Đồng Minh có thể giúp cho Việt Minh nắm được hầu hết thành
phần quả cảm của giai tầng tư bản trí thức. Có thành phần này, Việt
Minh dễ dàng nắm được hầu hết đồng bào cần lao ở nông thôn và thành
thị.
Thế là trong thời gian rất ngắn, mặt trận Việt Minh trở nên
đoàn thể mạnh nhất giữa các đoàn thể cùng chung một mục đích phục
quốc. Cái mạnh của Việt Minh rơ rệt là không chủ ở một tiểu đoàn bộ
đội ô hợp, và cũng không chủ ở năng lực cán bộ như theo lẽ thường.
Cái mạnh của Việt Minh mạnh ở ngay chỗ địch bỏ một khu vực không
chiếm đóng, và ở ngay sự “thăm viếng” của mấy sĩ quan với hạ sĩ quan
Mỹ.
Nhưng không ai chối căi được rằng Việt Minh rất mạnh. Ḷng hỏi
ḷng, một lănh tụ Việt Minh chắc chắn phải nhận thực lực chủ quan
của ḿnh rất yếu: Quân đội không đủ đánh một trận rất nhỏ, cán bộ
không đủ tung vào một tỉnh hơn một triệu dân (như tỉnh Nam Định).
Thế mà Việt Minh rất mạnh, đối với bất cứ ai ở ngoài nh́n vào,
thực lực của Việt Minh là cả một khối hai mươi nhăm triệu người.
Trong nhất thời không nói đến chủ nghĩa một cách vội vă 2, Việt Minh
chỉ nói đến mục đích trước mắt: Giành độc lập. Một tiếng Việt Minh
hô “Tiến lên!” th́ ở ngay những nơi không có bóng vía một cán bộ,
tiếng hô sẽ được hàng trăm, hàng ngàn cái miệng tư sản trí thức nhắc
lại, rót vào tai quảng đại quần chúng, trong chốc lát biến thành một
cơn băo táp những tiếng hô “Tiến lên!”. Người ta hô “Tiến lên!” để
được thoả nỗi ḷng thèm khát độc lập, nhưng cứ mỗi lần nhắc lại một
tiếng hô của Việt Minh là một lần bồi đắp sức mạnh cho Việt Minh.
Người ta vô h́nh chung biến thành Việt Minh tất cả.
Biết bao nhiêu người lẫn lộn toàn dân với Việt Minh như thế.
Một người nhầm làm cho nhiều người bên cạnh nhầm theo. Đến nỗi sức
mạnh của toàn dân khi đấu tranh giành độc lập, đáng lẽ chỉ là của
toàn dân hoặc là của chung của tất cả những ư chỉ chỉ đạo, th́ lại
biến thành sức mạnh riêng của Việt Minh. Người người náo nức, thậm
chí những đoàn thể cùng một mục đích với toàn dân cũng huyễn hoặc
sâu xa, và đương nhiên có Việt Minh là đoàn thể mạnh nhất hồi ấy.
Đó là căn nguyên thứ nhất, nó đă khiến cho những đoàn thể tại
thủ đô, khi quân Nhật đầu hàng, nhường (!) quyền ưu tiên lănh đạo
cuộc khởi nghĩa cho Việt Minh. Mặc dầu quân đội Nhật, tuy đầu hàng
nhưng c̣n nhiệm vụ giữ trật tự trong nước, đă tỏ ư rơ rệt sẵn sàng
giúp đỡ các đoàn thể quốc gia chống lại Việt Minh, mà người Nhật
biết rơ là có chủ trương chính trị quá khích.
Người Nhật không lạ ǵ thực lực của Việt Minh, dám quyết tiêu
diệt thực lực ấy trong vài ngày. Có lẽ cũng có nhiều người biết như
thế nhưng người ta e rằng thực lực của Việt Minh tuy yếu kém, mà về
tinh thần Việt Minh chính là toàn dân, diệt Việt Minh người ta sợ
toàn dân công phẫn, kháng cự.
Người ta đành để cho Việt Minh đ̣i, và đ̣i được lănh đạo toàn
dân tổng khởi nghĩa. Bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một, người ta không
biết rằng toàn dân lúc ấy sẽ chỉ ngả về ai giành được độc lập thật
sự. Thành ra có những người có thể đem tài, sức, ra viết những trang
lịch sử oanh liệt, th́ những người ấy lại thoái lui, sợ lịch sử kết
tội tranh giành quyền lợi, làm hại cho công cuộc đấu tranh của toàn
dân. Thành ra ngày 17 tháng 8 vừa rồi, có trọn vẹn ba lá cờ chạy
hiệu giữa đám biểu t́nh của Tổng hội Công chức mà huy động được hơn
trăm ngàn người đi biểu t́nh ngày 19. Rồi lại có không đến ba mươi
cán bộ Việt Minh, thụt lại phía sau đoàn biểu t́nh vĩ đại ấy mà
“cướp” được chính quyền ở một nước hai mươi nhăm triệu dân.
Trung hăy nghe tôi tả rơ cuộc biểu t́nh tổng khởi nghĩa ngày
19 tháng 8.
Người ta bảo nhau, rủ nhau may cờ để đi biểu t́nh tuần hành.
Ít lắm là đoàn biểu t́nh có một trăm ngàn người: Nếu đi từng nhà,
triệu thính từng người, th́ cán bộ Việt Minh chỉ tập họp được vài
ngàn người. Nhưng không mấy ai được gặp cán bộ. Chỉ cần một người
nói lên: “19 tháng 8!”, thế là đủ một truyền mười, mười truyền trăm,
đến ngàn, đến trăm ngàn.
Chúng tôi vác cả một rừng cờ đến đợi ở trước nhà Hát Lớn từ
bốn giờ sáng. Măi hơn tám giừờ mới có micro với loa phóng thanh. Mấy
cán bộ Thành của Việt Minh lên đọc, ngập ngừng, những lời hiệu triệu
yếu đuối so với khí thế bừng bừng của chúng tôi đứng nghe. Hơn mười
giờ bắt đầu biến biểu t́nh thành tuần hành “thị uy” về phía Bắc bộ
phủ. Ông Khâm sai Phan kế Toại có lời ước hẹn đầu hàng từ hôm trước,
ra đón đoàn đại biểu – các cán bộ – tận ngoài cổng phủ. Tin tức loan
truyền, nhanh như chớp: “Đă cướp được Bắc bộ phủ!”.
Người ta đă có quyền hành chính. Bây giờ đi cướp quyền quân
sự. Tượng trưng cho quân đội lúc đó là hơn một ngàn Bảo-an binh đóng
ở trại lính Khố xanh cũ, đường Đồng-khánh. Khi đoàn tuần hành đi đến
ngă tư Đồng-khánh, Rollandes, th́ các cán bộ đại biểu đi chậm lại
rồi mất dạng. Hơn trăm ngàn người dồn nhau, tiến vào sát cổng trại
Bảo-an. Cổng đóng. Phía trong cổng, hai khẩu súng máy hạng trung và
ước độ năm chục binh sĩ, hoặc nằm bên cạnh súng, hoặc nấp ḿnh sau
những bức tường cuốn, súng đặt lên vai, ṇng quay về phía cổng.
Người đi đầu – không có vơ khí – trông thấy hai sĩ quan Nhật đứng
giữa lính, muốn quay lại. Người phía sau không thấy ǵ cả, thúc bách
nhau tiến lên. Chen chật quá, tay đă co lên không buông xuống được,
tay đương thơng không co lên được.
Cứ dồn nhau như thế, đến một giờ rưỡi th́ có kẻ xuẩn động ném
gạch vào lính Nhật gác ở ngă tư Chợ-Hôm, Hàm-long. Lính Nhật nổ
súng, hai người bị thương nơi chân. Náo động. Có tiếng hô “Đánh!
Đánh!”.
Cuộc biểu t́nh có thể trở nên lưu huyết. Bộ Tư lệnh Nhật,
trong năm phút, phái chiến xa đến chặn tất cả mọi ngả đường vào chỗ
đoàn tuần hành. Nội bất xuất… cho đến năm giờ chiều, ngày chớm Thu
sắp tàn. Sương bắt đầu xuống. Cờ vác mỏi tay, đă cuộn giấu vào bụng
áo. Chiến xa Nhật vẫn chặn đường. Một vài người muốn ra về đều thấy
lưỡi lê dí vào bụng. Hoang mang bắt đầu. Phía ngoài hàng rào chiến
xa có nhiều người mẹ đi t́m con, nước mắt chạy quanh. Chỉ một nửa
giờ nữa là tối. Quân Nhật có thể cho từng người một ra về sau khi,
khám xét kỹ lưỡng. Cuộc khởi nghĩa tự nó sẽ tan vỡ. Nhưng bỗng có
tiếng reo lên như động biến. Th́ ra trong san trại Bảo-an, lá cờ Quẻ
Ly vừa hạ xuống, lá cờ của Tổng khởi nghĩa được kéo lên. Chiến xa
Nhật mở máy về trại. Hơn một trăm ngàn người xô nhau ra về, măi đến
bảy giờ tối mới tan hẳn. Và người ta xôn xao hỏi nhau: “Sao? Sao?”.
Có người nói không xong, có người lại quả quyết rằng mắt thấy hai sĩ
quan Nhật bị trói chặt giải đi, và uỷ ban Tổng khởi nghĩa đă chiếm
trọn trại lính.
Nhưng sự thật, sự thật muôn đời, là uỷ ban đă bỏ chết đồng bào
trước họng súng Nhật. Tôi không hề có ư định, hoặc làm tăng, hoặc
đánh giảm giá trị những phe đương sự. Vả lại tôi tin rằng những hành
động quyền biến không bao giờ có giá trị vĩnh viễn. Giá trị vĩnh
viễn nằm trong khả năng xây dựng của con người.
Tôi thành thực không muốn lịch sử sẽ chép rằng ngày 19 tháng 8
năm 1945, dân tộc ta đă làm một cuộc Tổng khởi nghĩa oanh liệt, dưới
sự lănh đạo của Mặt trận Việt Minh.
Tôi không bất công, tước bỏ giá trị của Việt Minh trong ngày
19 này, v́ thật quả giá trị ấy không hề có.
Tôi càng không có ư làm sút giảm giá trị của toàn dân trong
ngày 19 này, bởi giá trị của toàn dân sẽ c̣n nhiều dịp để bộc lộ.
Tôi chân thành nói với Trung như thế.
Trở lại buổi tối hôm Tổng Khởi Nghĩa, dân trong thành hoang
mang cực độ. Ngày hôm sau lại có tin quân Pháp từ Xuân-mai
(Hoà-b́nh) đánh đến Hà Đông. Và đây mới là lúc tôi trông thấy giá
trị của người dân Việt hiển hiện thành việc làm: Người ta vớ lấy bất
cứ một đồ vật ǵ có thể cầm lên tay mà đập vào đầu hay xuyên vào
ngực kẻ thù, người ta phóng xe đạp, bám vào xe hơi, vào tầu điện như
những chùm xung, người ta vào Hà-đông chặn giặc. Hàng vạn người đă
đi, rồi trở về không: Trại Bảo An Hà Đông (dưới quyền chỉ huy của
Quản Dưỡng) không chịu theo về chính quyền mới. Có thế thôi.
Thế rồi lặng lẽ luôn mười ngày, chỉ toàn những tin biểu t́nh
cùng những tin lụt lội, lụt to quá ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Thái B́nh, Hưng Yên. Ngày thứ mười, tức là ngày 30 tháng
9, có tin bộ đội Giải phóng về đến thủ đô. Tiếng đồn có hàng chục
ngàn binh sĩ mặc toàn đồ kaki, mang toàn súng máy Mỹ!
Cũng ngày thứ mười, trên các tường nhà xuất hiện lá thư kư tên
Nguyễn Ái Quốc. Bức thư với tên kư không gây xúc động ǵ cả. Người
ta đương chờ đợi một cái ǵ to lớn, chả hạn như tin Đồng Minh công
nhận Chính Quyền Lâm Thời. Cho nên không mấy người sung sướng v́
biết Nguyễn Ái Quốc c̣n sống. Âu cũng là một chứng cớ thêm rằng sự
náo nức thật quả bắt nguồn từ chính tấm ḷng của mỗi người tha thiết
đến Độc lập.
Hôm qua là ngày Tuyên Ngôn Độc Lập. Một nhân vật mới xuất
hiện: Hồ Chí Minh. Chưa mấy ai nghe tên Hồ Chí Minh, mà có người bảo
là Nguyễn Ái Quốc đấy. Không có bằng chứng ǵ. Giá có bằng chứng
cũng chưa chắc đă gây thêm xúc động. Hoặc giả c̣n gây ra hoang mang
v́ tính chất cán bộ Mạc Tư Khoa của họ Nguyễn là khác.
Nói đến xúc động đoạn đầu thư này có câu “hăng hái đến muốn
chết ngay cho tổ quốc”, tưởng không nói thế nào hơn được nữa. Giữa
vườn hoa Ba Đ́nh (lối vào Vườn Bách Thú), hằng trăm ngàn người lắng
tai nghe ông Hồ đọc bản tuyên ngôn. Lời văn giản dị sáng sủa. Tự bản
văn cũng không gây được mấy xúc động. Là v́ chúng tôi đă bị kích
thích đến cùng độ, ngay từ khi chưa đi hội. Cho nên bản văn không
lạ, mà chúng tôi như uống từng chữ một, mỗi chữ lại mát lạnh hay sôi
sục trong tâm hồn. Sự việc bên ngoài không theo kịp trí tưởng tượng
bên trong của mọi người. Mỗi người đều có một chút hận ḷng vừa mới
rửa được trong hai chữ Độc Lập. Mỗi người đều có một cách riêng để
đoán trước xem Độc Lập là thế nào. Trong không khí bao dung của mùa
Thu có ai c̣n tiếc ǵ không thả ḷng cho một giấc mơ không ngủ?
Riêng tôi, tôi theo đuổi một ư nghĩ nhất định. Không có bằng
cớ ǵ chắc chắn mà tôi vẫn luôn luôn cho rằng dân Việt thông minh
hơn dân Nhật. Đất Việt lại trù phú hơn đất Nhật. Tôi không thấy ḿnh
điên rồ, khi tưởng tượng một trận chiến đấu, một trận thắng oanh
liệt th́ đúng hơn, khi người Việt chống nhau với giống người c̣n văn
minh hơn người Nga. Nghĩa là một trận Lữ Thuận kèm thêm một trận Đối
Mă oai hùng. Lai có khi nghĩ đến nước Tầu, đến vua Quang Trung sớm
yếu…, rất có thể Việt Nam độc lập sẽ đ̣i lại Lưỡng Quảng, mặc dầu
đ̣i hai tỉnh ấy chỉ có nghĩa là nhận nuôi thêm ngót trăm triệu dân
đói khát!
Nói thế để Trung ở bên ấy chân trời biết rằng Độc lập là cởi
mở cho tất cả mọi tài năng cũng như cho tất cả mọi hy vọng. Không có
ǵ có thể giúp người nước ngoài tưởng tượng nổi thế nào là Việt-Nam
độc lập, kể cả ḷng yêu nước thắm thiết của từng người. Bởi lẽ
Việt-Nam độc lập là thoả măn được một sự đ̣i hỏi thầm kín, truyền
kiếp – từ khi dân Việt lập quốc, có bao giờ thực sự độc lập như bây
giờ đâu!
——————————–
1
Chiến khu Việt Minh lập thành năm 1942, khởi từ hai châu Đ́nh
Cả (Thái Nguyên) và Bắc Sơn (Lạng Sơn). Việt Minh có hai trung đội
du kích, một do Phùng Chí Kiên (xuất thân trường Hoàng Phố) một do
Vơ Nguyên Giáp chỉ huy. Phùng Chí Kiên tử trận và Trung Đội Một tan
ră ngay năm 1942. Trung Đội Hai của Vơ Nguyên Giáp bị dồn vào rừng
mây, tuyệt lương sắp chết đói hết, th́ Nhật đánh Pháp, khiến cho đội
quân vây Vơ Nguyên Giáp ở Bắc Sơn phải rút đi, chạy trốn qua Bảo Lạc
(Hà Giang) sang Tàu.
Người Nhật thay người Pháp chiếm đóng Đông Dương bỏ rơi nhiều
khu vực miền núi, không đóng quân. V́ thế Trung Đội Hai mới có hoàn
cảnh lớn mạnh nhanh chóng, trong ṿng bốn tháng từ trung đội biến
thành đại đội, rồi thành tiểu đoàn Quang Trung, tức là lực lượng vơ
trang độc nhất của Việt Minh khi cuộc Tổng Khởi Nghĩa bắt đầu.
2
Việt Minh chỉ tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản ở những nơi có
cơ sở sẵn sàng (như Nghệ An).
Published October 31, 2014 | Posted in Thơ Văn
ING.679
Hà Nội, nội thành, Liên Khu I,
Ngày 26 tháng 12, 1946.
Thân ái Trung,
Ba phát đại bác cách nhau một phút một, ba hỏa pháo xanh tím
xanh, tám giờ mười chín phút tối 19-12, tất cả tự vệ chiến đấu bỏ
chạy hết, lũ chúng tôi, Tự Vệ Thành mà người ta gọi là Tự Vệ Công
Tử, lũ chúng tôi đă khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tự Vệ Thành toàn là thanh niên thường dân. Đa số con nhà buôn,
con công chức, đều có đôi chút khả năng tài chính: Tự Vệ Thành tự
cung cấp lấy từ vơ khí đến đồng phục, với chiếc ca-lô mang phù hiệu
sao vàng trên nền vuông đỏ.
Người ta vẫn cho Tự Vệ Thành là chỉ biết ăn diện, mèo chuột,
v́ đă có tự vệ chiến đấu giữ thủ đô. Nhiều tiếng x́ xào bi thử: Tiểu
tư sản! Và dư luận khinh miệt chúng tôi đến nỗi chính chúng tôi cũng
tưởng rằng chỉ cần nghe tiếng súng nổ, ấy là anh em tự vệ Thành đă
kịp chạy lên đến trung tâm an toàn khu “lánh nạn” rồi!
Thế mà khi nghe tiếng súng nổ lại chỉ thấy mặt toàn những thứ
tự vệ tóc chải bóng, giầy c̣n bóng hơn tóc, và nếp quần thẳng tắp
như xe chỉ. Liên Khu II, bảo vệ cho đồng bào ra khỏi thành phố là
chúng tôi… Giữ ụ đầu phố Bạch Mai, giữ ụ kho xăng Khâm Thiên là
chúng tôi. Đến Liên Khu I, từ hàng Bông, hàng Gai, hàng Đào lên hàng
Đường, ra phố Mới, chúng tôi căng chiếu ngang đường lộ mà lập thành
khu chiến.
Phải nói cho thành thực rằng chúng tôi đă bị đặt vào hoàn cảnh
quá cao đối với nhiệm vụ. chúng tôi có đâu dám nhận sứ mạng chiến
đấu, một khi chưa được huấn luyện qua về chiến đấu? trong tất cả mọi
buổi khai hội, đoàn thể đă ấn định: Tự Vệ Chiến Đấu đánh giặc, Tự Vệ
Thành tổ chức cho dân phố rút lui. Tự Vệ Chiến Đấu là con cưng của
đoàn thể, được hưởng phụ cấp hàng tháng, được huấn luyện cấp tốc và
chiến thuật chống chiến xa và xuyên ốc chiến 1. Tự Vệ Chiến Đấu gồm
toàn những thanh niên ưu tú chọn lọc trong giới lao động. đoàn thể
gửi gắm ở đội tự vệ chiến đấu hy vọng giữ thành một cách oanh liệt,
và chỉ bỏ từng tấc đất một, trên mỗi tấc lại để lại nhiều xương máu,
để cho Đồng Minh biết rằng dân tộc Việt Nam cương quyết chống Pháp.
Hy vọng lớn lao đến thế, mà vào khoảng 9 giờ rưỡi tối, ba chiếc
chiến xa tiến gần tới cổng, chiếu đèn sáng lóe, th́ cả một tiểu đoàn
Tự Vệ Chiến Đấu thoát ra phía sau trại Đấu Xảo (Viện ảo Tàng Maurice
Long cũ, về sau là Bộ Tư Lệnh Nhật), tránh ụ Khâm thiên bên phải,
tránh ụ Bạch Mai bên trái, lao thẳng xuống hồ Thiền Cuông, ngoi ngóp
như một đàn chuột, lội về phía Kim Liên, Hoàng Mai.
Trong khi đó, chúng tôi không quên ḿnh là Tự Vệ Thành, nên
vẫn tưởng chỉ ở lại phụ lực cho các đội chiến đấu, và rồi sẽ rút lui
với đồng bào thường dân. Chúng tôi chờ đợi quân bạn đánh từ Đấu Xảo
lên, mở đường cho Liên Khu I thoát về phía Nam. Càng chờ càng bặt
tin. Măi đến 8 giờ sáng ngày hôm nay, nhờ liên lạc với các Hoa
thương phố hàng Buồm mới biết sự chẳng lành: Các phần tử ưu tú đă bỏ
mặc cho Liên Khu I bị vây kín bốn phía.
Có viên sĩ quan Pháp đến dụ hàng, hứa chỉ tước khí giới, c̣n
người cho thong thả. Mấy bạn Hoa kiều vui vẻ, chắc chắn thành công
trong nhiệm vụ ḥa giải. Nhưng phản ứng nổ ra như tiếng sét: “Quyết
chiến!” Cái dúm người chỉ quen “bát” phố, chỉ biết ăn diện, trông
thấy cái chết trước mắt, nhất định không chịu nhục.
——————————–
1
Chiến thuật đánh luồn tường các nhà trong phố lúc ấy đă đục
tường thông sang nhau
Hà Đông, ngày 3 tháng 2 năm 1947, viết tiếp.
Thân ái Trung,
Súng rộn lên hơn pháo tết. Cái tết oanh liệt nhất của thành
Thăng Long, kể từ tết của vua Quang Trung năm Kỷ Dậu. Chúng tôi giữ
thành được hơn 1 tháng, người biến thành chuột, chui rúc, leo trèo,
hầm hố, cống rănh, kẽ ngạch, gầm thang, vừa cố sống vừa chiến đấu.
Chiến đấu! Tiếng hét thất thanh đêm 19-12.
Chiến đấu, tiếng tự nhiên của những tâm hồn can trường, nhưng
chiến đấu lại cũng là tiếng ngại ngùng, hỗn hợp, hay có khi sợ hăi,
trong những kẽ không ngờ đă biến thành chiến sĩ vào 1 đêm lịch sử.
Này cụ Kư già sở Địa ốc, này ông bác sĩ Th trắng, béo tṛn, này em
học sinh niên thiếu, giữa buổi họp tối 20, dưới hầm rạp ciné hàng
Bạc, trong tia mắt mỗi người đều có cả 1 cơn sốt rét. Thế nhưng,
nhưng đến lúc phải giơ tay xung phong vào những tiểu tổ liên lạc –
liên lạc, trên một chiến trường chưa có giới tuyến rơ rệt có là ǵ
khác sự dấn thân vào chỗ chết? Th́ bộ chỉ huy cần lập ra bốn tổ liên
lạc, lại có cả ngh́n người giơ tay. Đến đêm hôm sau, sống chết cũng
phải xin lệnh của bộ Tổng chỉ huy, phải phá ṿng vây ra ngoài rồi
lại phá ṿng vây vào trong, cả trung đội tôi đ̣i đi tất cả.
Những cử chỉ đẹp, xưa nay chỉ đọc thấy trong sách – mà chúng
ta vẫn coi là những câu chuyện bịa đặt, nhằm mục đích tuyên truyền
giáo lư, những cử chỉ đẹp, đẹp hơn trong sách nữa, luôn từ mấy bữa
liền xuất hiện từ những người như Trung, như tôi, đă khiến cho 2
giọt lệ chân thành cảm phục phải đọng trên khóe mắt của một bạn Hoa
kiều:
– D́ oai ti! D́ oai ti!
D́ oai ti!
Ư ngoại địa, ngoài sức tưởng tượng, người Hoa kiều thốt lên
câu nói ấy là phải lắm! Bởi lẽ người Trung hoa đối với người Việt
vốn sẵn có một số định kiến khi rẻ ngấm ngầm, có lẽ do truyền thống
để lại. Lẽ thứ hai, bất cứ người Trung hoa nào, đă lập nghiệp lâu
ngày trên đất Việt, đều thấy rơ tính nhút nhát cấu an của đồng bào
ta những năm trước kia. Và nhất là sự chia rẽ, tranh quyền cướp vị
giữa các đảng phái trong nhà nước, bắt đầu từ mùa thu năm ngoái đến
giữa mùa đông năm nay.
Mùa thu năm ngoái tôi đă gởi thư cho Trung, để thuật lại với
Trung cuộc Tổng Khởi Nghĩa và ngày tuyên ngôn độc lập. lấy tư cách
bạn đối với bạn, tôi chỉ thuật lại những sự kiện mà chính tôi biết
đích là sự thật. Cố nhiên có những điều tôi không nói đến, th́ có
khi v́ lâu ngày quên lăng, có khi v́ không biết rơ nên đặt ra nhiều
nghi vấn. Tôi không muốn vội vàng xét đoán, để tự tôi có thể phạm
lỗi lầm quan trọng. Tôi càng không muốn cho Trung hiểu một cách sai
lệch những sự kiện có tính chất lịch sử, thành ra bức thư của tôi,
tôi nhớ lại, thật chẳng khác ǵ một bài luận thuyết, nhằm phân tách,
trong một khoảng thời gian nhất định, những nguyên nhân của một cuộc
chinh biến. Tôi sợ rằng đọc cho hết bức thư, Trung đă phải mệt tinh
thần nhiều lắm. Sự khắc khổ này đáng được đền bù.
Hôm nay, trong thư này tôi sẽ kể lại nhiều chuyện lạ. Những
câu chuyện ly kỳ, những câu chuyện dăng mắc của cả một năm đấu tranh
hoảng loạn. Biết bao nhiêu là chuyện không tiền khoáng hậu, trong
đó bất cứ ai cũng có thể thấy ḿnh có quyền lợi phải bảo vệ, mà rồi
ra không dễ mấy ai có thể truy nguyên xem chuyện đó v́ sao mà xảy
ra, và xảy ra rồi kết thúc như thế nào.
Người ta, hơn bao giờ hết, thấy cuộc đời của ḿnh có liên hệ
mật thiết với lịch sử. Nếu lịch sử là con đường dài, th́ quả thực
mỗi người là một khách bộ hành…một người thốt nhiên thấy ḿnh đứng
trên đường, bị xô đẩy mà tiến lên phía trước, rồi nh́n lại không
thấy nơi xuất phát, không nh́n thấy mục tiêu và càng đi càng không
nhận định được vị trí của ḿnh trên ḍng lịch sử. lịch sử từ lúc bà
Âu Cơ sinh ra trăm con, hay bắt đầu từ lúc ḿnh giơ tay thề trung
thành với một đảng nào đó, năm 1945?
Đảng, ai nhập đảng nấy, trừ những kẻ nhát sợ, hoặc những kẻ
quá khôn ngoan, hay đă nuôi sẵn trong đầu óc một ư nghĩ phản bội.
Nhập đảng, để phụng sự. Hoàn cảnh rất rơ rệt: Cuộc chiến đấu c̣n
dài, trong khi bộ máy nhà nước chưa vững, sự nhập đảng lúc này ít
khi nhằm tư lợi, mà phần lớn ai nấy đều đă linh cảm được sự cần
thiết phải có một sức mạnh cho quốc dân, để chống lại sự đe dọa bên
ngoài. Vào đảng, nhưng không phải tất cả mọi người đă vào cùng một
đảng. Đảng cũ từ chiến khu xuống, từ ngoài Tẩu về, đảng mới mọc lên
thêm.
Rồi bắt đầu tranh chấp, v́ lư tưởng, v́ quyền lợi. Đến nỗi
người dân vào đảng, những tưởng để chống xâm lăng, nào ngờ từ Lào
Cai xuống Hải Pḥng, từ Cao Bằng vào Cà Mau, sự tranh chấp đă quyết
liệt đến nỗi, trong một năm trời, các đảng phái không nề hà ǵ không
liên kết với một trong những lực lượng xâm lăng để tiêu diệt lẫn
nhau.
Sự có mặt của pḥng quân Trung hoa, của Tiếp pḥng quân Pháp,
mặc dầu vẫn là mối lo ngại, ghê sợ nhất của toàn dân, từ tháng 9 năm
1945 đến tháng 6 năm 1946, phải chịu kém cuộc đảng tranh về ảnh
hưởng quyết định.
Cho nên giai đoạn lịch sử đi liền sau ngày độc lập là một giai
đoạn tương tàn trong nội bộ.
Cuộc đảng tranh sẽ mở cửa bể Hải Pḥng cho quân Pháp trở lại
chuẩn bị tái diễn tṛ hề bù nh́n. Nhưng cũng cuộc đảng tranh ấy, sẽ
nhất định thai nghén ra một nền độc lập thật sự sau này. Đó là những
lư lẽ khiến cho tôi muốn thuật lại cho Trung giai đoạn tranh chấp
giữa các đảng phái trước, rồi sau mới đến giai đoạn tranh chấp giữa
2 đội Tiếp Pḥng Quân Việt, Pháp, tức là thời kỳ người Pháp gây hấn
để ép người Việt phải nhận một cuộc chiến đấu, theo họ, của quả
trứng chọi ḥn đá (tôi nhắc lại, tôi th́ kể những điều tôi biết một
cách chắc chắn, bởi tôi đă sống. Tôi không thể sống tất cả mọi việc
xảy ra, trong cùng một năm, trên đất Việt. Cho nên, Trung nhớ nhé,
đây chỉ là lịch sử qua sự sống của một cá nhân. Một cuốn tiểu thuyết
có tính chất thời sự th́ đúng hơn. Chúng ta chờ đợi nhiều cuốn tiểu
thuyết như thế của nhiều cá nhân, để có pho lịch sử toàn cục.)
Để thuật lại cuộc đảng tranh, tôi xin nói ngay choTrung yên
ḷng, là tôi có đủ tài liệu để tŕnh bày một cách rơ rệt. Tôi đă
viết, trên đây, rằng đa số đồng bào ta gia nhập các đảng phái, vậy
trong cái đa số đó tất nhiên có tôi.
Tháng 12 năm 1945, bạn của Trung đă vào đứng trong hàng ngũ
một đoàn thể nặng về quân sự, nhẹ về chính trị: Phục Quốc Quân, sau
đổi là Phục Quốc đảng, là hậu thân và biến thế của Việt Nam Phục
Quốc Đồng Minh Hội của cụ Phan Bội Châu. Sau khi bị thất bại năm
1940-1941 ở Lạng Sơn, Phục Quốc Quân sang Trung hoa, được tướng ủy
viên trưởng1 giúp cho phương tiện sinh hoạt và huấn luyện. Một lớp
quân sự đặc biệt. Đặc Huấn Ban, trong Liễu Châu cán bộ huấn luyện
đoàn 2, được mở ra và dành riêng cho anh em cách mạng Việt Nam, phần
lớn trong Phục Quốc Quân.
Năm 1943-1944, để tỏ ḷng trả ân với Trung Quốc, và cũng để tỏ
ư chí quyết tâm chống độc tài, các cán sinh trong Đặc Huấn Ban đă tự
nguyện tham gia các mặt trận kháng Nhật. Sau trận giữ trường bay
Trường Sa, Quế Dương, anh em bị tổn thất một số đồng chí. Số c̣n
lại, năm 1945, về đóng từ Lộc B́nh lên Đồng Đăng (Lạng Sơn), tuyên
bố, một lần nữa, lập tinh chính phủ. Và nhanh chóng ấn định thái độ:
Chống Việt Minh, chống Cộng Sản.
Phục Quốc Quân, như đă nói, là 1 đoàn thể nặng về quân sự. Số
cán bộ chính trị rất thiếu thốn, nhất là về tuyên truyền. Cho nên
tham gia Phục Quốc Quân, bạn của Trung được ủy thác ngay nhiệm vụ ủy
viên trưởng tuyên huấn, kiêm chủ nhiệm tờ báo Phục Quốc, phát hành ở
Hà Nội (in và phát hành tại số 80 đường Quan Thánh, trụ sở trung
ương của Việt Nam Quốc Dân đảng.)
——————————–
1
Tưởng Giới Thạch.
2
Gọi tắt: Liễu Châu Cán Huấn Đoàn, là một thứ trường vơ bị tựa
như Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức của ta ngày nay.
ING.681
Thế là từ bây giờ, đáng lẽ chỉ nghe tâm sự của một người bạn,
th́ Trung chỉ được nghe tâm sự của một người bạn lẫn một cán bộ quốc
gia chống Cộng. Chắc là Trung không được hài ḷng lắm, bởi thế nào
Trung chả muốn được nghe thuật lại cuộc đảng tranh một cách vô tư,
bởi một người ngoài cuộc?
Nhưng thật ra, Trung ạ, trong cuộc sống dồn dập năm kia, năm
ngoái và năm nay, tôi dám quyết với Trung rằng không ai có thể là
người ngoài cuộc, trừ những kẻ hèn nhát. Tôi nhất định không thể
không chủ quan. Nhưng tôi thành tâm trong đời sống, cũng như tôi
thành thật với Trung trong lúc này. Tôi sẽ cố gắng để xứng đáng với
danh nghĩa trí thức (hay tiểu trí thức cũng thế), tôi sẽ không cố
t́nh tâng bốc riêng đoàn thể tôi hay chung chung mặt trận quốc gia,
tôi sẽ không cố t́nh bịa đặt về Cộng Sản Việt minh. Trung hăy tin
tôi ở điểm ấy.
– Trung đă tin rồi, nhưng Trung muốn hỏi v́ đâu bạn của Trung
chọn Phục Quốc Quân, v́ đâu vào tập thể ấy, v́ đâu tập thể ấy chống
Việt Minh?
Chắc chắn Trung muốn hỏi tôi như thế, nhất là trong bức thư
đầu tiên, tôi có nói đến ngày Độc lập với biết bao nhiêu là sung
sướng, biết bao nhiêu là hy vọng. Trong ư nghĩ của Trung, chắc hẳn
hai chữ độc lập đă đi liền với hai chữ Việt Minh, cho nên phải lấy
làm lạ lùng rằng thư này lại nói đến chống Việt Minh.
– Tại sao chống Việt Minh?
– Tại, đối với đoàn thể, Việt Minh không muốn cho đoàn thể nào
tồn tại, trừ phi đầu hàng, nhập bọn và chịu sự lănh đạo của họ. Tại,
đối với cá nhân, người ta chống Việt Minh v́ biết họ là Cộng Sản, v́
Việt Minh không để cho người ta yên, hoặc sau hết, có những người
chống Việt Minh chỉ v́ không chịu cho một đảng nắm chính quyền lại
có thể có những cán bộ lưu manh, ô hợp, như cán bộ của họ lúc bấy
giờ. Cũng có người chống Việt Minh bội ước. Đó là trường hợp công
khai tranh chấp đầu tiên, trường hợp của các lănh tụ Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh hội.
Người ta nhớ rằng năm 1941-1942, Việt Minh đă xin gia nhập
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội. Cũng năm đó, Hồ chí Minh bị giam
trong hang đá, được Đồng Minh hội bảo lănh cho được tự do, được tham
gia Chấp hành Ủy viên hội làm ủy ban dự bị, và sau hết, được bảo đảm
cho về nước, với tiền bạc và vơ khí, để thực hiện công tác chỉnh
biên chỉnh đội. Như vậy, trong ư nghĩ của các lănh tụ Đồng minh hội,
nếu Hồ Chí Minh thành lập được chiến khu, cướp được chính quyền, ấy
cũng là nhờ sự giúp đỡ của hội.
Thế mà từ khi cướp được chính quyền, họ Hồ tuyệt đối không
biết đến Đồng Minh Hội. Ông ta thản nhiên thành lập một chính quyền
lâm thời, với những cán bộ Cộng Sản không dấu diếm, như Dương Hoài
Nam (tức Vơ Nguyên Giáp), Lâm Bá Kiệt (tức Phạm Văn Đồng), Đinh
Chương Dương, Lư Quang Hoa (tức Hoàng Văn Hoan), Hoàng Quốc Việt
(tức Hạ Bá Cang), Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Đức Kính, Nguyễn Đức
Chính, và sau hết là Trường Chinh. Trong số cán bộ này, người có, kẻ
không có tên trong danh sách các bộ trưởng đầu tiên, nhưng tên tuổi
họ được dân chúng nhắc đến hàng ngày. Không những thế, mặc cho lời
giao ước chia sẻ trách nhiệm chính quyền c̣n nóng hổi với các lănh
tụ đảng phái quốc gia, họ đă bắt đầu lùng bắt và thủ tiêu những
người đối lập với họ, ngay từ buổi tối ngày 19/8.
Thái độ của Việt Minh, v́ quá rơ rệt như thế nên sau khi về
đến Hà Nội, các lănh tụ như cụ Nguyễn Hải Thần, về với các ông
Nhượng Tổng, Vũ Hồng Khanh (1) không thấy c̣n giải pháp nào khác là
thành lập một mặt trận quốc gia chống lại họ (2).
***
(1) Gọi Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh là lănh tụ Đồng Minh
hội thật ra là chỉ để cho tiện sự theo dơi cuả bạn đọc, v́ đó là sự
thật đă xảy ra về sau, trên đất nước nhà. C̣n khi ở ngoài Tầu, lănh
tụ Đồng Minh hội là cụ Trương Bội Công (chết ngày 19/8) cùng với 1
ban thường vụ của Trung Ương Chấp hành ủy viên hội, gồm có Hồ Đức
Thành, Lê Tùng Sơn, Đinh Chương Dương, Trung Trung Phụng, Bồ Xuân
Luật. Trong bọn này, Thành, Sơn, Dương vốn là cán bộ Cộng Sản náu
ḿnh trong những đoàn thể giả hiệu như Quốc tế phản đế, Mặt trận
Giải phóng các nhược tiểu dân tộc….
(2) Tác giả thấy cần phải ghi thêm vào đoạn này một sự kiện mà
trong thư không có dịp nói đến, v́ không muốn cho bức thư bị quá
nặng nề chi tiết. Sự kiện đó là vụ lụt năm 1945, một vụ nước ngập ít
có ở Bắc Việt, d́m sâu và cắt đứt tất cả mọi đường giao thông giữa
hai vùng trung châu và đồng bằng dưới từ 1 đến 5 thước nước. Con
đường từ Trung Hoa sang Hà Nội bị ngập ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc
Giang, Bắc Ninh, khiến cho lănh tụ quốc gia, cũng như quân đội Trung
Hoa, tới Hà Nội chậm 21 ngày, Việt Minh củng cố được cơ sở, lập được
Chính phủ, tuyên bố được độc lập, chính là nhờ được 21 ngày này.
****
Việt Minh đối với các đảng khác lại c̣n tệ hơn nữa. Thí dụ sau
khi Phục Quốc Quân đă về đến Lạng Sơn, vẫn c̣n đương trong thời kỳ
giao hảo với các tổ chức Việt Minh địa phương, th́ ở châu Bảo Lạc,
họ đánh lừa một chỉ huy Phục Quốc Quân đến dự tiệc liên hoan, rồi
bắt giết đi, cùng với hơn 200 anh em cùng đi với vị chỉ huy này. Sở
dĩ một lúc có tới hơn 200 người bị lừa, là v́ trong cả toán quân,
không một ai dám nghĩ rằng người ta có thể phản bội nhau như thế
trong một nước độc lập. Vả lại lúc đó cũng chưa có 1 dấu hiệu ǵ rơ
rệt rằng Việt Minh chủ trương sát hại quốc gia, cũng như chưa có sự
xích mích nào giữa Việt Minh với Phục Quốc Quân hết.
Sự giết hại toán Phục Quốc Quân ở Bảo Lạc, giết hại các lănh
tụ Đại Việt ở Hà Nội, giết hại các cán bộ Quốc Dân đảng trên đường
về của họ từ Lào Cai tới Hà Nội, bấy nhiêu vụ tàn sát làm cho các
đảng quốc gia, ngay trước khi xét đến vấn đề chủ nghĩa, đă phải tụ
họp trong một mặt trận đồng nhất chống Việt Minh. Nhà số 21 đường
Quan Thánh, Hà Nội, là căn cứ đầu tiên của Đồng Minh hội, lúc đó mặc
nhiên là cơ cấu trung ương của các đoàn thể chống Việt Minh, lớn
cũng như nhỏ.
Tiếng loa phóng thanh, từ ngôi nhà 2 tầng giữa một khu vườn
rộng răi này, có tác dụng đánh thức đa số đồng bào ta c̣n đương hoan
hỷ tin vào lời Việt Minh kêu gọi “Đại đoàn kết chống ngoại xâm”. Lời
tố cáo gay gắt những vụ ám sát và phản bội được nhắc đi nhắc lại và
truyền rộng ra rất nhanh trong các giới tư sản, trí thức.
Người ta bắt đầu nghi hoặc và đặt ra những câu hỏi cụ thể về
đại đoàn kết. Cán bộ Việt Minh bắt đầu lúng túng v́ những lời chất
vấn, đại để:
“- Tại sao giết những nhà cách mạng thân Nhật không làm hại ǵ
đồng bào? Tại sao giết các công chức làm với Pháp? Tại sao giết các
nhà giàu thôn quê?”
Riêng ở Hưng Yên, Học Phi, Chủ tịch ủy ban hành chính Tỉnh, đă
công khai hạ lệnh xử tử ít lắm là năm ngàn người, ấy là không kể số
người bị thủ tiêu đơn giản ở các phủ, huyện, làng, xóm. Cuộc khủng
bố này đă khiến cho tỉnh Hưng Yên, trong một năm trời, vắng hẳn bóng
những người biết đọc, biết viết. Rồi cũng do đó, tỉnh Hưng Yên sẽ là
tỉnh nhiều nhất những người chống Việt Minh, không v́ chủ nghĩa hay
chính trị, mà chỉ v́ oán thù trong tang tóc.
Một số người khác chống Việt Minh, v́ không chịu nổi việc
Việt Minh đưa lên hàng “trị dân, trị nước” một bọn côn đồ mới bữa
trước c̣n ăn trộm, ăn cắp, du thủ du thực.
Đây phần lớn là những nhà trí thức sâu sắc, đă yên trí từ lâu
rằng công việc cai trị phải được đảm nhiệm bởi những người có bảo
đảm về trí tuệ cũng như về đạo đức. Thấy Việt Minh giao phó từng địa
phương rộng lớn cho những người không những đă vô học lại c̣n mang
tiếng là lưu manh, nhà trí thức lấy làm lo sợ mà so sánh t́nh trạng
ấy với t́nh trạng ổn định ở các nước tân tiến. Họ thấy Việt minh làm
việc trái với lẽ phải thông thường, th́ Việt Minh tự nhiên tự nó
cũng có ngày tan ră. Họ tham gia các đoàn thể chống Việt Minh chỉ
cốt để, theo ư họ, làm cho Việt Minh chóng tan ră hơn. Và do đó,
tránh cho đất nước đỡ bị tàn hại bởi bọn “cáo đội lốt hùm”.
Thứ ba đến những người chống Việt Minh v́ lư tưởng, gồm những
đồng bào có công phu nghiên cứu chính trị từ trước năm 1945. Có lẽ
tôi cần phải nói rơ với Trung rằng, trước năm 1945, ngoại trừ các
môn đệ của Karl Marx vẫn chống nhau trong ba quan niệm trốt-kưt tức
Đệ Tứ Quốc Tế, ngoại trừ các môn đệ này của Karl Marx, đồng bào ta
rất ít người chịu để tâm học tập chính trị. Cũng bởi thế, ngoài số
đảng viên của mấy đảng Xă hội, Đông dương Cộng Sản, Việt Nam thường
trực Cách mạng, chỉ có một số nhỏ đồng bào hiểu biết chính trị mà
không vào đảng phái nào hết. Đó là những người c̣n trung lập cho đến
ngày tổng khởi nghĩa. Họ hoan hỷ chào mừng ngày độc lập, nhưng họ
vẫn kín đáo xem xét về hành vi và thái độ của Việt Minh. Kịp đến khi
Việt Minh kêu gọi đoàn kết th́ tự họ sẽ chia làm hai phe.
Phe thứ nhất thành khẩn với tiền đồ của dân tộc, tiếc thay
không đủ yếu tố để hiểu biết Việt Minh rơ ràng hơn, nên có những
người đă theo hẳn chính quyền mới. Trong số, Trung sẽ nhận thấy có
các luật sư Vũ Trọng Khánh, Phan Anh, các cụ Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh
Thúc Kháng.
Việt Minh, để được sự cộng tác của các vị nhân sỹ này, không
ngần ngại đội lốt dân chủ quốc gia thuần túy, và đă ủy thác sứ mệnh
cầu hiền cho những cán bộ khôn ngoan nhất. Họ đă thành công, như
Trung xem báo tin tức cũng biết, khi thành lập được một chính phủ có
bộ trưởng Nội vụ là cụ Huỳnh, Bộ trưởng Tư pháp là ông Khánh. Rồi
sau đây, Trung sẽ hiểu rơ sự hệ trọng, về lư thuyết và chiến thuật
của sự thành công này, sự thành công thật ra không có ǵ làm to lớn
lắm.
C̣n bây giờ, đây là trường hợp của những người, như bạn Trung,
chống Việt Minh v́ chống Cộng Sản. Đối với họ, sự dụ dỗ về bất cứ
phương diện nào cũng vô hiệu. Họ là người c̣n trẻ hơn các cụ Huỳnh,
Bùi, c̣n trẻ hơn các ông Anh, Khánh. Chính v́ họ c̣n trẻ, ham đọc,
ham hiểu và chịu khó t́m ṭi, suy nghĩ, cho nên họ đă tự đặt lấy
được một hệ thống lư luận về Việt Minh và Cộng Sản.
Để hiểu Việt Minh, họ biết gạt bỏ, coi là không quan trọng,
những vụ tàn sát, giết chóc, (bao giờ cũng có trong một cuộc đảo lộn
chính trị).
Nhưng Họ không chấp nhận những vụ đồ tể làm quan cách mạng, v́
họ biết Việt Minh cũng không muốn thế, và sự lệch lạc này chỉ tồn
tại nhất thời. Họ chỉ riêng lo, khi nh́n gần, thấy bao nhiêu cơ sở
đầu năo trong chính phủ đều lọt vào tay cán bộ Cộng Sản: đó là chiến
thuật nguyên tắc: “Đảng lănh đạo chính quyền”, chiến thuật riêng của
đảng Cộng Sản. Rồi họ nh́n ra bao quát, nến hành chính trong nước đă
do bộ trưởng Bộ Nội vụ, là Vơ Nguyên Giáp, kư nghị định ngày 3 tháng
10 lập thành các cấp ủy ban. Chế độ ủy ban là chế độ Xô Viết, không
hơn không kém, và đó là một thuộc lư thuyết tổ chức của Cộng Sản.
Thế là nhờ một ưu điểm của họ: biết gạn lọc giữa trăm ngàn
việc lấy những việc có tính chất nguyên tắc hay lư thuyết; họ đă
nhận định được một lần mà đúng vĩnh viễn: Cái nhân của Việt Minh là
Cộng Sản, Việt Minh trưởng thành tất phải là Cộng Sản.
Họ là những người chống Cộng. V́ sao chống Cộng Sản, trong khi
Cộng Sản chỉ tuyên bố giành độc lập, t́m no ấm cho dân? Đây cũng là
một điểm lư thuyết. Bởi theo Karl Marx, họ không thấy hai chữ “độc
lập” trong cứu cánh: Độc lập chỉ là một phương tiện quyến rũ. C̣n no
cơm, ấm áo, muốn có phải theo Marx, phải đi qua con đường đấu tranh
bằng bạo lực và khủng bố giữa các giai cấp. Họ là những người không
tin rằng giai cấp kinh tế là một sự kiện dĩ nhiên, một sự kiện
nguyên nhân của lịch sử.
Họ không tin rằng xă hội muốn được cải tạo, phải được cải tạo
trong máu, lửa của Cách mạng vô sản.
Như vậy, họ chống Cộng Sản trên lư thuyết. Họ biết, sớm hay
muộn, Việt Minh tất có ngày nhận lấy tính chất Cộng Sản thuần túy.
Họ chống Việt Minh là v́ thế. Trong trường hợp của họ đă rơ rệt, họ
chịu nhận một nhược điểm: Họ chống lại một chủ nghĩa khác để thay
thế. Nhược điểm thật nặng nề.
Thành thử họ chỉ là những cá nhân biệt lập chống Cộng: Họ
không đủ điều kiện lư thuyết để lập nên những đoàn thể chống Cộng
của riêng họ. Đó là nguyên nhân khiến cho sau này họ tham gia vào
những đoàn thể quốc gia, tuy cũng không có một chủ nghĩa mới mẻ và
quyến rũ, nhưng ít ra cũng có những cứu cánh rơ rệt, là sự tồn tại
của dân tộc, của tổ quốc, và sự bảo đảm cho mỗi người dân được tự do
lựa chọn lấy con đường riêng của ḿnh, trong khi đi t́m một cuộc
sống có hạnh phúc.
Lẽ cố nhiên tôi không thể chối được sự mỏng manh của họ, tức
là chúng tôi, về tinh thần. Chúng tôi biết, trong một thời gian
ngắn ngủi, khó mà chúng tôi có thể chứng minh với đồng bào chúng
ta rằng Việt Minh là Cộng Sản, rằng không nên theo Cộng Sản, bởi
Cộng Sản đưa đến một t́nh trạng bế tắc, khiến người trong một nước
phải giết nhau, dù đối với nhau không thù không oán, để giải quyết
một vấn đề kinh tế.
Lời chúng tôi sẽ nói xa xôi quá. Lời Việt Minh nói nghe gần
ngay bên tai, mà ấm áp dễ thương quá. Việt Minh nói: Độc lập, Tự do,
Hạnh phúc. C̣n chúng tôi đă gào lên, đă thét lên rằng họ điêu ngoa
quá đỗi. Nhưng đồng bào ta thèm khát những danh từ ấy đă lâu rồi,
nên thấy có, như có nước trong giữa cơn cháy cổ, hăy uống đă, có xá
ǵ nước độc sẽ di hại về sau?
Trung chắc sẽ hỏi rằng biết thua, hà tất chống lại làm ǵ cho
thêm mệt? Nhưng không đâu, Trung ạ. Chúng tôi tin ở sự sai lầm của
một chủ nghĩa nên chúng tôi chống lại sự sai lầm ấy. Chúng tôi có
thể thua (cho đến lúc viết thư này th́ thua thật rồi c̣n ǵ!), nhưng
chúng tôi dù sao cũng tạo nên một dấu vết cho tranh đấu. Dấu vết in
vào ḷng người, có những người khác, hoặc tài giỏi hơn, hoặc có hoàn
cảnh thuận tiện, sẽ đứng lên tiếp tục. Sự thất bại của chúng tôi
không vô ích, mặc dầu sự thất bại, riêng tôi đă thấy rơ từ khi khởi
đầu tranh chấp.
Sự thất bại, Trung ạ, đau đớn nhất là không cứ thua Việt Minh
về lư thuyết hay tài năng. Chúng tôi thua, phần lớn tại hỗn loạn
trong nội bộ.
Trung c̣n nhớ tôi thuật lại rằng Đồng Minh hội được mặc nhiên
coi là cơ cấu trung ương của các đoàn thể chống Việt Minh. Chính bởi
thế, Đồng Minh Hội là một cái ǵ hỗn độn quá sức tưởng tượng.
Trung đă biết cụ Nguyễn Hải Thần chỉ là ủy viên giám sát trong
Đồng Minh Hội, khi c̣n ở ngoài Tầu. Nhưng đến khi về nước, toàn thể
các lănh tụ quốc gia phải nhận không ai có uy tín bằng cụ, đối với
quốc dân trong nước cũng như đối với chính phủ Trung Hoa bên ngoài.
Tất cả bèn tôn cụ lên địa vị lănh tụ tối cao, chủ tịch Đồng Minh
Hội, có ông Nhượng Tống làm bí thư cho cụ, và ông Vũ Hồng Khanh vừa
giữ địa vị lănh tụ Quốc dân đảng, vừa kiêm nhiệm tổng bí thư Đồng
minh hội.
Đồng Minh Hội có danh là một tổ chức thống nhất các lực lượng
quốc gia chống Việt Minh. Nhưng sự thật, không có ǵ thật cả. Đồng
mMinh Hội, trên thực tế, chỉ là đoàn thể riêng của cụ Nguyễn Hải
Thần, cũng như quốc dân đảng của riêng ông Vũ Hồng Khanh.
Người ta suy tôn cụ Nguyễn, đoàn thể nào cũng gọi cụ là lănh
tụ tối cao, mà chẳng đoàn thể nào tuân theo mệnh lệnh của cụ hết. Lư
do của đương sự: Cụ có uy tín, có đạo đức, nhưng không có tài. Người
ta nói rằng những kế hoạch tổ chức, những chiến thuật đấu tranh của
cụ đă bị đối phương bỏ xa quá, cho nên người ta phải bỏ cụ, để tiến
tới. Và người ta đă có lư, v́ quả nhiên cụ Nguyễn chỉ c̣n là một uy
danh thuần túy nữa mà thôi.
Nhưng, cũng là lẽ tự nhiên. Cụ Nguyễn nhất định không thể biết
rơ ḿnh như thế. Hơn nữa, các lănh tụ quốc gia tuy không phục ṭng
mà vẫn t́m đủ mọi cách lọi dụng. Trong sự tranh chấp với Việt Minh,
giai đoạn đầu, bao nhiêu sự xích mích đều do tướng Tiêu Văn, chính
trị chỉ đạo viên của Đồng minh hội, từ ngoài Tàu theo Pḥng quân vào
Việt Nam phân xử. Những quyền lợi do Tiêu Văn giành cho phe quốc
gia, là mặc nhiên giành cho cụ Nguyễn. Các lănh tụ quốc gia bề ngoài
vẫn phục ṭng cụ, chỉ để chia phần quyền lợi ấy.
Thái độ mập mờ, mê hoặc cụ Nguyễn của các lănh tụ quốc gia,
những lănh tụ trong cùng một mặt trận không bao giờ thành thật với
nhau, đă nhiều lần làm cho cả mặt trận điên đảo. Thí dụ, hồi cuối
tháng Chạp năm 1945 sang tháng Giêng năm 1946, Việt Minh lo ngại tổ
chức bầu cử Quốc Hội không xong, nên điều đ́nh “mời” mặt trận quốc
gia 70 ghế nghị sĩ, trong đó có 50 ghế dành cho Quốc Dân Đảng, 20
ghế dành cho Đồng Minh Hội. Mặt trận họp bàn, đồng thanh không nhận.
Nhưng các nhà lănh tụ Quốc Dân Đảng, đột nhiên và tự ư riêng đi lấy
về 50 phiếu. Sau đó, cụ Nguyễn c̣n một ḿnh bị bọn Bồ Xuân Luật theo
Việt Minh, nại danh nghĩa ủy viên thường vụ, chia mất 10 ghế. Các
đảng khác trong Đồng Minh Hội đành chia với cụ 10 ghế c̣n lại. Thiết
tưởng khỏi nói đến sự bất b́nh trong nội bộ mặt trận quốc gia !
Một thí dụ khác, vào cuối tháng hai năm 1946. Bấy giờ đồng bào
trong nước đă chán cuộc tranh chấp đảng phái lắm. Người ta bèn tổ
chức ra một mặt trận mới: Mặt Trận Dân Tộc, ư nói là toàn dân tộc
cùng ở trong tổ chức. Mặt trận Dân tộc họp phiên đại hội đầu tiên
trong một căn nhà ở phố Hàng Bún trên. Chủ tịch: Một vị giáo sư có
danh tiếng về kinh nghiệm sư phạm. Nhưng không có kinh nghiệm về
chính trị, bởi lẽ mặt trận của ông đại ư bao hàm cả dân tộc, đến khi
họp có mời đại biểu của ngót 10 đoàn thể nhỏ, lại quên mất mấy đảng
lớn nhất. Có một đại biểu hỏi đến, vị chủ tịch đă không trả lời được
hợp lư, lại nhất thiết yêu cầu hội nghị “cứ” bàn việc “tổng đ́nh
công, tổng băi thị, cho đến khi Việt Minh rời bỏ chính quyền mới
thôi”! Hội nghị bèn cứ bàn, rời rạc, lạnh nhạt, các đại biểu từ chối
những nhiệm vụ rơ rệt. Họ đều nghĩ có lư: “Đảng nhỏ lật ngụy quyền,
đảng nào lập chính quyền mới?” Họ không muốn bị lừa, dù chỉ trong
nội bộ quốc gia. Cho nên, đến ngày khởi sự, lại chỉ vẻn vẹn có một
số cán bộ của mấy đảng lớn ra mặt, chặn đường vào chợ, hăm máy xe
điện và đóng cửa các nhà hàng. Họ đă đành bị Việt Minh phản công dễ
dăi: Một số cán bộ đóng vai hàng thịt sấn vào hành hung một họa sỹ
danh tiếng, mấy đội viên giả làm thường dân phẫn nộ rút dao găm đâm
loạn xạ vào những người đi hô hào đóng các cửa hiệu. Nói tóm lại,
cuộc “Tổng đ́nh công, tổng băi thị” mới thoát thai đă yếu tử, với
một ưu điểm là không có một tiếng súng nổ, đúng theo chỉ thị của
Pḥng quân Trung hoa. Và kết quả, là Việt Minh chứng tỏ được với Chu
Phúc Thành, tư lệnh Pḥng quân, rằng dân chúng không theo quốc gia
một chút nào !
Chu Phúc Thành, nhân nói để Trung biết, là một đại tướng vào
hạng khá của quân đội Trung Hoa, tư lệnh đạo quân thứ 53 mà đồng bào
ta quen gọi là “quân áo xám”, đến thay thế cho “quân áo vàng” của
tướng Lư Hán. Họ Lư là viên tướng vào Việt Nam trước tiên, theo lệnh
của Đồng Minh, để thi hành hai nhiệm vụ: Giải giáp quân đội Nhật,
giữ trật tự ở miền quân Nhật đóng, đồng thời giúp phương tiện, hoặc
giáo dục hoặc giám sát, cho dân địa phương tự tổ chức lấy một chính
quyền dân chủ. Hai chữ “Pḥng quân” chắc là để ám chỉ nhiệm vụ để
pḥng quân Nhật trở mặt, hoặc đề pḥng loạn lạc ở địa phương.
Trung hẳn đă biết pḥng quân Anh thi hành nhiệm vụ như thế nào
ở miền Nam, từ Nam vĩ tuyến Bắc 16 độ trở xuống. Trung xem báo Pháp,
chắc biết rơ quân đội Pháp đương làm ǵ ở Sài G̣n. Riêng tôi, có thể
nói với Trung rằng Pḥng quân của Lư Hán vào Việt Nam, tức khắc bị
Việt Minh vừa bắt nạt vừa mua chuộc. Lư Hán phần th́ ăn ngập mày
ngập mặt, phần th́ tư lệnh một đạo quân hỗn tạp, với đàn bà chửa,
với trẻ con và chó mèo ghẻ lở trong quang gánh ṭn ten trên vai
người lính chiến, lẽ đương nhiên là Lư Hán đánh lá bài ḥa giải.
Nhưng không xong, v́ cụ Nguyễn cũng như Việt Minh, đều không chịu
chia nhau một nửa đất nước c̣n lại, Lư Hán đương luống cuống th́
được Chu Phúc Thành sang thay. Chu h́nh như quyết tâm đánh Việt
Minh, nhưng đến lúc đó, phái đoàn Pháp ở Trùng Khánh đă kịp hoạt
động có kết quả.
Phái đoàn Pháp kư kết với chính phủ Trùng Khánh một thỏa ước,
ngày 26 tháng 02 năm 1946, nhường cho quân Pháp vào Bắc Việt Nam
“Tiếp pḥng quân” thay thế quân Trung Hoa. Để đối lại, Pháp lấy xong
Bắc Việt sẽ giao con đường xe lửa Hải Pḥng, Côn Minh cho Trung Hoa
làm tư hữu, cùng một lúc với sự mở một khu miễn thuế ở Hải Pḥng cho
hàng hóa nhập cảng vào Vân nam phủ.
Thỏa ước Pháp-Hoa kư xong th́ 7 ngày sau, ngày mồng 6 tháng 3,
hiệp định sơ bộ cũng được kư kết giữa Việt Nam với Pháp. Tôi phải
nói Việt Nam, mà không nói Việt Minh, là bởi một lẽ bí mật c̣n tồn
tại đến bây giờ, tôi không hiểu v́ sao ông Vũ Hồng Khanh đă cùng kư
vào đó với Hồ Chí Minh. Ông Khanh, chắc hẳn cũng như Trung, và tôi,
và hơn 20 triệu đồng bào ta, cũng thấy rơ hiệp định sơ bộ là một sự
thiệt hại vô kể cho quốc gia với quốc dân, tuy hiệp định sơ bộ là
một sự thắng lợi to tát cho riêng Việt Minh.
Việt Minh trước hết cùng với Pháp tổ chức Tiếp pḥng quân,
nghĩa là gián tiếp có nhiệm vụ đối với Đồng Minh. Việt Minh sẽ là
một chính quyền hiện hữu. Việt Minh trông thấy rơ sự trở mặt của
Pháp sau này, Việt Minh sẽ là một chính phủ kháng chiến hợp pháp và
hợp lư. Việt Minh trong khoảnh khắc một chữ kư, từ địa vị một tổ
chức nhỏ mọn, có thể bị Đồng Minh đặt ra ngoài ṿng luật pháp và
trật tự bất cứ lúc nào, Việt Minh đương ở trong t́nh trạng lo sợ
ngày đêm ấy, bây giờ đă là một chính quyền đường đường chính chính,
có chủ tịch chính phủ gởi điện văn chúc tụng quốc trưởng Pháp, được
quốc trưởng Pháp trả lời rất lịch sự: “Thưa ông chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ Cộng ḥa….”!
Có thể nói thắng lợi của Việt Minh trong hiệp định sơ bộ c̣n
to lớn hơn cả trong ngày Tổng Khởi Nghĩa.
Việt Minh như lớn hẳn lên trên trường chính trị, mặc dầu kư
hiệp định sơ bộ, Việt Minh đă biết trước là đem dân tộc d́m vào một
cuộc chiến đấu tàn khốc.
Việt Minh rơ ràng v́ quyền lợi riêng mà phản bội tổ quốc và
nhân dân.
Người quốc gia bắt đầu có chứng cớ cho công việc chống Việt
Minh của họ có hiệu quả, th́ vừa lúc đó mặt trận quốc gia bắt đầu
tan vỡ. v́ đâu mà tan vỡ? V́ không nương tựa được vào Tiếp Pḥng
Quân Trung Hoa nữa.
V́ từ ngày khởi sự tranh chấp không một đoàn thể nào xây dựng
được một lực lượng vơ trang đáng kể:
Quân của Đồng Minh hội giao cho Ủy Viên Quân Sự Nguyễn Phúc
An, nguyên sĩ quan chuyên nghiệp thợ mộc trong quân đội Tàu
Quân đội Quốc Dân đảng, không quá một ngàn người được huấn
luyện, đóng rải rác từ Phúc Yên lên Lào Cai
Phục Quốc Quân không quá bảy trăm binh sĩ tinh nhuệ chiếm đóng
phía bắc tỉnh Lạng Sơn
Đồng Minh Hội Đệ Tam quân, (chỉ huy trưởng Vũ Kim Thành) không
tới năm trăm đội viên, giữ miền Duyên Hải từ Quảng Yên ra Móng Cái.
Tất cả đều bị Việt Minh vây hăm bằng những lực lượng kém huấn
luyện nhưng quân số ít lắm cũng gấp 10 lần.
Người đă ít, tác động tinh thần đă không có, tài chính với
lương thực lại nghèo nàn…cho nên Pḥng quân rút đến đâu, lực lượng
cách mạng quốc gia rút theo đến đó.
Cuộc rút lui bắt đầu từ Thanh Hóa, tỉnh đảng bộ Đại Việt kéo
về Hà Nội, một đằng theo ông Vũ Hồng Khanh qua Lào Cai, một đằng nhờ
đường Phục Quốc Quân, lại ra ngoài Tàu. Cụ Nguyễn Hải Thần đă lên
tới Lạng Sơn ngày 8 tháng 3, ông Vũ Hồng Khanh cũng phải ra đi bí
mật, khiến cho số cán bộ, đảng viên bị bỏ lại, bị bắt giam trong
trại trung ương không đủ chỗ.
Mặt trận quốc gia tan vỡ quả là một sự đau ḷng, dù cho phần
đông người sáng suốt đều đă biết trước. Biết trước mà vẫn phải làm,
như tiền nhân khuyên nhủ: “Hăy làm cho hết sức, rồi được đến đâu hay
đến đó!
Riêng phần tôi, tôi bị bắt ngay buổi chiều ngày 08 tháng 03, ở
Bán Loọng, một vị trí cách Lạng Sơn 3 cây số. Người bắt tôi là bạn
của chúng ta: Trần Minh Tước, nguyên bỉnh bút báo Đông Pháp và La
Volonté Indochinoise. Ngay khi bắt tôi, Tước đă nói trước sẽ không
giết, không phải v́ hắn nể nang ǵ cái danh nghĩa Đại Biểu quốc hội
của tôi, mà v́, theo lời hắn, cách mạng vô sản c̣n cần đến “những
người như chúng ta”! Minh Tước nói thế, nhưng ngay 6 bữa sau, Lộc
Giang, chi đội trưởng chi đội (bây giờ được gọi là trung đoàn) Lạng
Sơn đă hạ lệnh trói tay và bịt mắt tôi, đă điểm nửa tiểu đội lính,
đă phát cho mỗi tên 3 viên đạn. Đạn đă lên ṇng, hộp cơ bẩm đă đóng
lại, tôi đă gởi về mẹ tôi ư nghĩ cuối cùng, th́ có lệnh tạm hoăn.
Tôi được đưa tới giam chung với ba cán bộ trung ương của chúng tôi,
trong số đó có nhà văn chuyên viết phóng sự về Hà Nội lầm than, với
2 chỉ huy quân sự. chúng tôi được gặp nhau để bị điều đi phố B́nh
gia, rồi đi Bắc Sơn. Sáu tháng sau, hai đồng chí Vi Văn Ḥa, Phạm
Chấn Phương của chúng tôi bị giết, khi chúng tôi – đồng chí Trọng
Lang với tôi được trả về Lạng Sơn để về Hà Nội bằng phương tiện
riêng.
Thân ái Trung,
Sáu tháng giam cầm lần thứ nhất (chao ôi! Tôi trông thấy lần
thứ hai bị giam rồi đó Trung!), ngay tại trung tâm chiến khu, đă
giúp cho tôi nhiều về suy nghĩ.
Lạ một điều, tôi không hề nghĩ đến lư thuyết suông. Tôi chỉ lo
sẽ làm ǵ sau khi được thả về. Tin đoàn thể phải đi theo con đường
thoái triệt của quân Tàu lẽ cố nhiên được thông báo cho chúng tôi
biết ngay. Chúng tôi đă thấy rơ: Về Hà Nội chỉ c̣n Việt Minh với
Pháp. Chúng tôi sẽ liên kết với Pháp, như đă nhờ vả Trung Hoa, để
đánh Việt minh? Hay ngược lại? thực là đau khổ, ngay khi c̣n tù tội
đă đau khổ v́ viễn tượng của tự do!
Một anh bạn đưa ra giả thuyết Pháp thi hành đúng Hiệp định sơ
bộ. nhưng không thể được, người Pháp hơn bao giờ hết, cần đến thuộc
địa để hàn gắn những đỗ vỡ của 5 năm chiến tranh. Người Pháp phải kư
hiệp định 6-3 để đuổi được người Tàu một cách yên ổn… hôm tôi đi, cờ
Pháp đă treo ở Đại Sứ Nhật cũ (Viện Quang Tuyến Ra Đi), chiến xa
Pháp đang tiến vào Hà Nội. Người Pháp đă quá quen với người Việt nam
của một thời bảo hộ. họ tất nhiên nghĩ rằng lịch sử nước Pháp sẽ
không tha thứ cho họ, nếu họ để lỡ mất cơ hôi làm cho tổ quốc họ trở
lại cường thịnh. Tất cả đều bảo chúng tôi rằng cuộc chiến đấu không
thể tránh được.
Vả lại, Minh Tước, một hôm vào thăm chúng tôi ở Phố B́nh gia,
cũng có nói đến thái độ của Pháp. Những người lính mắt mèo đương
quấy phá đồng bào đô thành. Chính phủ Pháp không hẳn không chấp nhận
hiệp định sơ bộ, nhưng trong những lời tuyên bố công khai, các chính
khách Ba-lê nhất định chỉ nói đến những khoản không có đính ước. thí
dụ: Một là vẫn giữ đồng bạc của Đông dương ngân hàng, hai là nền
ngoại giao sẽ nhờ Pháp đảm nhiệm, ba là tướng lănh Pháp giúp đỡ việc
chỉ huy quân đội. nghĩa là, tuy không nói ra, những điều kiện “tài
chính riêng, ngoại giao riêng, quân đội riêng”, đă bị người Pháp mặc
nhiên coi như không có.
“Thế nào cũng phải đánh, duy ta cần tranh thủ thời gian”, Minh
Tước nói như vậy. một chữ “ta” của hắn đủ chứng tỏ hắn là khách
quan, hắn biết trước lập trường của chúng tôi, nếu xảy ra chiến sự.
Minh Tước c̣n cho chúng tôi biết thêm rằng phái đoàn Nguyễn
Tường Tam đă đi Đà Lạt gặp phái đoàn Max André. Hắn rất bi quan, v́
ngay trong hai bài diễn văn mở màn người ta đă thấy những cương lĩnh
trái ngược nhau đến tuyệt đối. Minh Tước tiên liệu hội nghị tan vỡ
nhanh chóng. Quả nhiên Fontainebleau. Cả ông Hồ Chí Minh cũng đi.
Rồi lại về, với tạm ước 14 tháng 09.
Trung ở bên ấy, hẳn biết rơ về những việc đă bắt ông Hồ Chí
Minh kư thỏa ước 14 tháng 09. v́ sao? Để thoát thân hay để cố tranh
thủ thêm mấy tháng nữa? làm thế nào biết được, khi ông ta lầm lũi,
đêm khuya đến nhà riêng xin kư với Marius Moutet? Làm thế nào biết
được, khi ông ta thuận cho Pháp tất cả mọi điều kiện Pháp muốn, từ
đồng bạc đến nền ngoại giao, đến chỉ huy quân đội? làm thế nào biết
được khi một người đàn bà vô học, cứ van lạy không thôi, cũng đ̣i
lại đôi chút quyền lợi, nhiều hơn tạm ước 14-9.
Ông Hồ Chí Minh rơ ràng coi bản tạm ước 14-9 là mảnh giấy
lộn, ngay từ khi chưa kư tên. Vậy chắc là để tranh thủ thời gian.
Nhưng đă quá muộn rồi! Trọng tội đă toại thành ngay từ hiệp
định sơ bộ. con người Cộng Sản ấy đă sờ mó vào chiến tranh ngay từ 6
tháng 14 ngày trước. nhưng 4 tháng đầu tiên c̣n tựa vào Pháp để diệt
cho xong quốc gia. Quá nửa thời gian đă bỏ phí. Bao nhiêu thanh niên
nhiệt tâm ái quốc đă bị tù đày và giết hại. ngót một ngàn cán bộ
quân sự, hoặc xuất thân ở Hoàng Phố, hoặc xuất thân ở Liễu Châu, đă
bị tan tác đến 900. Việt Minh đương giao quyền chỉ huy quân sự cho
một bọn cán bộ chính trị. Nếu phải chiến đấu, sẽ có bao nhiêu thanh
niên chết oan v́ các cấp chỉ huy bất lực nữa?
Cơn nguy khốn càng ngày trông càng rơ. Tướng Morliere bắt đầu
dùng cái thuật không đánh trước, nhưng ép cho đối phương phải đánh.
Cuối tháng 10, sang tháng 11, Pháp đem quân vô cớ bắt đội viên tự vệ
Khu 7, Hải Pḥng. Tự vệ Khu 7 tức khắc đắp ụ pḥng ngự. Pháp cho
chiến xa đến, tự vệ Khu 7, không hổ danh đệ nhất hào kiệt miền duyên
hải, tự vệ Khu 7 đốt 4 xe Pháp. Pháp đ̣i vào bắt Nguyễn Văn Ngọc, vị
chỉ huy vừa 19 tuổi. Ngọc đánh Pháp đại bại. thế là về phần bắn súng
chính nhân dân Việt Nam bắn trước. Pháp khởi đánh chiếm cả thị trấn
Hải Pḥng. Hoàng Hữu Nam thay Vơ Nguyên Giáp xuống điều đ́nh. Pháp
đ̣i bắt toàn thể tự vệ Khu 7 và tước vơ khí của toàn bộ tự vệ. Hoàng
Hữu Nam muốn chịu, nhưng nhân dân không chịu, thế là mất Hải Pḥng.
Rồi mất Lạng Sơn.
Sau dĩ nhiên đến Hà Nội. Lính Pháp, qua phố hàng Bún, làm cỏ
người, đốt nhà, mong Việt Nam đánh lại. nhưng Hồ Chí Minh van xin
nhân dân, van xin Pháp. Dân tạm nghe, nên Pháp lo mất cơ hội. Bèn,
ngày 16 tháng 12, Morlière viết thư cho Giáp.
Thư cộc lốc:
“Quân đội của ông không giữ được trật tự. Kể từ 8 giờ sáng
ngày 20 tháng 12, quân đội tôi sẽ giữ trật tự lấy”.
Giữ trật tự, nguyên lai là nhiệm vụ của Tiếp Pḥng Quân. Ra
điều Giáp không giữ được cho ngót 500 đồng bào của hắn khỏi bị giết
hại, th́ Morlière sẽ thay Giáp, giữ cho đồng bào của Giáp khỏi bị
hắn giết thêm 500 nữa. Đó là ư ngụy biện.
C̣n t́nh? C̣n sự thật? quân đội Pháp giữ trật tự trong thành
phố rồi c̣n ǵ! Morlière thật là hay mới nghĩ được câu chuyện khôi
hài lạ lùng! Khôi hài, nhưng y chờ đợi Hồ CHí Minh van xin, cầu khẩn
và đầu hàng.
Đầu hàng? cố nhiên rồi! Hồ chí Minh đánh điện tới tấp cho
Sainteny, d’Argenlieu, Moutet. Giáp xin gặp Morlière. Morlière không
tiếp. Hồ mời, mời không đến, đành đi bộ đến Sainteny, Sainteny đóng
cửa tạ khách. Nghĩa là chỉ c̣n 3 giải pháp: một là đánh, hai là
hàng. Đánh , theo qua điểm của tướng Pháp, có khác ǵ tự tử, lại
giết theo cả một dân tộc? bởi vậy, có lẽ Sainteny với Morlière cùng
chờ đợi một bức xin hàng, đồng thời van xin một vài điều kiện nho
nhỏ, để giữ thể diện với quần chúng.
Có người nói rằng sáng ngày 17/12 có nhiều đại biểu dân chúng
đến xin đánh. Họ thuật lại: Hồ Chí Minh thở dài, tỏ ư thương nhân
dân điêu linh cơ cực quá. Người ta cho rằng đó là giọng lưỡi của
người Cộng Sản, xưa nay không biết thương, bây giờ thương, chính là
để lấy cớ mà đầu hàng.
Nhưng dân chúng không chịu
Sáng ngày 19/12, báo hàng ngày đăng bức thư của Morliere. Hà
Nội tức khắc vắng ngắt: đàn bà đem trẻ con đi hết trong buổi sáng,
c̣n đàn ông, có người cùng đi, c̣n kẻ ở lại, phần lớn là đội viên “
sao vàng nền vuông”, chạy tíu tít đi vay đạn, mượn súng, mua lựu
đạn. Đến buổi chiều, sát khí bừng trên khắp nẻo đường đô thành. Trời
mùa rét nhưng ấm áp, phố phường thưa người đi, người đi nào cũng
bước những bước mạnh và dài. Toàn dân không một tiếng kêu, không một
nét sợ hăi. Thật rơ rệt: Hà Nội nhận lời thách của Morliere, tư lệnh
Sư đoàn Một trong bộ đội viễn chinh Pháp. Sư đoàn này, bên ngoài thủ
đô, c̣n đóng ở bốn thị trấn “ cửa ngơ “: Hải Pḥng, Lạng Sơn, Hải
Dương, Nam Định.
Người ta nói: 6 giờ, trời đă tối mịt, có cuộc họp ở bắc bộ
phủ. Cán bộ báo cáo về dân t́nh. Nhất định là nếu chính phủ đầu
hàng, dân sẽ tự đánh. Nhất định là nếu Việt Minh hàng, một đoàn thể
khác sẽ lănh đạo kháng chiến.
Bởi thế
Ba phát đại bác cách nhau một phút một, ba hỏa pháo xanh tím
xanh, tám giờ mười chín phút tối 19/12, tất cả tự vệ chiến đấu bỏ
chạy hết. lũ chúng tôi, tự vệ Thành mà người ta gọi là tự vệ công
tử, lũ chúng tôi đă khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc
Tôi không muốn mang tiếng phản bội bằng cách cố dùng ng̣i viết
mà thuật lại những cử chỉ anh hùng của hơn hai ngàn chiến sĩ giữ Thủ
đo trong tháng Chạp năm Ất dậu. Là v́ không có bút nào tả xiết, vả
lại có tả cũng không mấy ai dám tin, rằng hơn 400 khẩu súng, đă cầm
chân, đă chống trả lại năm ngh́n quân thiện chiến. Người ta sẽ không
tin rằng có em nhỏ tung dây tḥng lọng bắt được địch, thu được súng
Thomson. (Một khẩu Thomson qúy bằng vạn lạng vàng lúc đó!). Người ta
sẽ không tin có em nhỏ hồn nhiên leo lên xe tăng, nằm soài trước
tháp súng để bỏ lựu đạn vừa vặn vào lỗ châu mai của khẩu 12,7 ly. Em
đó, sau này c̣n lồm cồm đứng lên, múa măi hai tay reo, cho đến khi
bị xe sau bắn vào lưng, đạn thoát ra phía trước, phá toang lồng
ngực. Người ta lại càng không tin có anh sinh viên nhận nhiệm vụ
căng dây thép qua đường Hàng Gai để treo chiếu lên đó, làm bức b́nh
phong cho hai bên hè liên lạc được với nhau. Anh sinh viên có lạ ǵ
Pháp đóng ngay trên Tự Hưng lâu phía trước? Thế mà anh đi thong thả
, vừa đi vừa giở cuộc dây cho khỏi mắc ṿng nọ vào ṿng kia. Anh đi
thong thả, bốn lần ngă, bốn lần dậy, khi vào đến tận trong hiệu
thuốc Normalc, trao ṿng dây c̣n lại cho tôi rồi, anh mới chịu ngă
hẳn.
Và Trung không tin, cũng như tôi hôm nay vẫn ngờ ngợ, rằng đến
lúc quỵ xuống lần cuối cùng anh Nguyễn Dương Minh vẫn cứ mỉm cười!
Thân ái Trung,
Tôi không muốn kể, mà vẫn kể, ấy là v́, ư ngoại địa, sức tưởng
tượng của tôi không theo kịp được sự thật, nên thấy cần phải nhắc
lại sự thật để cho chính ḿnh khỏi hóa điên.
Tôi vẫn nói với Trung, khi trước, rằng điên có lẽ là trạng
thái hoang lạc nhất của đời người. Nhưng hiện nay tôi không muốn,
không thể điên: tôi đă nhận với Việt Minh một nhiệm vụ. Tôi hiện
đương lĩnh trọng trách nắm vững tinh thần của tiểu đoàn 332. Công
tác chính tri, trong lúc này, là công tác quyết định. Bởi chúng tôi
thiếu thốn, chúng tôi bỡ ngỡ (anh cán bộ tiểu đoàn là một sinh viên
y khoa), chúng tôi hiện đương hăng hái và thèm khát giáp trận…nhưng
riêng tôi với anh Quảng, tiểu đoàn trưởng, chúng tôi cùng biết nếu
ngay lúc này gặp một đại đội địch, đơn vị của chúng tôi nhất định
tan vỡ .
Chúng tôi lo sợ lắm. Nhiệm vụ lệnh vừa mới đến hôm qua. Chúng
tôi không thể từ chối: chung quanh chúng tôi toàn là anh em trẻ tuổi
hơn, lại kém chúng tôi kinh nghiệm chiến đấu giữ Liên khu I, chúng
tôi đành nhận nhiệm vụ.
Nhiệm vụ lệnh mang tên chữ kư của Vơ Nguyên Giáp, có Hoàng văn
Thái, thiếu tướng tham mưu trưởng phó thự, có Bằng Giang đại tá khu
trưởng Chiến khu 10 chiếu hội. Chúng tôi nh́n những chữ kư. Tôi nh́n
Quảng, thấy Quảng nh́n tôi chằm chằm. trong ánh mắt Quảng sao lại
chan chứa những ưu tư?
Tôi không hỏi, không dám hỏi, chưa dám hỏi. Nhưng tôi cảm thấy
tôi lo buồn không kém ǵ Quảng. Bởi chúng tôi đă nhận một nhiệm vụ
của Việt Minh. Chúng tôi đă mắc vào khe răng cưa của một guồng máy.
Chúng tôi đă bị phản bội bởi số mệnh. Dưới quyền chỉ huy Cộng Sản,
chúng tôi đă trở thành cán bộ. Không c̣n ḷng nào ngụy biện, rằng
chiến đấu để giành Độc Lập; chúng tôi biết, ngay từ bây giờ, rằng
khi nào Độc Lập là Cộng Sản đă bạch đoạt chính quyền rồi.
Chúng tôi biết, nhưng đă lọt vào khe răng cưa của guồng máy.
V́ sao? V́ chúng tôi là người, chúng tôi đă vùng dậy theo bản năng
chống Pháp. Việt Minh cũng chống Pháp, Việt Minh cho chúng tôi
phương tiện. Lẽ nào từ chối? Vả lại từ chối th́ đi đâu, và làm ǵ?
Chúng tôi cố nhiên đă nghĩ đến trở về Hà Nội, liên kế với Pháp để
diệt Cộng, rồi diệt Pháp sau dễ hơn. Giải pháp hữu lư . Nhưng không
được: cứ tưởng tượng con mắt người Pháp không bao giờ giống con mắt
người Việt, là đă đủ nổi cơn cuồng nộ. Không được! Dù chúng tôi có
muốn liên kết với Pháp, cứ nh́n vào đáy mắt của chúng tôi họ cũng đủ
thấy chúng tôi căm hờn tới mực độ nào: họ sẽ giết chúng tôi trước.
Và chúng tôi sẽ chết vô ích.
Đành nhẽ trong giai đoạn này theo Việt Mịnh, chờ giai đoạn sau
Việt Minh về Hà Nội, lúc đó lại ra đi chống Cộng Sản. Chao ôi, Trung
thân mến, Trung có biết bao giờ có mộ tuổi thanh niên phải sớm biết
những đau khổ, nhưng lo nghĩ như bây giờ? Có bao giờ có một tuổi
thanh niên hăng hái mănh liệt, và thương yêu đồng bào với đất nước,
và thật trẻ, thật đẹp như bây giờ!
Cứ điểm d.332,
Ngày 15 tháng 3, 1947, viết xong
Phú Thọ, Vũ lao,
Ngày 29 tháng 11 năm 1952
Thân ái Trung,
Và thế là hết! Bức thư viết cho Trung chưa gửi, th́ bức thư
này đă phải bắt đầu. Phải bắt đầu giữa một cơn căm giận thấu trời,
mà cũng giữa những phút nhẹ ḷng kỳ lạ: Bạn của Trung đă được đuổi
ra khỏi đơn vị, đă ngeh tuyên án 42 năm khổ sai, đă trốn, và hiện
nay đang ở trên đường len lỏi để vượt qua sông Thao, sang Nghĩa lộ.
Bạn của Trung, đêm hôm nay thao thức quá. Nên mượn đĩa đèn dầu
của bà chủ nhà để soi rơ tờ thư viết cho Trung. Bà chủ nhà là chị
Tường Vân, vợ của bạn chúng ta là Nguyễn Văn Nhiễu. Nhiễu mới bị đấu
chết. Vợ Nhiễu bị đuổi ra khỏi đồn điền Khải Xuân, lên đậy dựng chóp
lều bán mái này bên mộ Nhiễu để khóc chồng. Tôi vừa về qua hồi gần
nửa đêm, nghe tiếng nức nở th́ vào thăm, ai ngờ gặp chị Tường Vân.
Chị Tường Vân giữ tôi lại, luộc khoai cho ăn, rồi chúng tôi
lại khóc Nhiễu. Riêng tôi, tôi khóc cả Quảng.
Quảng đă chết! Nếu quả thật một mối hận có thể kết tinh lại
dưới một nấm mộ, th́ những nổi uất ức trong ḷng Quảng sẽ phải là
một phiến đá, hay một hạt minh châu, không có bàn cân nào cân nổi ở
đời này. Bởi câu chuyện của đời Quảng, tôi chưa biết có cây bút nào
trên thế gian đă viết ra những nỗi thương tâm, cùng với những niềm
yêu dấu, hy sinh, tôi đă thấy trong tâm hồn Quảng.
Quảng là cán bộ tiểu đoàn, năm 1947. Nhưng tôi đă nói Quảng
vốn là sinh viên trường Đại học Y khoa. Không có ǵ báo trước rằng
người thanh niên ấy sẽ trở nên một chỉ huy quân sự. Quảng có mẹ già,
bà mẹ suốt ngày chỉ c̣n thu gọn đời sống vào ba việc: Mỗi buổi sáng
thắp một nén hương trên bàn thờ ông chồng quá văng giữa năm Tân mùi
1, mỗi buổi chiều lần đủ tám mươi tư ṿng tràng hạt, và mỗi khi
Quảng có sự ǵ buồn rầu, bực bội hay tức giận lộ ra nét mặt, th́ khẽ
gọi: “Quảng, con!”.
Nghe tiếng gọi, Quảng tức khắc rũ bỏ tất cả những ư nghĩ không
xứng đáng là của người quân tử. Anh đến ngồi bên cạnh mẹ, thấp hơn
một chút để mẹ nh́n xuống mà thấy mái tóc xanh của ḿnh, và cúi đầu:
“Mẹ tha thứ cho con”.! Rồi sau đó, hai mẹ con anh lại ngồi rất lâu
như vậy, tuy không ai nói một lời nào nữa, mà mẹ biết con, con biết
mẹ cũng nghĩ đến người cha, người chồng tôn kính.
Bởi cha Quảng là một bậc quân tử. Cụ Cử đỗ đồng khao với thân
phụ tôi, Quảng có nói tôi mới biết, song vào giữa lúc một người từ
giáo ban 2 sang chính ban, th́ một người từ giáo ban về quê làm
ruộng. Ngày một sáng đi cày, một chiều dạy học, cụ Cử Vân xa tựa như
người không hề gặp một sự ǵ đáng buồn trong cuộc đời. Cụ hiếm muộn,
tới ngoài bốn mươi tuổi chưa sinh con trai, cũng không có vẻ lấy thế
làm phiền ḷng. Kịp khi Quảng ra đời, cụ h́nh như cũng không lấy thế
làm vui mừng quá lắm. Rồi một ngày kia lính mật thám ập vào nhà,
xích tay cụ giải ra xe, xích tay Cụ dong lên tàu đi Hải Pḥng để đi
Côn lôn, nét mặt cũ vẫn không thay đổi. Trên thềm pḥng đợi của hành
khách hạng nhất, hôm đó dành cho chính trị phạm, Cụ bà ẫm Quảng đến
lạy biệt cha, chỉ nghe Cụ dặn lại một cân đơn giản: “ Bà về nuôi
con. Nó lớn lên th́ dạy nó cho nên người”. sau ngưng lời một phút,
Cụ nói tiếp: “ Làm th́ làm cho tận sức, rồi b́nh tâm!”. Có thế thôi.
Người đi chẳng bao giờ về với vợ con nữa!
Tôi biết về cha Quảng có thế. Có lẽ chính anh cũng được biết
về cha anh có thế. Mẹ anh là người chỉ cầu cứu đến chồng mỗi khi dạy
con, con tỏ vẻ cứng đầu, rắn mắt. Những lúc ấy, theo lời Quảng, mẹ
anh khóc: “ Ông ơi! Ông có thương tôi th́ về dạy con giúp tôi!”
Th́ những lúc ấy, vẫn theo lời Quảng, anh thấy tim anh như
thật vỡ nát làm nhiều mảnh. Anh có thể có lỗi , anh có thể bị hiểu
nhầm hay bị oan uổng, nhưng mặc dù thế nào, anh vẫn thấy một niềm
hối hận mênh mông trong tâm khảm. Mẹ anh chỉ c̣n anh, làm cho mẹ
buồn, ấy là anh đă có tội lắm rồi.
Quảng nghĩ về mẹ như thế, cho nên đến lúc lớn, anh nhờ mẹ dạy
mà tâm tính giống cha như in. Anh thuần hậu, điềm đạm, không bao giờ
to tiếng cũng như không bao giờ để lộ vẻ đau buồn ra nét mặt. Tôi
biết anh năm năm, thân với anh bốn năm, mà chỉ có một lần thấy nét
ưu tư lộ trong tia sáng ở nơi mắt anh. Tôi đă kể với Trung, đó là
buổi chúng tôi cùng nhận được nhiệm vụ lệnh chỉ huy tiểu đoàn 332.
Hôm ấy, Quảng lặng nh́n ra sân rất lâu. Sân đất thịt lầy lội,
đầy những vết chân người đi, những vết trượt ngă. Quảng h́nh như
muốn đếm những chân từ thềm nhà ra bờ tre. Nét mặt chăm chú của anh
rơ ràng biể lộ tâm hồn anh đương theo dơi một ư nghĩ nhất định. Măi
hơn một năm sau, sau khi cùng chết hụt nhiều lần, tôi mới biết hôm
đó anh đă phải đau khổ lắm để chọn lấy một con đường. Chúng tôi thân
được nhau là nhờ cùng đau khổ như vậy.
Nhưng hoàn cảnh của Quảng ác liệt hơn hoàn cảnh của tôi nhiều
lắm, Bởi kẻ phản bội đă phá vỡ chi bộ Lang tài của cha anh chính là
một lănh tụ trong mặt trận Việt Minh hiện tại. Anh nhờ gia huấn ,
không thù oán. Nhưng anh làm sao mà cùng đứng với hắn trên cùng một
vị trí , và cùng đi với hắn theo cùng một con đường? Lại thêm nữa,
mẹ anh già, bốn con anh dại, một ḿnh vợ anh không có lấy trăm bạc
trong tay, làm thế nào vợ anh lo được đủ sống cho gia đ́nh, lúc bấy
giờ c̣n điêu linh trên con đường ṃn nào đó miền Ẩm Thượng?
Thế là, rút cuộc lại, anh cũng như tôi, chúng tôi không t́m
thấy lối thoát. Đi không xong, ở lại th́ không nên, chúng tôi đành
hăy làm những việc phải làm ngay trước mắt. Riêng may cho anh, trong
cơn năo nề ấy, anh c̣n có một kỷ niệm thiêng liêng, một lời dặn của
người cha thương con chí t́nh truyền lại: “ Làm cho tận sức, rồi
b́nh tâm!”.
Cũng nhờ giữ được b́nh tâm mà anh làm trọn được nhiệm vụ của
anh khó khăn bằng trăm lần nhiệm vụ của tôi. Chúng tôi chia nhau
phận sự nắm một tiểu đoàn, nhưng về phần tôi, tôi đă có ḷng yêu
nước chứa chan trong quân ngũ giúp sức. Tôi chỉ có việc đem cái mong
mỏi tha thiết của tôi về một ngày độc lập ra mà nói với anh em trong
đơn vị, là tức khắc, trong những cảnh gieo neo nhất, một luồng sinh
khí mạnh mẽ lại tràn ngập tâm hồn mỗi đứa chúng tôi.
C̣n về phần Quảng, anh đă phải học tất cả ở thực tế. Một tháng
kinh nghiệm giữ Thủ đô hầu như không được việc ǵ . Anh bỡ ngỡ hết
sức khi thấy hơn bốn trăm tay súng nghiêm trong hàng mà chờ lệnh của
anh. Anh không biết nói ǵ, cũng không biết bảo họ làm ǵ hết. Anh
đi đi, lại lại nhiều ṿng , rồi rút cuộc, anh thú thật trước tiểu
đoàn sự bất lực của ḿnh. Anh chờ đợi chúng tôi cười rộ lên. Nhưng
trái lại, chúng tôi xúm lại bên anh, đứa nào cũng cảm động rưng rưng
nước mắt. Chúng tôi thấy ở anh người anh hùng giản dị của tinh thần
khởi nghĩa, của sứ mạng chiến đấu giành độc lập. Chúng ta đă chân
thành mỗi người bày tỏ một vài ư kiến, một vài sự hiểu biết về tổ
chức và chỉ huy một đơn vị chính quy.
Cả tiểu đoàn thức trắng một đêm không ngủ. Chúng tôi thảo
luận, rút kinh nghiệm, thảo luận cho đến khi cùng hiểu rằng đơn vị
chúng tôi không hề là một bộ đội chuyên nghiệp, bởi chỉ gồm những
người dân, những thanh niên tự nguyện chiến đấu v́ tổ quốc. Chúng
tôi thấy không cần phải có kỹ luật sắt để giữ người tự giác. Chúng
tôi chắc chắn giữ được ḿnh làm đơn vị gương mẫu trong b́nh tại. C̣n
chiến đấu, có một ḿnh c̣n chiến đấu được, huống hồ có tới ngót năm
trăm anh em? Bởi thế, chúng tôi quyết định tất cả sẽ cùng một lúc
t́m học chiến thuật, chiến lược, là điều đầu tiên thiếu thốn. Sẽ
cùng học, rồi cùng trao sự học ấy cho Quảng, miễn Quảng ở lại với
đơn vị.
Quảng đă ở lại. Chúng tôi theo Quảng từ Bông Lau, qua Sông Lô,
vào B́nh Trị Thiên 3 . Tiểu đoàn chúng tôi đă đoạt giải thưởng Rèn
cán Chính quân. Quảng đă mất một cánh tay phải ở trận công kiên Ḥa
B́nh, khiến cho quân Pháp riễu anh là “ Hổ cụt tay”.
Chúng tôi đă cùng nhau trải qua không biết bao nhiêu gian khổ.
Hơn bốn trăm anh em lúc đầu, ba năm sau c̣n sống vỏn vẹn có một trăm
bảy mươi hai đứa. Một trăm chín đứa đă bị điều đi đơn vị khác. Tụi
c̣n lại, kể cả Quảng lẫn tôi, có sáu mươi nhăm mạng. Nhưng kẻ ở hay
người đi, tôi dám chắc không ai quên được cái đêm tháng Tư chúng tôi
khai hội buổi đầu tiên, trên một ngọc đồi vùng Phú Lộc. Đêm mồng bốn
rạng mồng năm ấy, một đơn vị kháng chiến thoát thai từ tấm ḷng lũ
chúng tôi dốt thật, nhưng chân thành tin tưởng.
Thân ái Trung,
Trung đă biết một đôi điều về Quảng. Gia đ́nh Quảng nghèo lắm.
Quảng c̣n nghèo hơn nữa, mặc dầu ban Chỉ huy tiểu đoàn sau này đă có
khá nhiều tiền kinh phí. Quảng có lúc giữ trong quỹ tới trăm vạn,
mà, theo tôi biết, không bao giờ Quảng hút vào gói thuốc lá của ban
Chỉ huy mua thếch khách. Quảng c̣n tiết kiệm, đến nỗi anh không tiêu
một đồng nào vào số tiền sinh hoạt phí của anh c̣n thừa hàng tháng.
Anh cóp nhặt, dành dụm, mỗi khi được bạc trăm lại nhờ người em đem
về Ẩm thượng biếu bà mẹ anh.
Ḷng thương con c̣n tha thiết hơn thế. Anh nhặt từng tờ giấy
c̣n một mặt trắng đem cất đi, chừng nào đủ đầy th́ đem đóng lại cho
chúng làm vở tập viết. Anh giữ lại bất cứ một thứ ǵ đẹp mắt có thể
làm đồ chơi cho lũ trẻ, kể từ cái bao hộp dầu Con Hổ, đến tấm ảnh tô
màu thành phố Venise. Cảm động nhất, là những buổi trú quân nhàn
nhạ, anh mày ṃ t́m vật liệu làm cho thằng Châu, đứa con trai lớn,
cây súng cao su, hay nặn cho đứa con gái bé những con mèo, con chó
bằng đất. Bàn tay sinh viên của anh vụng về, thường làm hỏng những
con giống sắp thành h́nh. Lúc đó, anh buồn rầu buông lơi mấy mảnh
vụn xuống đất. Anh thở dài và lắc đầu nhè nhẹ để tỏ dấu thất vọng.
Nhưng chỉ một lát sau anh lại kiên nhẫn bắt đầu một con giống khác…
Như thế là anh đă mang trong bản thân cực nhiều mâu thuẫn. Anh
h́nh như có tài đứt tâm hồn anh ra làm hai phần không những riêng
biệt mà c̣n đối lập. Phần thứ nhất, sống cho công vụ. cho chính phủ,
cho Đảng, cho kháng chiến: hăng hái, quả cảm, cũng mănh. Phần thứ
hai, sống cho gia đ́nh, cho bằng hữu: Chí t́nh, đằm thắm, nương nhẹ
ḷng người như nương nhẹ cánh hoa.
Tôi nhớ, tháng Mười năm 1947, được lệnh truy kích binh đoàn
Vanuxem từ Tuyên Quang về Đoan hùng, quân Pháp đi pháo thuyền, chúng
tôi đi bộ. Nhiệm vụ của chúng tôi là tiêu hao tinh thần địch bằng
những trận đột kích nhỏ, nhằm làm cho địch mệt mỏi và đồng thời trở
nên khinh thường quân đội kháng chiến. Bộ Tư lệnh Liên khu đă chỉ
thị rơ rệt: Quân Pháp có khinh địch, trận phục kích của đại đội
trọng pháo mới có hy vọng thắng lợi. Và quả thế, đến khúc Sông Lô
dưới Đoan Hùng từ 8 đến 11 cây số, pháo thuyền Pháp không có lục
quân đi trên bờ yểm hộ, lại thêm binh sĩ vui hát, nhảy múa trên sân
tàu, cơ hội thật đẹp cho hai khẩu 75 ly bắn mỗi khẩu hai viên đạn.
Một trong bốn viên trúng đích cách mười sáu thước, xuyên qua lần
giáp mỏng của chiếc L.S.T rồi nổ tung ngay giữa hầm máy và hầm đạn.
Chiếc pháo thuyền đứt làm hai mảnh.
Đó là trận Sông Lô năm 1947. Giá trị chiến đấu thuần túy chẳng
là bao đâu, nhưng về tinh thần th́ “ Chiến thắng Sông Lô” quả là một
luồng gió ngược, thổi lồng lộng cho tiêu hao hầu hết những tư tưởng
bi quan, chủ bại. Có thể nói rằng toàn thể đồng bào ta đă ăn mừng
Chiến thắng Sông Lô. Riêng gian khổ nhất tiểu đoàn chúng tôi, đi bốn
ngày ba đêm không nghỉ, khi ngược lên, khi xuôi xuống theo tin tức
của các tổ quân báo mà họa có nghỉ chân, ấy là để đào thật gấp những
hố cá nhân ven bờ sông. Rồi nấp trogn hố bắn những băng đạn vu vơ
vào các khối sắt đen chùi chũi trên mặt nước, rồi vọt lên khỏi hố,
mau mau xa lánh những bộ đội địch vừa mới lên bờ truy nă; rồi sau
hết, lại băng ḿnh lên phía trước, để tổ chức một cuộc phục kích thứ
hai, thứ ba, thứ tư nữa!
Bốn ngày ba đêm không nghỉ, không chợp mắt. Nước khe, nước
lạch, hay nước cũng trâu đầm. Cơm vài nhúm gạo rang nhai cho thật kỹ
với chút muối trắng (ai vơ được vài nhánh tỏi là người ấy có bữa
thịnh soạn!). Bốn ngày ba đêm, chống lại tất cả mọi định luật về
sinh lư, chúng tôi vượt 320 cây số, cộng thêm chính trận phục kích.
Chúng tôi không đi bằng chân mà đi bằng óc. Chúng tôi mụ người trong
sự cố gắng kinh khủng. Cố gắng v́ yêu nước, v́ thù giặc, v́ Quảng
nữa.
V́ Quảng luôn luôn đi đầu. Anh mất hẳn nụ cười, anh quắc nh́n
mấy đội viên kêu mệt. Mệt thật, nhưng hổ thẹn và xúc động bởi tấm
gương chỉ huy, không một ai dám lùi trở lại. Cả những lúc đạn địch
chăng lưới trên đầu, không một ai kịp sợ chết. Có lẽ cũng v́ thế mà
cả tiểu đoàn không có một người bị thương, trừ một tên bị bạn đồng
đội cuốc một phát đứt phăng nửa ngón chân cái với đầu ngón chân bên
cạnh. Thế mà chúng tôi vừa về đến bến Then, vừa nằm lăn xuống đất
chưa kịp ngủ, là hắn đă tập tễnh chống gậy theo kịp, mặt hắn nhăn
nhó tưởng khóc mà hóa ra cười. Khi tháo bỏ manh giẻ rách quấn chân
hắn, chúng tôi chỉ thấy lẫn với đất bùn, có một mớ lá chuối nhai
giập giạp. Thế mà hắn khỏi.
Hoàn cảnh của hắn vẫn chưa phải là lạ nhất. Biết bao nhiêu
hoàn cảnh khác, bất chấp khoa học, của những kẻ bị đến mười phát đạn
trong ḿnh mà không chết, hoặc bị đứt 1 cánh tay rồi để hai ngày
không có thầy thuốc săn sóc cũng không chết….Tôi đă nói chúng tôi
sống bằng tinh thần nhiều hơn bằng vật chất. Đối với Trung, có đâu
phải là một câu lừa dối!
Nhưng cái làm cho tôi lạ lùng nhất vẫn là thái độ của Quảng.
Ngay sau trận Sông Lô, tôi về đến Phú Lộc là ngủ 1 giấc say như
chết. Khi tỉnh dậy, đi t́m Quảng, thấy anh đương lẩn mẩn cắt cắt,
chắp chắp những mảnh sắt tây vụn. Tôi lại gần, anh đưa ra khoe một
cái bàn với bốn cái ghế đặt vỏn vẹn trong ḷng bàn tay:
– Chú bé Cu nhà ḿnh được cái này là khoái lắm đấy nhé!
Giọng nói của anh hiền ḥa, thấm thía. Nhớ con bé và nghèo,
làm đồ cho con chơi, một người cha dễ quên trận vào sinh ra tử chưa
qua được trọn một ngày!
Thế là Trung đă biết nhiều về Quảng. Quảng với tôi gần nhau
không bao lâu đă thân t́nh như ruột thịt. Tôi hơn tuổi, được Quảng
coi như anh, nên đă nhiều lần được nghe Quảng đem tâm t́nh ra thủ
thỉ.
Trung đă biết Quảng mồ côi cha từ nhỏ. Cụ Cử Vân xa bị bắt đày
đi Côn lô bởi có người đồng chí tố cáo. Người đồng chí này hiện là
một trong những lănh tụ Việt Minh. Quảng chỉ c̣n mẹ già. Vâng lời
mẹ, Quảng lấy vợ, thương yêu vợ, rồi thương yêu con. Trước kháng
chiến, Quảng là người của gia đ́nh. Kháng chiến bùng nổ, Quảng đặt
đất nước lên trên gia đ́nh. Cuộc đời của Quảng giản đơn có thế thôi.
Cuộc đời của Quảng đă dồn cho kháng chiến. Kháng chiến là quân
đội, là Tiểu Đoàn 332. Bao nhiêu tậm huyết, bao nhiêu sinh lực trong
Quảng đă dồn cho Tiểu Đoàn 332. Quảng thương yêu đơn vị hơn thương
yêu mẹ, hơn thương yêu vợ con. Có thể nói đơn vị là con anh, anh
sinh đẻ ra nó, nuôi dưỡng nó, trông thấy nó lớn mạnh, trông thấy nó
trưởng thành. Anh có lúc nói với tôi: “Quảng không thể sống xa đơn
vị”. Có lúc anh lẩn thẩn, không muốn cho chiến tranh chấm dứt, để ở
lại với đơn vị.
Cốt giữ lấy đơn vị, anh đă vào Đảng. Nói cho đúng ra th́ Đảng
vẫn coi anh là người trong tổ chức, bởi tin ḷng anh kiên trung,
cương quyết. C̣n phần anh, anh không ghét Đảng, mà chỉ ghét tính
đảng phái. Anh không muốn vào Đảng mà vẫn vào Đảng, ấy là để giữ lấy
đơn vị. Đơn vị là mẹ, là vợ, là con anh cộng lại.
Anh không thể sống xa đơn vị. Cho đến khi đơn vị phản bội anh
là anh phải chết. Chết như những người cha bị giết bởi đứa con chính
ḿnh sinh, dưỡng. Chết v́ bị mấy phát đạn bắn vỡ lồng ngực, mấy phát
đạn từ những khẩu súng của đơn vị. Nhưng trước khi chết thật, tôi
biết anh đă chết trong ḷng, đứt từng khúc ruột.
Trung có biết rằng Quảng bị chính đon vị ḿnh đấu chết? Quảng
bị những đội viên, một thiểu số đă cùng anh vào sinh ra tử, đêm mồng
Bảy vừa rồi, họp thành ṭa án đặc biệt tuyên bố anh có phản nhân
dân, có phản Đảng, và xử tội anh phải chết bắn.
Trung lấy làm lạ lắm? Than ôi! Bạn Trung cũng không biết ǵ
hơn nữa, ngay trong lúc ấy. Bạn Trung, quên không nói, đă rời bỏ
nhiệm vụ, mới là trưởng ban văn nghệ tiểu đoàn. Cũng v́ thế, nên măi
đến khi phong trào đấu tranh chính trị được công khai phát động, bạn
của Trung mới biết.
Th́ đă muộn, Quảng đă bị giam cầm rồi, v́ sao mà bị giam,
chính Quảng cũng không biết. Chỉ biết rằng, có lệnh của Chính ủy Đại
đoàn cho Quảng viết tờ bộc lộ, Quảng không biết viết tờ bộc lộ ra
sao nên bị giam xuống chuồng trâu. Tôi, mặc dầu có lệnh cấm, nhiều
lần lén xuống thăm Quảng. Tôi hỏi nhiều, nhưng Quảng chỉ im lặng.
tôi đoán già: Có lẽ Quảng bị kẻ nào thù ghét. Tôi uất ức, nhiều lần
cầm tay Quảng mà trào nước mắt. Quảng vẫn im lặng (bây giờ nhớ lại,
tôi mới thấy Quảng, bằng sức mạnh của tinh thần, đă vượt lên trên sự
đau đớn, và tách rời khỏi cả sự sống của thể xác !).
Tôi thương Quảng tưởng hóa điên. Tôi lồng lộn lên Khu, về đại
đoàn bộ để cầu cứu. Người ta rơ ràng ghẻ lạnh và khinh bỉ tôi. Chính
trị viên tiểu đoàn gọi tôi lên cấm chỉ mọi quan hệ với Quảng. Tôi
không chịu, nên hắn nhốt tôi vào chuồng trâu, thay cho Quảng bị đem
giam trong cái cũi lớn để giữa sân.
Chúng tôi bị giam như thế ngót một tháng rồi mới đến ngày xử
án. Tôi ở ngoài chuồng trâu chỉ nghe tiếng ồn ào la hét. Thỉnh
thoảng lại có tiếng gào lên buộc tội Quảng: Nào là rủ đồng chí theo
Pháp, nào là mưu giết tướng tổng tư lệnh. Thêm có những kẻ dám nói
đă bị gia đ́nh Quảng bóc lột, gia đ́nh Quảng có hơn một ngàn mẫu
ruộng, gia đ́nh Quảng có mười hủ vàng. Tôi nghe lời buộc tội Quảng
mà dựng tóc gáy. Duy không thấy Quảng trả lời. Anh vẫn im lặng, lúc
ra khỏi ṭa án nhân dân mặt mũi sưng tím, cũng như sáng tinh sương,
hôm sau bị bịt mắt dẫn ra phía đầu làng.
Tôi thương Quảng mê cả người. Tôi măi măi nhớ cặp mắt lúc nào
cũng trong sáng của anh, cũng như tâm hồn anh thương con, yêu mẹ.
Tôi bị khép tội đồng đảng với anh, bị tuyên án 42 năm khổ sai. Nhưng
mới qua được hơn một ngày, th́ có người đội viên cũ, cắt dây trói
cho tôi, rồi cùng với tôi trốn khỏi cứ điểm.
Chúng tôi đi đêm, ngày ngủ trong những bụi cây thật rậm. Chúng
tôi thoát được từ Bắc Cạn về đến đây, không bị lạc trong rừng, không
bị đuổi theo kịp, không sa vào những trạm gác của dân quân du kích,
nhờ chúng tôi đă thuộc ḷng những con đường ṃn của khu rừng mông
mênh gồm bốn tỉnh Bắc, Thái, Tuyên, Phú.
Trong đêm đen đặc, chúng tôi đi, mắt mở cũng như nhắm, chân
bước theo linh tính nhiều hơn theo suy nghĩ. Chúng tôi đi, bước đều
chân trong rừng khuya, và càng đi càng nhớ những đêm hành quân hồi
trước. Những khúc thẳng, những khúc quanh, những dốc cheo, những khe
sâu hun hút, cảnh không trông thấy, mà biết là có, v́ cảnh với
người, với sức sống, h́nh như quyện lấy nhau, ḥa vào nhau làm một.
Một niềm vui, một niềm hân hoan, tin tưởng.
Nhưng tất cả đă xa xôi, v́ đêm nay tôi chỉ c̣n một thứ đau đến
tê lạnh trong người. Một tiếng gọi thầm: “Quảng! Quảng! …” Tiếng gọi
gọi măi, gọi măi theo nhịp chân. Nhịp chân bước đều, đều đến nỗi
không gian dưới bàn chân như liền lại, thành một con đường, con
đường thật, con đường làm bằng những bước chân của người đi. Như
tiếng gọi thầm tên Quảng, bao nhiêu tên Quảng nhắc theo bấy nhiêu
bước chân, cũng liền lại, làm ra một sợi dây xúc động trong tâm ư.
Càng gọi, xúc động càng thêm đông đặc, cho đến lúc thành một thứ
tinh túy, chiếm đoạt cả ư nghĩ của người gọi, rồi tràn ngập cả ra
ngoài không gian tối, vắng. Lúc đó, Quảng như hiện lên, đi bên cạnh
người đi, chung với người đi một ư nghĩ và thương yêu người đi bằng
một t́nh thương yêu thần thánh.
Tất cả đau khổ tan biến ngay. Tất cả oán hờn dẹp lại. Tâm hồn
tôi thoáng chốc lắng xuống như nước trong. Tôi nghĩ đến Quảng, đến
tôi, như nghĩ đến một người xa lạ khác. Cái chết của Quảng cũng như
sự trốn tránh của tôi, tôi tưởng là những sự kiện nào đó, đă xảy ra
từ lâu lắm. Tôi bất chợt thấy ḿnh đương lư luận về ḿnh và về bạn
một cách lạnh lùng, sáng suốt. Trí tuệ ở trong tôi hầu như có một
sức mạnh kỳ dị giúp đỡ, đă gạt hẳn sang một bên những rung cảm của
tâm hồn.
Tôi nghĩ: “Quảng chết, cũng như tôi bị kết án tù, cũng như
chúng tôi nhận công tác với Việt Minh năm năm về trước, ấy là v́
chúng tôi đă mắc vào ṿng răng cưa của guồng máy chiến lược đấu
tranh của những người bôn sơ vích”.
Thân ái Trung,
Tôi muốn vội chia tay với Trung sự t́m thấy. Sự t́m thấy những
giai đoạn chiến lược:
Giai đoạn Một, lấy độc lập làm mới, dùng tiểu tư sản mị quần
chúng. Giai đoạn Hai, lấy kháng chiến làm mới, dùng tiểu tư sản nắm
quần chúng. Giai đoạn Ba, lấy quyền lợi làm mới, dùng quần chúng
diệt tiểu tư sản (bắt đầu từ đoạn thư này, tôi lo rằng hoàn cảnh sẽ
bó buộc tôi phải viết cho Trung những ḍng luận thuyết khô khan, và
đ̣i hỏi ở Trung nhiều chú ư hơn trước. Tôi đă cố tránh cho Trung cái
“nạn” ấy, nhưng xét cho cùng, Trung thật ra cũng cần phải biết Việt
Minh trong lĩnh vực chính sách và chiến lược đấu tranh chính trị. Có
như thế, Trung mới thật hiểu được giai đoạn lịch sử vừa qua của toàn
dân).
Nói đến hai chữ giai đoạn, hai chữ thật cũ mà thật mới, Trung
nên hiểu rằng đây là một danh từ được đem áp dụng vào sự tổ chức,
vào sự hoạt động. Giai đoạn không c̣n riêng dùng trong việc phân
chia một ḍng lịch sử dài đặc: Giai đoạn Bắc thuộc, giai đoạn tự
trị… Giai đoạn hiện nay, thường được dùng vào việc cắt đứt một
chương tŕnh hành động làm nhiều phần, mỗi khi có sự thay đổi trong
chủ quan hay trong khách quan. Cách dùng hai chữ “giai đoạn” như thế
này chắc hẳn đă có từ lâu ở nơi khác nhưng riêng trong nước ta, và
theo sự hiểu biết của tôi, Việt Minh đầu tiên đem dùng hai chữ ấy
một cách thiết thực, liên hệ ngay đến công việc trước mắt và mai
sau.
Việt Minh nói (và viết): Cuộc kháng chiến sẽ có ba giai đoạn,
sự thực hiện một thế giới theo Cộng Sản chủ nghĩa có ba giai đoạn.
Như Trung biết, đă có hẳn những tập sách nghiên cứu tỉ mỉ về những
vấn đề ấy. Duy Việt Minh không bao giờ nhắc nhở đến những giai đoạn
của một công việc tiêu diệt tiểu tư sản. Bởi một lẽ giản dị: Việt
Minh đâu dám công bố những chủ tâm lợi dụng tiểu tư sản, mê hoặc dân
chúng, lợi dụng dân chúng? Trừ khi họ đă hoàn thành được nhiệm vụ
của giao đoạn, nghĩa là tiêu diệt xong giai cấp tiểu tư sản.
Tôi trước hết muốn Trung hiểu rằng trong chính sách của Việt
Minh, giai cấp tiểu tư sản không có nghĩa là giai cấp của những
người có tài sản trung b́nh, không lớn quá để thành đại tư bản,
không nhỏ quá để thành vô sản. Theo Việt Minh, tiểu tư sản là những
ai có đầu óc tham luyến của cải, của cải theo nghĩa vật chất, theo
cả nghĩa tinh thần. Một vị bác sĩ có tài chữa bệnh, coi cái tài ấy
là của riêng của ḿnh; một nhà văn viết những đoản thiên hay, coi
cái hay ấy là của riêng của ḿnh; th́ tất cả đă là những con người
tiểu tư sản, bất chấp vị bác sĩ có thể rất giàu, anh đầu bếp có thể
nghèo và nhà văn có thể phải chạy ăn mỗi ngày, mỗi bữa.
Tiểu tư sản, theo định nghĩa Việt Minh- Cộng Sản- có thể coi
là gồm tất cả mọi thứ người trong xă hội (kể cả những người hành
khất, tôi sẽ nói v́ sao!), ngoại trừ hai hạng người. Hạng người đại
tư bản có đủ tiền bạc, ruộng đất, hăng buôn hay xí nghiệp, nói chung
là có đủ phương tiện sản xuất, để trực tiếp tham dự vào công việc tổ
chức và chỉ huy nền kinh tế trong nước. Hạng thứ hai, coi như đối
lập với hạng trên, được gọi là vô sản khi nào từ vật chất đến tinh
thần đều lệ thuộc vào một cơ cấu chỉ huy độc nhất. Thí dụ: người
Cộng Sản, Trung chắc hẳn đă thấy ngay rằng Việt Minh như thể là định
chia xă hội loài người làm ba phần, một phần theo để làm cơ sở cho
Cộng Sản, một phần là cái cơ cấu chỉ huy của những chính quyền tư
sản-mà Cộng Sản phải đánh thua để cướp lấy quyền lực-phần thứ ba gồm
tất cả những người c̣n lại. Sự phân chia rơ ràng có tính cách chiến
lược, bởi v́ họ mặc dầu lấy cữ “sản” làm tiêu chuẩn phân định từng
thành phần, mà thật ra họ chủ tâm chia xă hội làm làm bạn, thù, và
trung lập.
Việt Minh và Cộng Sản (công khai) vẫn nói rằng tiểu tư sản
trung lập với họ, họ trung lập với tiểu tư sản. Họ cho rằng tiểu tư
sản không quyết liệt pḥ tá đại tư bản trong công cuộc thống trị xă
hội bằng phương tiện sản xuất, nhưng, ngược lại, tiểu tư sản cũng
không tham gia vào hàng ngũ của họ để xây dựng cách mạng vô sản. Gần
đây, một lư thuyết gia Trung Cộng là Lưu Thiếu Kỳ c̣n cho rằng tiểu
tư sản không phải là một giai cấp, bởi không có ư thức quyết tâm đấu
tranh để bảo vệ quyền lợi và uy thế của giai cấp của ḿnh, và cũng
không oán thù, căm tức các giai cấp khác. Lưu Thiểu Kỳ từ đó gọi
tiểu tư sản là một “ư thức”. Ư thức tiểu tư sản sẽ theo về giai cấp
nào thắng lợi trong cuộc giai cấp đấu tranh, đó là chủ trương và sự
tiên đoán của Karl Marx.
Quan niệm của Việt Cộng (Việt Minh, Cộng Sản) đă như thế, đáng
lẽ ư thức tiểu tư sản phải được để cho yên ổn. Đă như thế, tại sao
Việt Cộng nhằm tiêu diệt tiểu tư sản trước hết, trước khi khởi sự
giao tranh với đại tư bản?
Theo ư tôi, có lẽ trước hết tại tất cả những ǵ Việt Cộng nói
về tiểu tư sản đều là man trá. Họ vốn không công nhận có thễ có một
thái độ trung lập trong lịch sử, th́ tiểu tư sản làm thế nào mà đứng
trung lập cho được? Đó là một lẽ. Lẽ thứ hai là ở Việt Nam không làm
ǵ có đại tư bản, nếu không kể đến người ngoại quốc, tức là người
Pháp, đă được liệt vào loại xâm lăng thống trị. Việt Cộng thành ra
không có kẻ thù chính, lẽ tất nhiên quay lại diệt kẻ thù phụ.
Nhưng đă nói ư thức tiểu tư sản sẽ theo về bên thắng trận. Ư
thức tiểu tư sản sẽ theo về Việt Cộng. Th́ làm sao có thể biến thành
kẻ thù, dù chỉ là kẻ thù phụ? Tôi nghĩ rằng đây là lư do thứ ba v́
sao Việt Cộng nhắm tiêu diệt tiểu tư sản. Lư do đó, là tiểu tư sản
mới thật là kẻ thù của họ.
V́ sao? V́ Việt Cộng chủ trương, ngay trong lư thuyết, tiêu
diệt tự do cá nhân. Mà chống lại chủ trương đó là ai, nếu không phải
là những nhà trí thức trước hết: Những bác sĩ, luật sư, kỹ sư, những
văn nhân, thi sĩ, nghệ sĩ, hầu hết là những phần tử tiểu tư sản?
V́ sao? V́ Việt Cộng chủ trương, ngay trong lư thuyết, rằng
con người lư tưởng của một xă hội Cộng Sản chủ nghĩa là con người vô
sản thuần túy. Sống vật chất, nhờ Đảng. Sống tinh thần, theo Đảng
tuyệt đối. Người vô sản không có một tấc đất cắm dùi, không có một
tầu lá làm mái che mưa, nắng, không có một đồng bạc để dành qua đêm
tới sáng mai, đó là sống vật chất nhờ Đảng. Điều này tương đối dễ,
v́ thật ra, nếu Đảng cho được đầy đủ suốt đời, th́ c̣n ai giữ của
riêng làm ǵ cho khổ thân. Nhưng sống tinh thần theo Đảng khó hơn,
khó hơn nhiều. Bởi sống như thế nghĩa là không có xúc động trong tâm
hồn nữa, hoặc nói cho đúng là chỉ có những xúc động trong tâm hồn
theo ư muốn của Đảng. Đảng bảo yêu th́ yêu, bảo ghét th́ ghét. Thậm
chí có bị nhục mạ, Đảng bảo đó là vinh dự cũng phải “thành khẩn” tin
rằng đó là vinh dự. Nói tóm lại, muốn xứng đáng là vô sản thuần túy,
phải giết bỏ tâm hồn, phải tự biến ḿnh thành sắt đá. Sắt đá tâm
hồn, trừ Việt Cộng, họa may c̣n có một số nhỏ đại tư bản có khả năng
làm giàu trên xương máu đồng loại. C̣n tiểu tư sản, lấy sự phong phú
trong tâm hồn làm hănh diện, lấy yêu thương làm lẽ sống-hay lẽ
chết!-, lấy danh dự và nhân phẩm làm những thứ không có không sống
được trên đời, tiểu tư sản mới thật là kẻ thù chính của lư thuyết vô
sản.
C̣n v́ sao nữa? V́ cản đường của tuyên truyền Việt Cộng, cản
đường của giáo dục Việt Cộng, giữ Việt Cộng không cho mê hoặc quần
chúng dễ dàng, lại chính là tiểu tư sản. Người tiểu tư sản cố nhiên
gần gũi quần chúng hơn người đại tư bản, quần chúng lại hằng ngày
noi gương người trí thức tiểu tư sản, cho nên tranh giành uy thế
trong quần chúng với Việt Cộng, vô h́nh chung trở thành kẻ thù thứ
nhất của Việt Cộng, chính là tiểu tư sản.
Thân ái Trung,
(Trung đă thấm mệt v́ lư thuyết chưa? Hy vọng rằng chưa, bởi
mang danh là những kẻ đương làm ra lịch sử, chúng ta đâu có quyền từ
chối một đôi chút khó khăn?)
Chúng ta vừa mới thấy rằng chúng ta mới thật là kẻ thù của
Việt Cộng (Việt Minh, Cộng Sản). Sự nhận định của chúng ta rơ ràng
quá. Chỉ hận rằng măi đến bây giờ chúng ta mới thấy rơ vị trí của
ḿnh trong quan điểm đấu tranh của Việt Cộng. Chúng ta đă mắc phải
lỗi lầm vạn cổ, là ghét người mà không biết người ghét ḿnh, thù
người mà không biết người thù ḿnh, toan đánh người mà không biết
lưỡi dao của người đă đặt sẵn ngang cổ ḿnh. Chúng ta, nhất định là
có Trung cùng đi với chúng tôi, chống Việt Cộng bởi họ theo chính
sách đảng trị độc tài, bởi chúng ta lo rằng với lư thuyết đấu tranh
cực đoan mác xít, họ sẽ gieo rắc quá nhiều đau khổ trong xă hội.
Chúng ta không kịp nghĩ rằng họ không những chống lại chúng ta mà
c̣n căm thù chúng ta cực độ. Bởi họ là những người ham muốn quyền
lực đến chỗ tự hủy hoại, trước tiên trong ḷng họ, tất cả mọi thứ
t́nh cảm cao quư, kể cả ḷng nhân đạo.
Chúng ta- hay nói cho đúng: Chúng tôi- chúng tôi thiếu sự nhận
định mối quan hệ giữa ḿnh với địch cho thật sát, cho nên trong thời
gian một gian đoạn chiến lược của họ, chúng tôi đă để cho họ lợi
dụng ḿnh mà mê hoặc quần chúng, bằng mỗi một chữ kép: “Độc Lập”!
Độc Lập trước hết là sư thèm khát của người tiểu tư sản. Giữa
những người tiểu tư sản, càng có trí thức ở tŕnh độ cao hơn càng
thèm khát Độc Lập hơn. Bởi, trái với lư luận Việt Cộng, cảm thông
cái nhục mất nước thấm thía nhất, là người trí thức.
Người trí thức luôn luôn được biệt đăi bởi chính quyền thống
trị, về vật chất cũng như về danh vọng. Nhưng danh vọng không làm
nên hạnh phúc về tinh thần. Người trí thức càng có danh vọng càng
gần gũi bọn thống trị, có khi chỉ một cái nh́n, một nụ cười nhếch
mép, một lời nói khinh bỉ, cũng đủ cho tất cả những nỗi niềm cay
đắng của một dân tộc vong quốc lại tràn ngập trong tâm hồn họ. Họ đă
đành có những kẻ hèn mạt, nuốt nhục vào trong ḷng để sống một bề
ngoài vinh hiển. Nhưng đó là số ít, một số ít không c̣n tâm hồn, nên
đă theo hầu thống trị, và sẽ lại cho hầu Việt Cộng. Một số ít. C̣n
bao nhiêu người mang nặng nỗi u hoài, kẻ nhu nhược th́ chờ thời đợi
số, người anh hùng th́ hợp thành tổ chức đấu tranh, mà dù thế này
thế khác, chợt đến khi có cơ hội, tất cả đều vùng lên.
Vùng lên để làm gương và lôi cuốn toàn dân….Không những thế,
lănh đạo toàn dân!
Lănh đạo, thật như vậy, ở tất cả mọi cấp bực, ở tất cả mọi
guồng máy, ở tất cả mọi ngành kháng chiến. Từ những cụ Phán già đến
các ông Tham trẻ, nhân viên hành chính, chuyên môn các bộ, các sở đủ
mặt gần hết. C̣n bên ngoài thứ cơ sở đầu năo ấy, và tung ḿnh đi bốn
phương trời để giữ vững chính quyền, cùng thoát ly gia đ́nh để lên
đường phụng sự. Tất cả đều xuất thân tiểu tư sản, trí thức hay tiểu
trí thức.
– “ Ngoại trừ các cơ quan hành chánh, toàn là người địa
phương. Ngoại trừ các cơ quan của Mặt Trận, toàn là chiến sĩ vô
sản!”, có người bảo như thế, để kết luận rằng nhân viên tiểu tư sản
chỉ có công phục vụ chính quyền ở một lớp vỏ hiện ra ngoài cùng, c̣n
bao nhiêu xây dựng bên trong đều nhờ vào cán bộ vô sản, nắm vững số
đồng bào chân thực nơi thôn quê mà làm ra cái nhân cho kháng chiến.
Kháng chiến của Việt Minh, kháng chiến là Việt Minh, Việt Minh là
kháng chiến, là tất cả giai đoạn lịch sử 1947-1952. Hoặc nói cho
khác đi, lịch sử Việt Nam với Việt Minh, trong năm năm, đă hợp làm
một, chỉ là một. Con đường lập lư thẳng tắp, sáng sủa và đơn giản
đến nỗi tất cả mọi sự căi lại đều có vẻ vô ích ngay từ thoạt đầu.
Trong năm năm, người ta sẵn sàng công nhận công lao kháng chiến ở
Việt Minh, làm như không có Việt Minh không có kháng chiến.
Nhưng không đúng. Trừ phi nói thêm rằng Việt Minh ở đây là
tiểu tư sản. Bởi người ta quên chưa nói, hoặc nhớ mà không chịu
nhận: người địa phương, trong các ủy ban hành chính, hành kháng.
Rồi kháng hành 4, xương sống của chế độ sô viết Việt Nam, hoàn
toàn là tiểu tư sản. Bởi người ta cũng quên chưa nói hầu hết cán bộ
của Việt Minh là tiểu tư sản.
Tiểu tư sản trí thức, các chủ tịch ủy ban Nam, Trung, Bắc bộ.
Tiểu tư sản trí thức, các chủ tịch và nhân viên ủy ban khu hay liên
khu. Tiểu tư sản tiểu trí thức, các chủ tịch và ủy ban tỉnh, huyện,
làng, xă. Rồi đến các cấp cán bộ của Mặt trận, từ Nguyễn Sơn, Đặng
thái Mai ở trung ương, đến những cán bộ xă tên Kèo, tên Cột, tất cả
đều phải có cái vốn học hành, dù nhiều dù ít. Mà trước năm 1945, có
gia đ́nh nào vô sản tuyệt đối có thể nuôi con cái cho ăn đi học? Vả
lại, trong hàng ngũ của Mặt trận, nếu có những người thoạt ra đời đă
không có cha mẹ, sống lúc bé nhờ Viện Dục anh với Trại mồ côi, khi
lớn lên, hoặc may mắn được giúp đỡ cho học, hoặc bôn ba nữa lao
động, nửa lưu manh để tự học, th́ những người ấy cũng vẫn có phần
nào những đặc tính tiểu tư sản. Họ vẫn có những giá trị tinh thần.
Tôi đă một lần nói với Trung rằng theo lư thuyết Cộng Sản,
giai cấp thoạt tiên chia làm ba loại: đại tư bản khống chế xă hội
bằng phương tiện sản xuất, vô sản không có phương tiện sản xuất, và
tiểu tư sản có phương tiện sản xuất nhưng có không đủ để làm đại tư
bản. Nhưng về sau, lư thuyết bắt buộc giai cấp phải có tính chất
tranh đấu, nên giai cấp thật sự chỉ có hai, c̣n tiểu tư sản đă trở
nên một ư thức. Chính v́ nó là một ư thức- một danh vị nặng về nghĩa
tinh thần- cho nên ai đă “ có” một cái ǵ, coi như của riêng của
ḿnh mà người khác không có, hoặc có mà không giống hay không bằng
của ḿnh, th́ người đó là tiểu tư sản. (Người hành khất có cái bị,
cái gậy, tuy không đáng gọi là tư sản mà ai lấy của hắn, hắn giằng
lại, vậy hắn là tiểu tư sản. Hoặc nếu hắn ở truồng, giơ bàn tay lọ
lem ra xin ăn mà bị mắng chửi, nếu hắn tức giận hay tủi hổ, hắn vẫn
là tiểu tư sản, bởi hắn có, có nhân phẩm)
Thành thử tất cả những người đă chân thành kháng chiến cho tổ
quốc “ của họ”, tất cả đều là tiểu tư sản. Kể cả những người Cộng
Sản. Với con số nhỏ bé về nhân sự, và nhờ ở địa vị ưu thắng trong
Mặt trận, họ giống như cái nhân chứa đựng tinh túy của cái hột Việt
Minh. Nhưng họ vẫn cứ là tiểu tư sản.
Tiểu tư sản, họ có người đứng vào hàng lănh tụ, mang nặng một
ư chí tham vọng quyền lực, dùng chủ nghĩa mác xít với các tổ chức
đấu tranh làm phương tiện, nhằm chiếm đoạt lầy quyền chuyên chế
trong toàn quốc và trên toàn dân. Số lănh tụ ít ỏi này, mặc dầu phần
lớn xuất thân tiểu tư sản, thật sự đă biến thành những tay đại tư
bản, lúc nào cũng chủ trương chính sách nắm lấy mọi nguồn sống vật
chất để chi phối đời sống quốc gia.
Đến thành phần thứ hai của đảng Cộng Sản, đông hơn nhiều, là
những người cũng xuất thân tiểu tư sản, giác ngộ đấu tranh cách
mạng, tin tưởng ở chủ nghĩa mác xít mà họ chỉ biết có một bề mặt
nhân đạo. Những người này vào đảng hoàn toàn để đáp lại tiếng gọi
của tâm hồn họ, đă nhiều lần thương xót cho kiếp sống quằn quại của
giống người bóc lột lẫn nhau một cách tàn nhẫn. Ra đi để xây đắp Thế
giới Đại đồng, họ không những tin tưởng, mà c̣n bị mê hoặc bởi bọn
lănh tụ. Họ đă tự nguyện hiến thân làm đảng viên hay cán bộ cho Đảng
. Họ là cơ sở, là bàn đạp của bọn lănh tụ. Nhưng họ không giống bọn
lănh tụ ở chỗ họ vẫn c̣n mang nặng tính chất tiểu tư sản, ở chỗ bọn
lănh tụ vẫn để cho họ giữ lại một mực độ rung cảm phong phú trong
tâm hồn, lấy điểm đó làm mấu chốt mà nắm vững, mà lợi dụng họ.
Cuộc kháng chiến, nói tóm lại, là của những người tiểu tư sản.
Cũng như cuộc Tổng khởi nghĩa. Cũng như tất cả những hoạt động cách
mạng trong bí mật. Tiểu tư sản, ở đây, bao gồm tất cả những tầng lớp
dân chúng có thể có, hay không có tài sản vật chất, nhưng ai nấy đều
hănh diện rằng có một tài sản tinh thần quư giá là lịch sử, là
truyền thống dân tộc, trong đó đă có sẵn ḷng v́ dân, yêu nước.
Trong số này dĩ nhiên không có những lănh tụ Cộng Sản. Là v́,
tuy xuất thân thường hay có tài sản cả tinh thần lẫn vật chất, họ
chỉ giữ lại những tài sản vật chất, coi đó là thứ độc nhất quan hệ ở
đời, c̣n bao nhiêu tài sản tinh thần đă bị họ vất bỏ đi hết. Họ là
những lănh tụ, trong tay có thể không bao giờ…
…..phải cầm đến một đồng bạc cũng như trên ḿnh có thể chỉ có
một bộ đồ ka-ki, nhưng họ quả thật đă trở nên những phần tử đại tư
bản, chỉ biết có vật chất, chỉ tin vào vật chất.
Họ đă đành là những kẻ phản bội giữa hàng ngũ tiểu tư sản. Họ
nhất định không có công lao ǵ trong Tổng Khởi Nghĩa, trong kháng
chiến, mặc dầu trong mặt trận Việt Minh họ vẫn đứng được ở cương vị
lănh tụ (cương vị này do Đệ Tam Quốc Tế tạo ra cho họ, nhờ Việt Minh
tôn trọng trung ương quốc tế, đă suy tôn họ ngay từ khi chưa biết
đích họ tên thật là ǵ).
Trong giai đoạn đầu, khi tiểu tư sản kháng chiến thực sự, bọn
lănh tụ chỉ làm công việc nắm vững tiểu tư sản, thúc dục tiểu tư sản
vừa nắm vững dân chúng, vừa đồng tḥi truyền dạy tất cả những kinh
nghiệm bản thân của mấy năm đầu tiên, khó khăn và gian khổ nhất ,
cho một lớp cán bộ mới, cán bộ vô sản thực sự.
Thân ái Trung,
Trung xem đến đây, chắc sẽ nghĩ:- “Dại ǵ mà đem kinh nghiệm
xương máu truyền cho bọn người mới, nếu biết rằng bọn này sẽ thay
thế ḿnh, để Cộng Sản gạt được ḿnh ra khỏi ṿng tranh đấu?”.
Tôi sẽ trẻ lời Trung rằng giữa chúng tôi có người không biết,
nhưng cũng có những người có biết mà vẫn cứ làm. Bởi Trung c̣n lạ ǵ
tâm hồn chúng tôi, chúng ta, khi đă v́ Độc Lập, và nếu có ích cho
kháng chiến, th́ đến thân thể ḿnh c̣n chẳng tiếc, há tiếc những
kinh nghiệm bây giờ, hoặc những địa vị mai sau?
Nhưng cũng phải nhận với Trung rằng ví dù có biết, người sáng
suốt trong chúng tôi vẫn không ngờ, không ngờ sau này Cộng Sản không
cho ḿnh được phép sống, dù chỉ sống bên lề cuộc tranh đấu. Không
ngờ sau này, biết thời cơ đă đến, cho phép thay thế cán bộ tiểu tư
sản bằng cán bộ vô sản, th́ đảng Lao động ra đời, thống nhất mọi
tầng lớp chỉ huy vào ư chí lănh đạo độc nhất của chủ nghĩa
bôn-sơ-vích. Đến lúc đó, bị đuổi ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận, tiểu
tư sản vẫn có uy tín đối với đại chúng, lại có thêm uy tín của năm
năm kháng chiến anh dũng, lẽ cố nhiên không c̣n cách nào khác là
chết đi để trả lại uy tín ấy cho đảng Lao động.
Ra đời năm 1951, đảng Lao động có tác dụng đầu tiên là làm cho
hoàn cảnh của các thành phần xă hội, của các phần tử đảng phái trở
nên rơ rệt. Hai chữ Việt Minh sẽ ch́m vào trong một chữ “Đảng” viết
hoa và độc nhất, Đảng là đảng của những người Cộng Sản. Những kẻ nào
không phải là Cộng Sản tự nhiên thấy ḿnh hết đất đứng, mặc cho công
lao từ trước thật là vô kể.
Hết đất đứng, Việt Minh bí mật, gian khổ trên chiến khu hay
quằn quại trong các ngục thất. Hết đất đứng, Việt Minh kháng chiến,
xông pha bom đạn hay lần lút công tác nội thành. Để bây giờ đảng Lao
Động gọi tất cả bọn là bọn “cơ hội”, nghĩa là luôn mười năm liều
tính mạng để đầu cơ lấy sự “ được sống” trong thiên đường vô sản. Mà
không được, v́ Đảng sáng suốt, Đảng sẽ tiêu diệt kỳ hết những kẻ thù
của nhân dân, những kẻ thù của giai cấp.
Thí dụ:- Quảng,
(Chao ôi! Nhắc đến tên anh, oan khổ lại sôi lên sùng sục trong
tâm hồn thằng bạn c̣n sống sót này!)
Quảng! Trang thanh niên hào kiệt như anh, trải qua bao nhiêu
mưa bom, gió đạn, không được chết, để rồi chết v́ thủ đoạn đê hèn
của những kẻ lợi dụng anh năm năm, mà sau sợ anh, giết anh trong
phút chốc.
Những kẻ giết anh, bây giờ tôi đă biết, không phải là những
đội viên cuồng nộ giữa phiên ṭa án nhân dân. Cũng không phải những
kẻ xúi giục họ, cầm đầu họ cho họ đấu anh. V́ bọn này mới chỉ là
đảng viên, cán bộ bị mê hoặc, dưới quyền một số nhỏ những lănh tụ,
xuất thân tiểu tư sản như chúng ta, nhưng đă phản bội và đă mất hết
nhân tính trong cuộc tranh giành lấy quyền lực. Hoàng Cao Khải của
xâm lăng bôn-sơ vích, họ tài giỏi hơn Hoàng Cao Khải cả ngàn vạn
lần, nhờ xâm lăng bôn-sơ-vích có những trường dạy nghề phản bội,
trong đó khoa học được áp dụng và khai thác đến những phát minh mới
nhất.
Chính bởi thế mà họ, bọn lănh tụ đă lợi dụng được những người
như anh-Quảng!, – như tôi, như hầu hết con số hai mươi nhăm triệu
người Việt. Bằng mỗi một chữ kép, như tôi đă viết: Độc Lập.
Độc lập! V́ độc lập, giành độc lập, bao nhiêu thanh niên đă bỏ
nhà lên chiến khu từ năm 1941. Ḷng hăng hái với chí khí cương cường
của tuổi trẻ không đủ chống lại lam sơn chướng khí, và đói rét, và
cực nhọc, cho nên một số lớn phải bỏ ḿnh trong những cơn nóng lạnh
kinh khủng có kèm theo kiết lỵ. V́ độc lập, giành độc lập, bao nhiêu
thanh niên đă bỏ ḿnh bởi tra tấn trong căn nhà nhỏ giữa sân sở
“Công an và cảnh sát đặc biệt” đường Hàng Cỏ. Bao nhiêu thanh niên
khác nữa gục ngă trong tối tăm và xiềng xích của “Nhà Trung Ương” 5,
của các trại khổ sai Lao Bảo, Ban mê Thuột, Côn Lôn. Với một số cuối
cùng, không bị kêu án tử h́nh mà cứ bị đem ra bắn ở hai trường bay
Bạch Mai và Tân Sơn Nhứt. Họ, tất cả, là “ Việt Minh trong bóng
tối”.
Họ, tất cả, đă chết v́ độc lập, để giành độc lập. Họ đều là
những phần tử tiểu tư sản, trí thức hay tiểu trí thức. Kể cả Hoàng
Văn Thụ, nhất là Hoàng Văn Thụ. Mặc dầu là Cộng Sản cấp trung ương,
Thụ, hơn ai hết, mang nặng trong tâm hồn những nét cao quư của con
người tiểu tư sản.
(Tưởng cũng nên nhắc lại cho Trung biết, Hoàng Văn Thụ bị bắt,
bị tra tấn ghê gớm lắm vẫn không chịu hé răng khai tên một đồng chí.
Anh bị bắn, một buổi sáng ở Bạch Mai năm 1945, chỉ v́ bọn mật thám
tức giận sự im lặng của anh. Nếu phải là người vô sản thuần túy, anh
sẽ tố cáo một số cán bộ dưới quyền anh, hy sinh bọn cán bộ ấy vào tù
để cứu lấy đời sống của ḿnh, của một ủy viên trung ương, và như vậy
Đảng vẫn c̣n lợi chán. Anh sẽ được khen làm thế là phải, như đồng
chí Trần Huy Liệu được khen khi trước. Nhưng anh không khai, để giữ
vẹn tiết tháo của bậc anh hùng liệt sĩ. Anh hùng, ai chẳng biết gần
đây Đảng đă kể anh hùng làm một đặc tính tiểu tư sản?!).
Rồi đến nay không ai c̣n đất đứng.
V́ sao?- v́ một quyết định lư thuyết: “Đặt lại cơ sở cho Cách
mạng Vô sản”.
Cơ sở của cách mạng, cho đến nay, vẫn là đảng viên và cán bộ
xuất thân tiểu tư sản. Tiểu tư sản vẫn kiên trung với cách mạng, vẫn
phục tùng lănh tụ. Như vậy th́ v́ đâu loại bỏ cơ sở cũ, để đặt ra cơ
sở mới một cách khó khăn?
V́ đâu?- V́, một cách giản dị, lẽ nào một thế giới vô sản, xây
dựng bằng đấu tranh quyết liệt bằng hủy hoại cả một nền trật tự tư
bản với những thói quen bẩn thỉu, lẽ nào thế giới sáng trong và tươi
đẹp ấy lại có thể bị xây dựng bởi cái ư thức tiểu tư sản đớn hèn, cơ
hội, đă đầu hàng Cộng Sản cũng như sẽ đầu hàng tư bản bất cứ lúc
nào?
Đảng, công khai v́ thế, phải trong sạch hóa hàng ngũ.
Đảng, lẽ cố nhiên, không chối rằng nhiều phần tử phản động (!)
cũng đă lập được công lao đáng kể. Cho nên ban đặc ân cho những phần
tử ấy được đầu hàng giai cấp. Giai cấp vô sản. Nghĩa là phải tự ḿnh
vô sản hóa, trong một tờ bộc lộ, chối bỏ quá khứ, phủ nhận công lao,
và cam kết về vật chất cũng như về tinh thần, tất cả sẽ trông chờ
vào Giai Cấp (Trung hăy chú ư vào chữ G viết hoa. Từ bây giờ trở đi,
để cho được thật đúng với ư muốn của Cộng Sản, tôi sẽ dùng chữ Giai
Cấp, viết hoa, để chỉ những người đứng trong hàng ngũ cách mạng vô
sản, mỗi khi họ có đủ mọi điều kiện lư thuyết: Không có tài sản vật
chất, không có tài sản tinh thần, sức lao động chỉ phục vụ cho xí
nghiệp hay nông trường của Đảng; và trong tất cả những xúc động tâm
ư chỉ c̣n giữ lại một, là ư chí căm thù , ư chí chiến đấu thường
trực chống trật tự dân chủ).
——————————–
1
Tân Mùi “Yên Bái”: 1931.
2
Người Pháp mở đầu cuộc báo hộ bắc kỳ bằng cách lập ra trường
Hậu bố cho các nho sĩ có khoa bảng. Trường này có hai ban: học giáo
ban th́ ra làm giáo thu, huấn đạo, đốc học, chính ban làm trợ tá,
tri huyện, tri phủ. Có một thời kỳ Pháp cho phép những người “ trót”
theo giáo ban được xin đổi sang chính ban hoặc ngược lại.
3
Bông Lau: giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, trên đường số 4. Sông
Lô: Giữa Tuyên Quang và Việt Tŕ. B́nh Trị Thiên: Quảng B́nh, Quảng
Trị, Thừa Thiên.
4
Hành kháng: Hành chính – kháng chiến; Kháng hành: Kháng chiến
– hành chính. Tùy từng giai đoạn, Việt Minh coi hành chính với kháng
chiến,việc nọ nặng hơn và phải làm trước việc kia.
5
Nhà pha Hỏa Ḷ: Maison Centrale.
Published October 31, 2014 | Posted in Thơ Văn
ING.683
Tôi hy vọng Trung đă thấy rơ sự chuyển hướng trong chính sách,
trong chiến lược Cộng Sản th́ đúng hơn. Chiến lược ấy, tọi đă nói
với Trung có hai giai đoạn đă hoàn thành, với giai đoạn thứ ba đương
ở trong thời kỳ xây dựng.
Hai giai đoạn đă hoàn thành giống nhau ở nhiều điểm: Vẫn quần
chúng bị mê hoặc, bị huy động, bị nắm vững, bởi những người tiểu tư
sản, những tay sai của một số lănh tụ bôn-sơ-vích vẫn tưởng tượng
ḿnh chí anh dũng biến thân cho Độc lập và cho kháng chiến. Độc lập,
trên lư thuyết đă thực hiện được ngày mồng hai tháng Chín, bảy năm
trước. C̣n kháng chiến, lẽ ra giai đoạn này c̣n dài, v́ chiến cuộc
chưa kết thúc, nhưng bắt đầu từ năm ngoái, bọn lănh tụ bôn-sơ-vích
đă quyết định biến đổi cuộc chiến đấu tay đôi giữa tiểu tư sản với
Pháp thành nhiều cuộc chiến đấu khác phức tạp hơn. Đó là, kể về tầm
quan trọng, đối với lư thuyết chủ nghĩa của họ, các cuộc chiến đấu
giữa người bôn-sơ-vích với người tiểu tư sản, giữa hai khối Cộng Sản
và Dân chủ tư sản, sau nữa mới đến cuộc chiến đấu giữa người Việt và
người Pháp.
Người Việt và người Pháp giết nhau ngoài mặt trận từ bảy, tám
năm trời nay rồi. Số người chết và bị thương, nếu chưa tới, cũng gần
tới trăm vạn. Cho nên, đối với toàn dân, cuộc chiến đấu chống Pháp
cố nhiên phải được kể là quan trọng nhất, bởi nó liên hệ đến nhiều
người và đem lại nền độc lập cho tổ quốc.
Sau đến cuộc chiến đấu giữa hai khối chính trị, người ta biết
khối nào thắng sẽ làm chủ hoàn cầu, nhưng viễn tượng ấy c̣n xa xôi
lắm! Sau nữa mới đến cuộc chiến đấu giữa bôn-sơ-vích và tiểu tư sản,
thật ra không mấy ai đă biết là có, c̣n nói ǵ đến đánh giá cho được
thật đúng, rằng bây giờ chính là lúc người bôn-sơ-vích quyết tâm
tiêu diệt “ ư thức” tiểu tư sản yếu đuối chia rẽ, lưng chừng, cầu an
và cơ hội. Để chiếm lấy độc quyền kháng chiến, để, tùy ư muốn và tùy
sự đ̣i hỏi của hoàn cảnh, có thể bất cứ lúc nào cũng biến đổi cuộc
kháng chiến chống Pháp giành độc lập thành một cuộc chiến đấu to tát
giữa hai khối chính trị (cuộc chiến đấu, như thế, sẽ có hiệu quả là
bắt nước Mỹ phải tham dự chống nhau với Trung hoa Cộng Sản, nghĩa là
cầm chân Mỹ, d́m Mỹ xuống ngang hàng với Trung hoa Cộng Sản và mặc
nhiên nâng Liên –Sô lên bậc lănh tụ thế giới. Nhưng đây chỉ là một
giả thuyết nặng về tính chất quốc tế, nó vượt ra ngoài phạm vi lịch
sử Việt Nam, ra ngoài lănh vực chủ quan của tâm sự của tôi đem giải
tỏ với Trung)
Tôi muốn chứng minh rằng người bô-sơ-vích, từ năm ngoái, đă tự
đặt cho họ một nhiệm vụ rơ rệt, nhiệm vụ nặng nề và to lớn nhất
trong lịch sử Đảng của họ. Nhiệm vụ ấy là gạt hẳn người tiểu tư sản
ra ngoài lề chiến cuộc, là tiêu diệt tiểu tư sản, là giáo dục (đào
tạo) lấy một loại người mới thay cho loại người bị tiêu diệt, là nắm
vững loại người mới này để nhanh chóng hoàn thành Cách Mạng Vô Sản.
mặc dầu sẽ có những biến cố có thể làm cho cục diện kháng chiến phải
thay đổi bất lợi: Cách mạng phải thành công đă, c̣n kháng chiến có
thể nhất thời thất bại, người bôn-sơ-vích không bao giờ lấy hai chữ
Độc Lập làm quan hệ, ít ra là cho riêng họ!
Họ không thiết tha ǵ với một nền độc lập quốc gia, bởi ngay
trong lư thuyết chủ nghĩa họ, độc lập chỉ là một hiện tượng rất
tương đối. Họ vốn dĩ đă chấp nhận nền độc lập của một nước nhỏ nằm
trong nền độc lập của một nước lớn hơn. Họ có thể vui sướng với nước
Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp, hoặc giả chia với Pháp mỗi
bên một nửa sơn hà. Miễn là họ thực hiện được Cách Mạng Vô sản thành
công, nghĩa là đem chủ nghĩa bôn-sơ-vích thi hành triệt để trong một
khoảnh đất, trên một số dân chúng. Một chiến sĩ Cách mạng bao giờ
cũng tha thiết với sự thực hiện cụ thể được lư tưởng của ḿnh. Hơn
nữa, chiến thuật xây dựng căn cứ mạnh mẽ, làm xuất phát điểm cho
chiến thuật “vết dầu loang”, cũng là một lư do không kép phần hệ
trọng trong sự quyết định về giai đoạn chiến lược thứ ba của người
bô-sơ-vích.
Vậy th́, trong giai đoạn Ba của chiến lược, và để thực hiện
Cách Mạng Vô Sản, người bôn-sơ-vích phải lấy sự tiêu diệt tiểu tư
sản làm nhiệm vụ quan hệ nhất trong những nhiệm vụ của họ, bắt đầu
từ năm ngoái.
Nhưng biết thế, Trung sẽ có một điều không hiểu, Trung sẽ thấy
cần phải hỏi lại rằng v́ sao, muốn thực hiện Cách mạng Vô sản, người
bôn-sơ-vích phải tiêu diệt tiểu tư sản, để phải làm thêm một việc là
giáo dục lấy một loại người mới thay thế Tiểu Tư Sản -loại người ấy
là những ai, có ǵ khác người cũ và có ích lợi đặc biệt ǵ cho cách
mạng?
Tôi trả lời Trung, điều thứ nhất: Mặc dầu các phần tử tiểu tư
sản vẫn trung thành với kháng chiến tức là gián tiếp trung thành với
lănh tụ bolshevik, sự gạt hẳn những phần tử ấy ra ngoài lề cuộc
kháng chiến có bốn lư do. Một là sau sáu năm ở cương vị lănh tụ, nhờ
sự dốc ḷng ngay thẳng của cán bộ tiểu tư sản và nhờ một công cuộc
tuyên truyền cực kỳ khôn khéo, các lănh tụ bolshevik –Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, vvv… đă nhận thấy uy
tín của họ đă đủ để cho họ có thể trực tiếp nắm vững được dân chúng
mà không cần phải có công tác trung gian tiểu tư sản. Hai là từ 1950
Trung Hoa Cộng Sản đă tiến tới biên thùy Bắc Việt, lănh tụ bolshevik
không c̣n thấy cần dùng tiểu tư sản làm b́nh phong dân chủ cho một
thứ chính quyền Cộng Sản. Ba là tính chất Cộng Sản của họ càng ngày
càng rơ rệt, họ tất nhiên phải chờ đợi sự phản đối, hoặc công khai,
hoặc ngấm ngầm, của cán bộ tiểu tư sản. Họ lại biết không hy vọng ǵ
thuyết phục được cán bộ tiểu tư sản cho bọn này chịu “ vô sản hóa “,
nhất là đối với những thành phần trí thức vốn vẫn có một căn bản
vững chắc về t́nh cảm và tư tưởng. Bốn là cán bộ tiểu tư sản càng đi
sâu vào kháng chiến càng gây thêm uy tín trong dân chúng. Nếu bọn
lănh tụ c̣n để cho t́nh trạng ấy kéo dài, th́ thế tất phải có những
cán bộ, bằng công lao, bằng tài năng và đạo đức, sẽ vượt tới chỗ
được dân chúng mặc nhiên suy tôn làm lănh tụ. Sự tai hại lúc đó sẽ
không nhỏ.
Nói tóm lại, lănh tụ bolshevik phải gạt cán bộ tiểu tư sản ra
ngoài lề cuộc kháng chiến và tiêu diệt họ, v́ tiểu tư sản đă trở nên
vô ích trong hai nhiệm vụ tay sai và b́nh phong. Tiểu tư sản mang
sẵn tính chất chống vô sản hóa. Tiểu tư sản sẽ trở nên nguy hiểm.
Người bonshevik vốn đă hay dùng một phương pháp xảo quyệt nhằm
làm cho tiều tư sàn mất tự tin: Hằng ngày họ cho cán bộ tiểu tư sản
học tập rằng “ư thức” tiểu tư sản bao giờ cũng đớn hèn, hoài nghi,
chia rẽ…và cán bộ tiểu tư sản nếu đă chứng tỏ có nhiều đức tính:
Quyết tâm, anh dũng, trung kiên… ấy là nhờ có sự học tập đạo đức
bolshevik. Người bolshevik không ngớt lời thóa mạ tiểu tư sản. Nhưng
đó chỉ là những điều gian dối : họ biết rằng trước khi có thứ chủ
nghĩa bolshevik của họ, người tiểu tư sản đă nhiều lần gan dạ, bền
bỉ, tài giỏi trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khác. Họ
biết thế cho nên họ đă trông thấy cả một đẳng cấp sĩ phu tiểu tư sản
lănh đạo dân chúng chống lại âm mưu thực hiện “Cách Mạng Vô Sản” của
họ. Họ đành phải nhổ cỏ nhổ cả rễ, tiêu diệt toàn bộ cái ư thức tiểu
tư sản mà thực ra họ gờm sợ hơn cả Đế Quốc (bởi tiểu tư sàn đă đông
đúc th́ chớ lại gần gũi họ khá lâu, đủ để biết những nhược điểm của
họ,để tấn công, cùng những ưu điểm của họ để học tập !).
Người bolshevik như vậy đă lâm vào thế cờ phải tiêu diệt ngay
số cán bộ đă nắm vững được t́nh thế trong bảy năm. Cán bộ càng có
công lớn càng nhiều bất măn; cán bộ càng có uy tín càng nguy hiểm;
bọn lănh tụ bolshevik đă khởi đầu trận tấn công tiêu diệt của họ
nhằm ngay vào những cán bộ, mới trước đây ít lâu được chính họ tặng
cho danh hiệu quư giá: “Anh hùng dân tộc”.
Làm thế nào để tiêu diệt được những vị anh hùng của dân tộc?
Ám sát, thủ tiêu bí mật hay giam vào ngục tối?
Lẽ cố nhiên không thể được. Người ta có thể ám sát được một
vài người, thủ tiêu được dăm ba chục người trong bí mật hay đem đày
năm bảy chục người vào ngục tối. Người ta không thề nhất đán thủ
tiêu hay giam giữ tất cả những cán bộ “anh hùng dân tộc”, người ta
phải sợ toàn dân công phẫn.
Người ta đă nghĩ, trong không biết bao nhiêu lâu rồi mới thi
hành một thủ đoạn thực sự : “long trời, lở đất “(1). Người ta đă
giết, giết công khai những anh hùng Sông Lô như Quảng, những bí mật
mặt trận Khu như Nhiễu và giam cầm hàng vạn người như bạn Trung,
giữa tiếng reo ḥ của dân chúng.
Giết chóc, giam giữ công khai những cán bộ có công kháng chiến
mà dân chúng vui ḷng ?- Không những vui ḷng ? v́ dân chúng vừa reo
ḥ vừa giết, vừa xử những án khổ sai dài bằng cả một đời người !
(1): Chữ của Hồ chí Minh
Thân ái Trung,
Trung sẽ không bao giờ tưởng tượng được người bôn-sơ-vích làm
thế nào để mượn tay dân chúng giải quyết mối tử thù chính trị.
Trung, khó ḷng theo kịp được ngay đến con đường lư luận, tổ chức
của người bôn-sơ-vích, mượn tay dân chúng giết được hàng vạn người.
Họ viết:
– “Trong hàng ngũ Đảng, có những phần tử cực kỳ nguy hiểm, cực
kỳ ngoan cố. Những phần tử ấy liên kết với thực dân, đế quốc và
phong kiến. Những phần tử ấy lộn ṣng vào Đảng, khôn ngoan mua chuộc
và quỷ quyệt lừa dối nhân dân ta, bằng cách giả vờ nhiệt liệt tham
gia kháng chiến. Bọn chúng thông đồng với quân địch, tạo ra những
công lao bên ngoài, để ngụy trang ư định thao túng Đảng và khống chế
nhân dân ta.
Nhưng bọn chúng không thể lọt qua con mắt sáng suốt của Đảng,
cho nên Đảng phóng tay phát động phong trào quần chúng đấu tranh
chính trị để giáo dục nhân dân ta tận lực tiêu diệt bọn chúng.
Bọn chúng là tay sai của thực dân, đế quốc. Bọn chúng là phong
kiến phản động, là tư bản bọc lột, là cường hào ác bá, là Việt gian
phản quốc. Bọn chúng ngoan cố, nham hiểm, hiện nay đương náu ḿnh
dưới những chiêu bài kháng chiến giành độc lập , với mục đích dắt
nhân dân ta trở lại cho thực dân, đế quốc đàn áp và bóc lột một lần
nữa.
Nhưng bọn chúng không lọt qua con mắt sáng suốt của Đảng. Cho
nên ngày nay Đảng giáo dục nhân dân ta phương pháp để lột mặt nạ bọn
phản bội ấy. Nhân dân ta, tin tưởng vào Đảng, nhất định tích cực đấu
tranh chính trị để tiêu diệt bọn chúng đến cội rễ, để trong sạch hóa
hàng ngũ Đảng và trong sạch hóa hàng ngũ nhân dân.
Bọn chúng đă cướp của giết người! Bọn chúng là kẻ thù của nhân
dân.
Nhân dân ta bắt chúng nợ của phải trả của, nợ máu phải trả
máu!”
Đó đại khái là lời của những người bôn-sơ-vích, giả làm của
dân chúng, gửi cho dân chúng. Thoạt bề ngoài, Trung dễ nhầm lời hiệu
triệu vu vơ này với những lời hiệu triệu khác, kêu gọi dân chúng
phải đề cao cảnh giác và tích cực kháng chiến.
Nhưng bề trong th́ khác. Khác bởi tổ chức. Tổ chức đến từng
thôn xóm nhỏ, đến từng cơ quan, đơn vị nhỏ. Tổ chức phóng tay phát
động phong trào quần chúng đấu tranh tô tức, đấu tranh chính trị,
gọi tắt là “Đấu”.
“Đấu” có ba thời kỳ. Chuẩn bị, thực hiện và đặt lại cơ sở cho
Cách Mạng (Vô Sản).
Chuẩn bị có hai đợt: T́m kẻ thù cho nhân dân, giáo dục cho
nhân dân biết căm giận kẻ thù ấy. Kẻ thù ấy đă là những cán bộ tiểu
tư sản có công kháng chiến rồi, việc c̣n lại là làm thế nào cho dân
chúng xưa nay tin tưởng ai, kính mến ai, th́ bây giờ giở mặt nghi
ngờ, ruồng bỏ, hành hạ, ô nhục người đó. Việc không phải dễ, lănh tụ
bôn-sơ-vích biết lắm. Nhưng có lẽ họ đă t́m thấy một thứ kết quả
đúng tuyệt đối cho bài tính về tương lai, nên trái với chiến thuật
khéo léo, nước đôi của họ xưa nay, lần này họ tỏ ra có thái độ quyết
liệt, quyết thắng.
Trận tấn công của họ mở ra, công khai, vũ băo. Họ nâng trận
tấn công ấy lên hàng chính sách. Chính sách ruộng đất.
Chính sách ruộng đất nhằm trả ruộng đất cho người cày. Định
nghĩa nghe vừa ḥa b́nh, vừa nhân đạo. Lại thêm là công lư nông dân
hằng chờ đợi từ khi có thửa ruộng, con trâu và cái cày.
Nhưng chính sách ruộng đất mở màn cho cuộc cải cách ruộng đất.
Cải cách ruộng đất, theo lư thuyết bôn-sơ-vích, là một cuộc Cách
Mạng Nông Thôn. Cách mạng bôn-sơ-vích, theo định nghĩa bôn-sơ-vích,
bao giờ cũng tàn bạo, càng tàn bạo càng thành công.
Cải cách ruộng đất, v́ thế có một phần nhiệm vụ nhằm tiêu diệt
một thành phần xă hội: địa chủ, phong kiến, cường hào. Gọi chung là
giai cấp bóc lột. Bóc lột ai?- bóc lột bần cố nông. Bóc lột ǵ?- Bóc
lột của cải và xương máu.
V́ thế trong cải cách ruộng đất có một phần đ̣i nợ của cải và
đ̣i nợ máu cho bần, cố nông. Bần có nông là những ai?- Là những
người có cày mà không có ruộng. C̣n địa chủ?- Là những người có
ruộng mà không có cày. Có ruộng mà không cày, th́ phải trả ruộng cho
người cày.
Nhưng trả ruộng không thôi không đủ. Phải trả nợ. Nợ tính
ngược về quá khứ. Nợ tính vào đương sự, vào cả thân quyến đương sự,
kể cả con nuôi, con dâu, con rể, người làm công lâu ngày. Tất cả là
địa chủ, tất cả phải trả nợ: tiền bạc, thóc lúa, nhà cửa, trâu ḅ,
dụng cụ nông nghiệp. Và máu. Máu của những người chết v́ bị bóc lột.
Trả ruộng cho người cày, nói tóm lại, là một cuộc cách mạng.
Cách mạng tiêu diệt địa chủ. Địa chủ không được đầu hàng. Địa chủ
nhất định phải “ được” tiêu diệt. Cách mạng phải có máu mới thật là
cách mạng vô sản, mác-xít.
Trung vẫn chưa hiểu được sự liên lạc giữa cách mạng nông thôn,
nhằm tiêu diệt địa chủ, với cán bộ tiểu tư sản trong hàng ngũ kháng
chiến.
Nhưng thật ra con đường không có ǵ quanh co lắm. Bởi muốn bị
đấu, chỉ cần phải có ruộng đất, không kể nhiều ít, miễn là có ruộng,
mà chính ḿnh không cầm đến cái cày. Muốn bị đấu lại không cần phải
chính ḿnh có ruộng đất, v́ cha mẹ, anh em, vợ chồng ḿnh có ruộng
cũng đủ. Hoặc giả, chính ḿnh hưởng thụ, có ăn gạo, là sản phẩm của
ruộng đất.
Bởi thế, trừ những đồng báo suốt đời theo trâu, suốt đời không
làm ǵ khác cày ruộng, c̣n lại bất cứ ai cũng có thể bị chỉ mặt gọi
là địa chủ.
Địa chủ, một Trịnh Xuân Nghĩa hay một Trần Trinh Trạch với
hàng vạn mẫu đồn điền. Địa chủ, một ông Cai tổng hay một ông Nghị xứ
quê, với hàng trăm mẫu thượng đẳng điền. Đă đành là như thế.
Nhưng địa chủ cả đàn con, đàn cháu họ Trịnh, họ Trần. Địa chủ,
những kỹ sư, bác vật được nuôi ăn đi học bằng tiền bạc của cha mẹ.
Địa chủ, bà cụ Cử Vân xa, chỉ có tám sào ruộng để tần tảo nuôi con
cho nên người. Địa chủ: Quảng!
Quảng là địa chủ, mặc dầu Quảng suốt đời không được trực tiếp
giao dịch với bạn điền cấy rẽ của bà cụ Cử tám sào ruộng? – Phải,
Quảng là địa chủ, bởi Quảng có hưởng thụ những sản phẩm do bà cụ Cử
bóc lột bạn điền mà có. C̣n bà cụ Cử, địa chủ bởi có ruộng mà không
cày. Mặc kệ, nếu hàng ngày bà chỉ biết có tụng kinh niệm Phật và
giúp đỡ mọi người.
Vấn đề đặt ra là có hay không có ruộng, có hay không có lao
động, có hay không có hưởng thụ. Trong ba điểm, điểm hưởng thụ coi
là hệ trọng nhất. Bởi thế, nên mới có sự lạ lùng , là những nhà cự
phú, có rất nhiều ruộng , lại dùng tiền bán thóc ở ruộng đi lập một
xí nghiệp, nên có thể nói là hưởng thụ ở ruộng đất cũng được, mà ở
xí nghiệp cũng được: những người này chưa hẳn là địa chủ, không bị
đấu.
Nhưng không có ǵ lạ, v́ họ là đại tư bản. Đại tư bản không có
tên trong danh sách của những kẻ bị tiêu diệt. Chỉ bị tiêu diệt
những tiểu tư sản!
Tiểu tư sản bị tiêu diệt trong tiếng reo kinh khủng của “nhân
dân”. Nhân dân mê loạn trong những cơn phản ứng theo điều kiện, đă
v́ những người bô-sơ-vích mà giết bỏ không biết bao nhiêu anh hùng
tiểu tư sản có công với kháng chiến, có công với tổ quốc.
– Bởi họ là anh hùng của dân tộc, nhưng họ là kẻ thù của nhân
dân, những người tiểu tư sản bóc lột! Người bôn-sơ-vích bảo thế.
Bóc lột là tội nặng nhất có thể có trong lịch sử. Bị bóc lột,
cả một nhân loại đă nghèo đói. Bị bóc lột cả một dân tộc đă yếu hèn.
Bị bóc lột, hai triệu người Việt Nam đă chết đói. Đó là lư luận
bôn-sơ-vích.
Lư luận được tiếp ứng bằng quân đội, bằng những đơn vị đă hoàn
toàn trong sạch của Đảng. Quân đội đưa cán bộ phát động (đấu tranh
chính trị, tô tức) về làng, cán bộ nắm lấy quyền chính. Cán bộ chỉ
định những “địa chủ” đáng ra đem đấu. Cán bộ lựa chọn phần tử “trung
kiên” trong bần cố nông, để dạy sẵn những lời tố khổ. Rồi ở công
trường Đấu, một người lên tố khổ, rồi hai người, ba người… một người
bịa đặt, rồi hai người, ba người… một người đánh đập bị can để thỏa
những uất hận mới có từ chiều hôm trước, rồi hai người, ba người…
Một cơn gió mê cuồng thổi giữa những người dân lành…
Và những người bôn-sơ-vích đă thàng công trong một nhiệm vụ lư
thuyết, là tiêu diệt xong những chướng ngại tiểu tư sản, trên con
đường tiến tới của Cách mạng Marx-Lenine-Staline-Mao Trạch Đông!
Nhiệm vụ lư thuyết thứ hai của họ là giáo dục bẩn, cố nông
thành Giai cấp, dùng Giai cấp làm cơ sở để thực hiện thàng công cuộc
cách mạng Bôn-sơ-vích.
Thân ái trung,
Tôi hận rằng đă sớm bị gọi đến tên, và đă vội lên đường đào
tẩu. Nên câu chuyện tâm t́nh của người bạn kháng chiến của Trung có
đến đây là hết.
Trung hăy tin rằng tôi quả thật hơi ngại ngùng v́ đă viết cho
Trung, trong đoạn sau, quá nhiều lư luận. Tôi đă nghĩ nhiều, và tôi
chân thành tin rằng điều đó không thể tránh được.
Tôi đă nói với Trung một lần, rằng trong tâm t́nh của mỗi đứa
chúng ta phải có chứa đựng một phần nào những dữ kiện sẽ làm nên
lịch sử. Cho nên tôi không thể nào không giăi bày với bạn những ư
nghĩ đă dày ṿ tôi, cùng những ánh sáng tôi đă t́m thấy , trong một
khoảng thời gian của một cuộc đời không thiếu ǵ hy sinh và đau khổ
nhưng cũng không thiếu cả những phút say sưa, mănh liệt.
Tôi đă để lại một phần của đời tôi trong kháng chiến. Kháng
chiến, đối với tôi, không c̣n là những sự việc liên tiếp đến, liên
tiếp đi, và đi là biến mất trong tâm hồn. Kháng chiến, trong tôi, đă
trở nên một sự thật vĩnh viễn, một thứ kết tinh thể chất ở đâu đó
trong tim, óc.
Kháng chiến, đối với bất cứ ai đă ra đi đêm 19 tháng Chạp, dù
để tác chiến hay chỉ để tản cư di cư, cũng vẫn là những ngày gian
khổ chịu đựng. Gian khổ trong những cánh rừng già đầy vắt xanh, vắt
đỏ. Gian khổ ở giữa những cánh đồng bát ngát Liên khu Ba. Người ra
đi, đi đến đâu cũng gặp những nấm mộ không có chân hương cắm trên
đất mới, và những mái đầu tóc tơ của những em bé nhỏ đă vội quấn
ngang vành khăn sô thảm thiết.Giọt khăn trắng, trên nền xanh của cây
rừng, của đồng lúa, là một chứng cớ không thể chối căi rằng, để
giành lại quyền sống độc lập và tự do, bao nhiêu người đă ra đi
không trở lại. Ra đi tay không mà tiểu tư sản. Với một tấm ḷng.
Một tấm ḷng, năm, bảy năm kháng chiến. Một đoạn đời trái với
nếp sống b́nh thường. Kẻ gian dối, người thật thà, kẻ ru rú nơi xó
rừng để đào khoai bới sắn, người phiêu lưu đưa hàng lậu giữa hai
vùng chiến trận, mỗi người cố t́m lấy một nguồn sống tạm bợ. V́ ai
nấy đinh ninh có lúc trở về, khi các đô thị đă vắng hẳn bóng đoàn
quân xâm lược. Một ngày gần. Ngày đó chưa đến kịp.
Th́ kháng chiến không c̣n là kháng chiến nữa. Cuộc tương tàn
trong nội bộ đă bắt đầu, khiến người Pháp (sau này tôi mới biết)
cũng ngỡ ngàng không hiểu. Mà ai làm sao hiểu được thiên thảm sử
viết bằng tim và óc của những người như Quảng, ngoài những kẻ, như
tôi, phải được hiểu bằng cả một tâm hồn tan vỡ.
Cuộc đời của chúng tôi lẽ ra giản dị biết bao. V́ theo kháng
chiến, chúng tôi đă thuận cho hết thảy. Cho đến cả tính mệnh, để cố
giữ lấy một vật không cho được, là tâm hồn. Tâm hồn tôi không bao
giờ xúc phạm đến tâm hồn của bất cứ ai khác. Nên người ta có thể
dùng chúng tôi trong đoàn quân kháng chiến, măi đến khi chúng tôi tử
trận hay cùng với đoàn quân kia toàn thắng. Tử trận th́ một hố đất
nông sâu không kỳ quản, và một lời phân ưu có đâu thiệt tḥi ǵ cho
Giai cấp. C̣n thảng hoặc thành công, chúng tôi có đ̣i ǵ hơn được
sống làm công dân nước Việt Nam độc lập? (42)
Có thế thôi, mà không được. Người bôn-sơ-vích muốn chúng tôi
là hạt bụi, chúng tôi đă là hạt bụi. Những hạt bụi thoi thóp t́nh
cảm. Người bôn-sơ-vích bảo hạt bụi không được có t́nh cảm, bèn rửa
sạch những hạt bụi trong guồng máy. Và thế là xong việc, theo ư họ.
Nhưng có xong việc thật không? Chúng tôi có thật là những hạt
bụi không t́nh cảm không, như ư họ?- Tôi không tin như thế, mặc dầu
chỉ v́ thế mà cuộc đời tôi phải giập găy, tan nát. Tôi bây giờ yếu
mỏi, bệnh tật và cả động một ngón tay cũng đau thắt lại trong ḷng.
Bởi con đường của đời tôi đến chỗ này là ngơ cụt: bên này sông là
Giai cấp không buông tha, bên kia sông là đồn quân của địch. Tôi
phải đi về đâu để được sống?
– Về đâu tiểu tư sản? Những người không bao giờ muốn nghĩ về
chính trị, đă phải nghĩ trong một thời kỳ lịch sử. Phải nghĩ, v́ có
kẻ đột nhiên bảo tiểu tư sản không có lẽ sống, không được sống. Làm
như sống là độc quyền của một chủ nghĩa. Bôn-sơ-vích! Họ là ǵ? Là
những người đă t́m ra lẽ sống, hay những kẻ phản bội lẽ sống, đem lẽ
sống nhốt vào trong công thức chính trị?
Bôn-sơ-vích! Họ là ǵ, hay là những kẻ nắm trong tay một sức
mạnh kinh khủng, v́ mù quáng? Sức mạnh Bôn-sơ-vích, có mấy năm, đă
tràn lan khắp cả. Sức mạnh ấy c̣n đương tiến tới, và tuyên bố sẽ
chiếm trọn cả cuộc đời, cuộc đời chỉ có ăn, ngủ và truyền tiếp ḍng
dơi.
Cuộc đời, cuộc đời thiêng liêng của người tiểu tư sản! Nhưng
lấy ǵ mà giữ, hay vẫn chỉ có tâm hồn, nói rằng cao quư, nhưng chắc
đâu chống lại được sức mạnh mù quáng kia trong một trận tranh đấu
cuối cùng?
Bao giờ đến, trận tranh đấu cuối cùng? Tôi không biết, cả
những người bôn-sơ-vích cũng không thể biết. Nhưng biết làm ǵ, nếu
chúng ta, tiểu tư sản, không t́m thấy lẽ sống. Không có lẽ sống, tâm
hồn dù cho nhiều đến mực nào đi nữa cũng chỉ là lừng chừng, cầu an,
cơ hội, với những thời kỳ bất chợt và ngắn ngủi vùng lên được, chỉ
huy vật chất, chiến thắng được thù nghịch ở ngoài vào, trong những
trận gaio tranh có hạn. Có thế thôi.
C̣n ngày nay, người bôn-sơ-vích ép chúng ta phải chiến đấu,
không kể thời gian, không gian nào hết. Người bôn-sơ-vích không ở
ngoài vào, để cho ta chỉ căm phẫn cũng đủ tạo thành một lực lượng.
Họ trái lại, thu hút được sức mạnh cuồng bạo ngay trong những tâm
hồn đi t́m lẽ sống. Họ mê hoặc những tâm hồn ấy, tách rời những tâm
hồn ấy ra khỏi thể chất, rồi dùng thể chất vô tri làm sức mạnh.
Chao ôi, Trung? Từ mười đêm nay, tôi không sao rứt ra khỏi một
ám ảnh. Đó là một cuộc giết chóc, giữa một bên vô t́nh và một bên
ch́m ngập trong đau xót. Đau xót cho ḿnh, cho loài người, đau xót
c̣n hơn nữa cho những “dụng cụ người” của địch, đă mất đến cả khả
năng thương tiếc ngay lấy bản thân!
Cuộc chiến đấu kinh hoàng giữa người với người mà là đồ vật?
Trung, Trung ơi! Chúng ta phải làm ǵ đây, để tránh cho kiếp người,
cho giống người khỏi trải qua lớp biến thể cuối cùng này?!
Phú Thọ, Vũ lao,
Ngày 30 tháng 12, viết hết
Hải Pḥng ngày 19 tháng 7 năm 1954
Thân ái Trung,
Thấm thoát đă qua ngót hai năm, kể từ ngày tôi gửi những bức
thư trước cho Trung. Thư gửi ở Hà Nội, tôi ở Hà Nội, ở Vĩnh Yên, rồi
xuống Hải Pḥng. Tôi có nhận được thư Trung, nhiều lần an ủi, nâng
đỡ và thử t́m một giải pháp cho vấn đề đặt ra bởi những người
bôn-sơ-vích.
Hai năm, hơn mười lá thư của Trung. Tôi không lần nào trả lồi,
không phải v́ “phù hoa đă đổi ḷng người chiến đấu”, cũng không phải
v́ đă bắt chướt một Trang tử khinh chuyện đời giả dối. Hơn hai năm,
tôi dùng trước hết để kiếm sống một cách vất vả, c̣n những phút họa
hoằn nhàn rỗi lại đọc lại thư Trung, hoặc tự ḿnh t́m lấy ư nghĩa
cho cuộc đời ḿnh sống.
Sự đào xới, càng sâu măi vào trong ḷng, càng chứng tỏ rơ rệt
tâm hồn tôi, nếu đứng một ḿnh, không thể nào làm ra một thứ gương
soi cho thấy được bản thể. Tâm hồn tôi đă dành là một cái ǵ trọn
vẹn tự nó có khả năng độc lập sinh hoạt. Nhưng gần đây, kể từ ngày
cuộc sống chung của dân tộc dâng lên, bừng bừng một sự tranh đấu
mănh liệt, th́ tâm hồn tôi đă ch́m lẩn với biết bao nhiêu tâm hồn
khác, phối hợp với nhau, ḥa vào nhau, mà tạo nên một thứ tâm hồn to
lớn, cho cả một xă hội, cả một con số mấy chục triệu người. Từ lúc
ấy, tôi linh cảm rằng không bao giờ tôi c̣n t́m thấy tâm hồn tôi
riêng rẽ trên con đường lịch sử.
Tôi không thể cứ đào sâu vào ḷng ḿnh mà biết được ḿnh. Sự
sống riêng rẽ vốn, tự bao giờ, không thể có về vật chất. Bây giờ đến
sự sống rung cảm , có những sự phân chia từng nắm, từng mớ, từng
giai cấp. Rung cảm bị sắp xếp vào hàng ngũ. Tôi nghĩ rằng ḿnh muốn
hiểu ḿnh, có lẽ cần phải t́m hiểu trogn một thứ linh hồn giai cấp.
Nhưng tôi phải trả lời Trung trước đă. Về những điều tôi viết
cho Trung c̣n dang dở về hai chữ giai cấp.
Giai cấp-lẽ dĩ nhiên vô sản- sẽ là cơ sở, là tiền phong cho
cách mạng bôn-sơ-vích. Vô sản, như đă tŕnh bày, về cả vật chất lẫn
tinh thần. Trung lấy chữ “vô sản tinh thần” làm lạ, đă hỏi tôi: “
Làm thế nào có vô sản tinh thần cho loại người mới sẽ thay thế tiểu
tư sản làm cơ sở cho Cách mạng, loại người ấy là những ai, và có vô
sản tinh thần rồi th́ lợi ích ǵ đặc biệt cho Cách mạng?”
Nếu tôi nhớ không lầm, đây chính là một điểm thiếu sót trong
bức thư tôi gửi Trung kỳ trước. Sự thiếu sót cố ư, v́ tôi đă kịp
thấy lư luận nhiều quá, không những mệt cho Trung, mà c̣n làm cho
bức thư trở nên thiếu chân thực, v́ có một vẻ tuyên truyền không nên
có giữa bạn bè, dù chỉ là vô t́nh . Tôi không muốn Trung hiểu nhầm
tôi, cho rằng v́ cá nhân bị hắt hủi, nên oán thù và thiên vị, tôi đă
vu cho Việt Minh những ư định họ không có.
Tôi chờ đợi cho qua hẳn một thời kỳ chiến lược. Lúc đó bằng
chứng cụ thể không thiếu, sẽ cho phép tôi viết một bức thư dài khác,
nói với Trung rất nhiều về kỹ thuật “ Cưỡng hiếp tâm lư”, đem áp
dụng vào công cuộc giáo dục một cơ sở vô sản tuyệt đối cho cách mạng
bôn-sơ-vích. Trung chắc chắn đă đọc quyển: “ LE VIOL DE LA FOULE PAR
LA PROPAGADE POLITIQUE” của Tchakhotine, đă biết rơ phương pháp dùng
lời nói và h́nh ảnh dưới mọi h́nh thức và nhắc đi nhắc lại mỗi giờ,
mỗi phút để tràn ngập tâm hồn con người, đuổi hết mọi ư nghĩ ra khỏi
nơi đó, để thay thế bằng những ư nghĩ đă định sẵn từ trước. Trung ở
bên ấy, hẳn c̣n biết hơn tôi về khẩu hiệu: “ DEUTCHLAND UBER
ALLES!”, dán trên mọi góc tường, chiếu trên tất cả các màn ảnh, hô
luôn miệng ngoài đường lộ và trên luồng sóng phát thanh Đức, thậm
chí len lỏi dần dần theo con đường trực giác, cái tư tưởng “ Nước
Đức trên Đồng minh” này có thể trở nên một thứ nguồn sống cho những
người Đức hoài nghi nhất. Trung đă biết thế, vậy chỉ cần biết thêm
rằng ở đây người ta cũng nhắc đi nhắc lại, từ trong phút tâm t́nh,
giờ kiếm tháo, đến buổi hội họp hàng ngàn người ngoài trời, những
khẩu hiệu nhằm đóng danh vào tâm khảm đối tượng một ḷng Tin vào sự
sáng suốt và t́nh thương yêu của Đảng.
Đảng được ḷng tin, tin u mê và say sưa, cũng vẫn chỉ giáo dục
đối tượng với những lời đă ca: của cải riêng tư là hệ lụy của đời
người, biên giới quốc gia là biên giới của những dư đồ thống trị,
t́nh chồng vợ hay cha con nhằm áp bức và bóc lột sức lao động của
người yếu thế, cho đến luân lư hay tôn giáo cũng chỉ cốt giữ vững
một trật tự xă hội có lợi cho phong kiến…. Lời đă cũ, nhưng lần này
giáo dục không c̣n là dạy cho biết, mà dạy cho thành tâm tính con
người. V́ thế có chữ mới: “ vô sản tính”. Vô sản tính cộng thêm tính
tự vệ và căn thù tư bản, quyết tâm đấu tranh tiêu diệt tư bản, sẽ có
một tên mới nữa: “giai cấp tính”.
Giai cấp tính, lẽ cố nhiên, có thể được đem giáo dục cho cán
bộ tiểu tư sản đă đầu hàng. Nhưng không dễ, v́ sao Trung đă biết.
Thành thử chỉ c̣n có những đồng bào công nhân, công nhân thành thị,
công nhân thôn quê. Nhất là đồng bào nông dân, bao nhiêu chất phát
là bấy nhiêu dễ dàng cho giáo dục. Giáo dục ngày nào hoàn thành,
ngày ấy Cách mạng có một cơ sở chiến đấu, gồm những thể xác vô tri
của những người, người mà là đồ vật.
Tôi nhớ đây chính là ư nghĩ làm sao cho tôi kinh hoảng, trong
khi tôi viết thư cho Trung, lần trước. Lúc đó tôi c̣n ở Vũ lao, ngày
nằm trong buồng chị Nhiễu, nín thở. Đêm đến, chừng nào trăng đă lặn,
con đường đồi quanh co lên Quảng nạp đă vắng hẳn bóng người, th́ chị
Nhiễu với tôi lại ra ngồi ngoài hiên. Tôi kể chuyện Quảng. Chị nhắc
lại những ngày trước khi bị đấu, người chồng yêu kính của chị, biết
ḿnh đă bị bao vây và tất phải chết, nên ngày lại ngày mong mỏi hay
người bạn thân về qua, để trối lại một lời phó thác ba đứa con c̣n
dại. Hai người bạn thân ấy, một là tôi, hai là Quảng.
Quảng đă mất, Nhiễu đă mất, cùng đau đớn như nhau, cùng v́ một
lẽ không muốn cho những giọt máu của họ phải ở lại với Việt Minh,
chịu cho Việt Minh nuôi dưỡng và giáo dục. Hai người xa nhau từ lâu
nhưng chắc hẳn đă chung nhau một ư nghĩ. Duy Nhiễu c̣n dặn được vợ,
có gặp bạn hay không, trong thời hạn qua giỗ đầu ḿnh một tháng, tất
phải đưa con về Hà Nội.
Chị Nhiễu với tôi, Trung thừa biết, dù cho chẳng có lời ủy
thác, cũng nhất định phải đưa lũ trẻ về Thành. Chính cũng v́ thế mà
tôi nán lại bên phần mộ Nhiễu, để nhờ người vợ góa của anh thuê một
bạn điền cũ ở Khải Xuân bắt liên lạc với gia đ́nh Quảng. Người bạn
điền ra đi, tôi nh́n theo bước chân hắn, mười phần chắc chín hắn
phóng thẳng đến ủy ban báo cáo. Tôi đă mất hết ḷng tin ở người nông
dân, giữa khi công việc Tố, Đấu của Chính sách Cải cách ruộng đất
được phát huy cực độ.
Nhưng thật may cho chúng tôi là ở đời vẫn c̣n có những người
chung thủy. anh Chắt Hoe, đêm đi ngày ở, vừa làm thuê lấy ăn, vừa
lân la hơn một tháng giời trong vùng Phố Én, Phi đinh, rồi Ẩm
thượng, Ẩm hạ, măi đến Đan Thượng thuộc Yên Bái, mới biết đích xác
tin tức. Gia đ́nh Quảng được một cán bộ đại đội đào ngũ đến báo tin,
đă cùng với anh đó men bờ sông Thao xuôi Hà Nội cuối tháng trước.
Anh Chắt Hoe về đến nhà, bộ quần áo mang trên lưng rách như xơ mướp.
Anh đương lên cơn sốt rét, bàn tay run lẩy bẩy cố lần cổ áo, móc ra
trả chị Nhiễu một mẫu trong chiếc kháng vàng chị c̣n dấu được cho lũ
trẻ.
Tôi đứng trông cái cảnh người bạn điền nghèo khổ, suốt đời
không có đến hy vọng sắm vàng, mà đưa trả lại cho chủ cũ mảnh kim
khí kia-chính là tiền ăn đường và tiền thuê anh đi khó nhọc-, tự
nhiên tôi thấy ḿnh có tội với anh, với tất cả những đồng bào thành
tín nơi thôn dă. Tôi lại trở lại tin tưởng ḷng tin mong manh này là
nguồn an ủi cuối cùng của chúng tôi, trên khu vực trước kia chúng
tôi đă gửi vào một ḷng tin biết bao nhiêu sắt đá. Khu vực kháng
chiến. Chúng tôi không ở lại được, bởi một quá khứ sầu thảm, bởi một
tương lai gian nguy không tha thứ.
Chúng tôi qua sông ngay đêm anh Choắt Hoe về đến nhà. Sự đứng
lên thật gọn gẽ , ngoài hai nấm mồ để lại, chúng tôi ra đi mỗi người
có hành lư là một cái túi nhỏ đựng hai bát gạo rang, so với ngày tản
cư có phần c̣n nghèo hơn nữa. Anh Choắt Hoe thấy t́nh cảnh chúng tôi
cơ cực quá, cầm ḷng không đậu, bỏ chạy vội về nhà lấy dúi vào tay
chị Nhiễu mấy tờ giấy bạc c̣n nguyên nếp. Anh lại đưa cho tôi mươi
quả quít hôi, một vốc muối. Tự nguyện đưa chúng tôi lần đường ṃn ra
một xóm vắng bên sông, anh để chúng tôi ở xa, một ḿnh lội xuống
nước, men đến bến trộm thuyền chở cả bọn trót lọt sang Cẩm Khê.
Rồi anh trở lại. Chúng tôi chào và cám ơn anh. Anh đứng lặng
một chốc, đoạn ôm chầm lấy thằng cháu Chân phương ̣a lên khóc. Anh
đă nhiều tuổi, tiếng anh khóc là một cái ǵ rạn vỡ, là một cái ǵ
cực kỳ thê thảm. Nhưng lạ thay, cũng là một cái ǵ cởi mở, một cái
ǵ hàn gắn tương lai vào quá khứ, trong những cuộc đời đă bị ṿ xé
tan tành.
Sau cùng anh Chắt Hoe nuốt nước mắt, chắp tay vái chị Nhiễu:
– Mợ cho các anh bé, chị bé xuôi b́nh yên. Phần mộ cậu đă có
con…
Nói dứt lời, anh quay ḿnh chạy xuống thuyền, đẩy một sào thật
mạnh. Thuyền đă ra đến giữa sông, chúng tôi cũng đă vào đến ven
rừng, duy tôi nghe tiếng lá cây xào xạc vẫn tưởng như c̣n nghe thấy,
lẫn với tiếng gió heo may vi vút, tiếng khóc kỳ lạ, đột ngột của
người bạn điền đă quá bốn mươi tuổi.
Tôi cho là không cần phải hỏi cũng biết chắc anh Nhiễu, hay
chị Nhiễu, thế nào cũng có lần, đối với anh Chắt Hoe, có một thứ ân
cứu tử. Nhưng không phải. Anh Nhiễu mới lên ở trên đồn điền có dăm
năm nay, c̣n trước kia vẫn giao công việc thu, phát cho quản lư. Anh
Chắt Hoe chỉ thương chúng tôi là những con người cơ khổ, oan ức,
những đứa con côi, người đàn bà góa trẻ, anh “bộ đội” yếu đuối, bệnh
nạn, trốn tránh.
Ḷng thương người hồn nhiên, sự hy sinh giản dị của anh Chắt
Hoe đă thổi cho lại cháy trong tim, trong óc tôi ngọn lửa của hy
vọng. Ngọn lửa nó giúp cho tôi sức chịu đựng gian khổ và tinh thần
lo toan sáng suốt trên con đường đưa vợ, con Nhiễu về Nghĩa lộ.
Nghĩa lộ tuy là cả một vùng rộng lớn do quân đội Pháp chiếm
đóng, nhưng bên ngoài Nghĩa lộ vẫn có cả một hàng rào quân kháng
chiến. Tôi nói: một hàng rào quân kháng chiến, v́ tôi không thể đành
ḷng gọi những người bạn đồng ngũ của tôi mấy bữa trước là Cộng Sản,
là Bôn-sơ-vích. Mặc dầu, vào lúc đó, họ chắc chắn đă nhận được lệnh
truy nă một tên cán bộ đào ngũ, phản động. Mặc dầu họ gặp tôi nhất
định sẽ bắt , hoặc nếu chạy th́ bắn. Họ không thể biết. Họ có lẽ
cũng đă có một vài cấp chỉ huy đă bị đấu, một vài cấp chỉ huy đă đào
ngũ trong trường hợp của tôi. Nhưng họ ở đơn vị khác, họ bị bưng bít
về tin tức ở những đơn vị bạn. Họ lại ở mặt trận. Đối với họ, tôi
chỉ là một cấp bộ hèn mạt đă đào ngũ, bây giờ lại định len lỏi về
theo Pháp. Đối với chị Nhiễu, với lũ nhỏ, họ cũng không thương tiếc
ǵ hơn, bởi về với Pháp bao giờ cũng là phản bội
Con đường đi Nghĩa lộ, tôi tuy đă thuộc gần hết các lối ṃn mà
vẫn không ngớt phập phồng lo sợ.Nông nỗi hiểm nghèo là quân kháng
chiến hàng ngày di động, chúng tôi có thể bị họ bắt gặp ngay giữa
đường. Sau đến vị trí của Pháp không biết đích, cùng sự vơ vẩn vào
các bản t́m tiếp tế, có thể gặp ban Tề, nhưng cũng có thể gặp ủy ban
cứu quốc.
Đau khổ hơn nữa là sự có mặt của ba đứa trẻ. Đứa lớn, con Dao
Chi, lên 7 tuổi tuy chưa đủ 6 năm, ngày hôm đầu c̣n đi được một
ḿnh, nhưng từ hôm sau vừa mỏi vừa bị vắt cắn, gai đâm và vấp ngă
sái chân, cả ngày chỉ đi được chừng năm cậy số. Đứa thứ hai lên 5,
thằng Chân Phương, phải dắt tay mới được quăng đi, quăng nghĩ. C̣n
chị Nhiễu với tôi chuyền tay nhau bế em Thục Nguyên của chúng, 3
tuổi. Chị Nhiễu tuy mấy năm nay đă quen lam lũ, nhưng vốn mảnh
người, yếu sức, nên sang ngày thứ ba, những lúc phải bế con nặng,
chị không kêu mỏi mà giữa mùa rét, lại đi trong khe rừng gió hút,
tôi thấy chị đổ mồ hôi có giọt, trong khi da mặt chị biến sang màu
xanh nhợt nhạt.
Tôi biết sự cố gắng của chị Nhiễu. Chị có thể gục ngă trong xó
rừng âm u này, nhưng con chị… Chị phải cố. Nhưng tôi biết sức người
có hạn. Đành hôm sau phải bỏ nửa ngày cắt dây nâu tết quang gánh,
gánh hai đứa nhỏ đi lên trước một đỗi đường rồi t́m chỗ kín đáo treo
cả quang lẫn cháu lên cành cây, c̣n ḿnh trở lại cơng con cháu Dao
Chi và dắt, và đỡ chị Nhiễu bước lên.
Chúng tôi lần bước như thế tám ngày, ngày đi liều, đêm ngủ
trên vơng bằng những dây leo buộc túm lại. Tám ngày không gặp một
đội viên kháng chiến nào. Tám đêm không bị rắn, rết, chỉ bị muỗi đốt
mấy đứa nhỏ sưng húp cả mặt. Buổi chiều ngày thứ tám tôi buộc cái
yếm lụa của chị Nhiễu vào đầu gậy đến xin hàng ở đồn Nậm Vải 1.
Chỉ huy Đồn Nậm Vải là trung úy De Lavernett, cháu bảy đời của
danh tướng De la Tour d’Auverrgne thời Cách mạng Pháp. Ông tiếp đón
chúng tôi với tất cả từ tâm, tất cả lịch sự của một người Pháp quư
phái. Rồi sau khi để chúng tôi nghĩ yên một tuần lễ, sau khi chữa
cho lũ trẻ khỏi những vết thương băng rừng, trung úy De Lavernett
đánh điện về Nghĩa lộ xin máy trực thăng đến đón chị Nhiễu với ba
đứa trẻ. C̣n tôi ở lại làm một thứ tù binh thượng khách của ông được
chưa đầy hai tháng, th́ ông trúng ḿn, tử trận. Tôi bị đưa về Hà
Nội, giam trong “ Trại Mười Ba”2 mười bảy ngày, tới ngày thứ mười
tám có một bức điện tử Pháp đánh về Bộ tư lệnh Khu vực Hành quân Bắc
Việt, xin trả tôi về tự do.
Bức điện ấy của ai, tôi không biết. V́ người biết là Trung,
th́ Trung giả vờ quên không nói đến. Tôi đă nhiều lần cám ơn Trung
nhưng vẫn chưa đủ. Bởi vậy, một lần này nữa, tôi nhắc lại Trung hăy
tin vào t́nh bằng hữa thủy chung tận tụy của tôi. Vĩnh viễn.
Trung hăy tin rằng những việc làm và tiếng khóc hồn nhiên của
anh Chắt Hoe, sự hiểu biết và tính cương trực của quá cố trung úy De
Lavernett, và sau hết, t́nh tương trợ tức khắc của Trung đă vượt qua
bao nhiêu cửa ải để cho tôi có được bức điện quư giá kia, chính bấy
nhiêu sự việc, bấy nhiêu hy sinh, đă cứu tôi thoát hẳn được cơn ám
ảnh kinh khủng về một cuộc chiến đấu giữa người với người mà là đồ
vật…
Cuộc chiến đấu thương tâm, nhất là v́ trong số đồ-vật người
kia có thể có những người bạn thân khác của tôi, những anh em con
cháu, họ hàng tôi. Có những cánh tay sẽ cầm dao đâm vào ngực tôi,
những cánh tay trong đó chảy cùng với cánh tay tôi một gịng máu!
Thật là một cơn ác mộng. Nếu không có Trung, nếu tôi c̣n bị giam giữ
lâu ngày, tôi e rằng khó mà khỏi lên cơn điên, cấu, xé…
(1) : Nậm Vài : tiếng thiểu số Thái : con trâu, con ḅ
(2) : thường gọi là Trại “Nhà Tiền”
Thân ái Trung,
Thế mà ngót hai năm cũng qua rồi. Tôi ra khỏi trại giam, bị
kích thích nặng quá trong thần kinh hệ nên phải nghĩ yên đến hơn một
tháng, suốt ngày không ra đường, không rời quyển sách hay tờ báo.
Tôi đọc ngấu nghiến những tài liệu về khoa học, về cuộc chiến tranh
thế giới vừa qua, về trận Mao Trạch Đông chiếm đại lục, về vụ xung
đột Nam, Bắc Hàn. Một số báo Pháp của người anh rể, tŕnh bày hoặc
khách quan, hoặc chủ quan, đủ mọi lập trường của mọi nhóm người Pháp
về cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Tôi nhận thấy mới hai năm nay, ở
trong này người ta mới tỉnh ngộ mà hiểu rằng, chiến trận từ Lạng Sơn
xuống Cà Mau, thật ra chỉ là một bộ phận “ nóng” của cuộc tương
tranh “lạnh” giữa hai khối Dân chủ và Bôn-sơ-vích. Cũng như ở Nam,
Bắc Hàn, mặc dầu con số người chết và bị thương phần nhiều là người
Hàn, mặc dầu nhà đổ, làng cháy, cầu găy, đê vỡ, chỉ là những tai nạn
riêng cho người Hàn.
Người Bô-sơ-vích thật sự, nghĩa là người Liên Xô, nếu có cũng
chỉ có mấy tay cố vấn kếch xù náu kín trong trung tâm khu chiến. Thế
mà hàng chục người Việt, hay người Hàn, đă chết chính bởi họ, v́ họ.
Tôi thấp thoáng có ư nghĩ: Không cứ đội viên chiến đấu mới là đồ
vật, bởi Hồ Chí Minh hay Kim Nhật Thành nào có hơn ǵ!
Tôi nghĩ thế, và thấy ḷng se lại. Cả cái khối Bôn-sơ-vích
khổng lồ cũng chỉ là một thứ đồ vật trong bàn tay sử dụng của điện
Kremlin, mặc dầu Staline đă chết, Staline hay Malenkov, thật chẳng
khác ǵ Bác Sĩ Moreau. Trung có nhớ phim “Ḥn Đảo Của Bác Sĩ Moreau”
không? Phim tả nhà bác học có tham vọng hoàn cái cho giống vật thành
giống người, nhưng thất bại, v́ giống vật có h́nh người mà không có
ḷng người. Cuối phim, h́nh ảnh đàn vật-người tiến lên đập phá, giết
bác sĩ Moreau, và gầm thét: “chúng ta không là người, chúng ta không
là vật, chúng ta bây giờ là đồ vật!”. Bác Sĩ Moreau, nét mặt thường
ngày nham hiểm của kẻ mưu toan gây dựng một sức mạnh kinh khủng bằng
loại vật-người-đồ-vật, đến cuối phim, trước cơn giông tố của sức
mạnh mù ḷa, Bác Sĩ Moreau đă khiếp sợ thế nào!
Tôi không sao quên được nét mặt của Bác Sĩ Moreau. Tôi nghĩ
đến Staline hay Malenkov. Họ đang thí nghiệm ngược lại với Bác Sĩ
Moreau, giống người sắp thành đồ vật sẽ đối xử với họ ra sao? Sẽ
tuân lệnh hay lại nhảy lên bíu vào cổ, cắn ngập răng vào mạch
jugulaire? 1
Thật khó mà biết trước được. Duy hiện nay thực tại bắt buộc
chúng ta công nhận họ, cũng như Bác Sĩ Moreau, vẫn c̣n ở trong thời
kỳ thử thách. Trước khi thành công hay thất bại hẳn hoi, họ hiện có,
ở một vài nơi, những sức mạnh đáng ghê sợ. Một trong những nơi ấy là
đất Việt Nam này.
Thế mà, để chống sức mạnh ghê sợ ấy, người ta lại chỉ có một
lực lượng phức tạp, hỗn hoạn, mâu thuẫn trong nội bộ phát hiện hằng
ngày, và ở tất cả mọi cấp bực. Một lực lượng quốc gia, nói là để
chống Cộng Sản từ hai năm nay. Nhưng trước khi nghĩ đến chống Cộng
Sản hăy chống nhau ngay trong hàng ngũ. Người Pháp chống người Pháp,
người Pháp chống người Việt, người Việt chống người Việt.
Mà tôi có nói ngoa không Trung?- Không chứ! Bởi có thiếu ǵ
Cộng Sản Pháp trong hàng ngũ đoàn quân viễn chinh? Có thiếu ǵ Cộng
Sản Pháp ngay trong một chính phủ chủ trương xâm lược? Thành thử
đánh vẫn đánh, vẫn lại có kẻ đem cả toàn bộ kế hoạch của bộ Tổng Tư
Lệnh giao cho Cộng Sản, vẫn lại có kẻ hàng ngày viết báo đ̣i phải
trả ngay đất nước cho Hồ Chí Minh! Ấy là chưa kể, trong mặt trận chủ
ḥa, c̣n có những phần tử xă hội, muốn ḥa nhưng lại muốn điều đ́nh
giữ lại một phần nào quyền lợi của thống trị.
Ngược với chủ ḥa là chủ chiến: Những tay chống Cộng Sản v́ có
những tài sản kếch xù, những phần tử thực dân lạc hậu nhưng cực đoan
với một số ít người chống Cộng Sản v́ chủ nghĩa cùng tất cả những
thành phần tôn giáo chân thực. Thành ra khối chủ chiến lại c̣n phức
tạp hơn nữa: Phe thực dân muốn dùng Nguyễn Vĩnh Thụy cùng những đảng
vô hại, với những lănh tụ vô hại (vô hại cho họ, v́ lúc …
1: Phim “ L’Ile du Docteur Moreau” công chiếu khoảng
1936-1937: tài tử Charles Laughton đóng vai bác sĩ, Dorothy Lamour
đóng vai con báo mới hóa người
…. nào cũng sẵn sàng kư vào mộ hiệp ước Patenotre thứ hai!),
trong khi ấy những nhà lư thuyết sáng suốt đề nghị trả cho Việt Nam
nền độc lập thực sự, và các bậc lănh đạo tôn giáo đi t́m một người
đạo đức.
Sự lủng củng trong nội bộ người Pháp đă như thế, sự lủng củng
trong nội bộ một số đảng phái Việt Nam cũng chẳng kém ǵ. Ở cương vị
có đôi chút lực lượng, đáng lẽ phải hiệp tác để chống lại kẻ thù
chung, và bằng thái độ ấy, bắt người Pháp phải kiêng nể, th́ trước
hết các đảng phái hăy chống nhau cái đă. Họ viện lẽ có đảng đi với
Pháp, có đảng chống Pháp, có đảng chống cả hai bên, nói là để dồn
cho họ đánh nhau cho chán, khi nào cả hai bên cùng quy, lúc đó sẽ an
nhiên hưởng thụ. Nghĩa là mỗi đảng một chủ trương, một chính sách,
đảng nào có vẻ “hiền lành” nhất, một vài lần được Pháp cho “thử” giữ
một chút quyền binh, th́ việc đầu tiên lên cầm quyền là đi lùng bắt
cán bộ đảng đối lập – chưa phải là cán bộ Cộng Sản-để bỏ tù. Việc
thứ hai là mỗi lănh tụ chuyển ngay sang Ba-Lê một vài triệu, một vài
chục triệu, tùy theo khả năng. Thảng hoặc cố gắng gượng tổ chức lấy
một cơ sở tương đối có uy tín th́ bị ngay Cộng Sản dùng kế ly gián:
Một trái lựu đạn nổ, vài ông “quan to’” về trời, và tổ chức bị giải
tán, cấp bộ chỉ huy lại cũng vào tù!
Đảng phái đến như vậy thật là nát bét. Một vài đảng rút vào bí
mật, cố giữ lấy một chút tín nhiệm đă gây dựng được trong giới trí
thức. Nhưng giới trí thức lại yếu đuối, mệt mỏi, hoài nghi hơn bao
giờ hết. Họ, một số biết người, biết ḿnh-biết ḿnh không có sức
mạnh-nên phó mặc việc đời, cứ chùm chăn cho kỹ. Một số khác không
đành ḷng chờ đợi bị tiêu diệt, nhưng khôn ngoan không làm chính
trị, chỉ gia nhập đề phục vụ những tổ chức xă hội, nhằm mục đích làm
nhẹ bớt một phần những vết thương do chiến tranh. Một số thứ ba, may
là rất nhỏ, theo “mặt trận Bảo Đại” đi làm giàu, sa đọa.
Trong khi ấy, dân chúng, dân chúng anh dũng, bị bỏ rơi hoàn
toàn về tinh thần. Ngoại trừ một số loa phóng thanh hàng ngày đi hô
những khẩu hiệu này lừa bằng giọng nói nhạt nhẽo, th́ sách báo của
tư nhân không làm nên được một chút công trạng nào trong nhiệm vụ
giáo dục quần chúng. Quần chúng không hề biết những sự thay đổi đă
đến trong hàng ngũ Cộng Sản, nên vẫn hồn nhiên coi rằng danh từ
“Cộng Sản” chỉ là một sự vu vạ khổng lồ cho kháng chiến, và càng
ngày càng cảm mến kháng chiến hơn lên. Thậm chí, trong năm 1953, tôi
có thể nói không sợ mang tiếng ngoa ngoắt với Trung rằng dân
chúng-lẽ cố nhiên, trừ những người đă có dịp mắt thấy tai nghe-, dân
chúng ngă về kháng chiến, ủng hộ kháng chiến, đến nỗi cán bộ kháng
chiến ra vào Hà Nội như vào một thị trấn không người. Một chứng cớ
bằng suy luận: mấy năm nay, ở Hà Nội không có mộ vụ ám sát hay bắt
cóc nào, và đó là triệu chứng rằng kháng chiến đă rất mạnh.
Sức mạnh của Cộng Sản, tôi đă nói nhiều lần, chỉ là sức mạnh
mượn được của kháng chiến. Lợi dụng được hoàn cảnh ngh́n năm có một,
là cuộc Tổng Khởi Nghĩa đưa đến kháng chiến, họ vẫn tiếp tục tuyên
truyền rất dân tộc trong dân chúng, nhất là trong dân chúng vùng
Pháp chiếm đóng. Mặc dầu, từ năm 1950, và đầu năm, ở Liên khu Việt
Bắc đă có mở nhiều lớp học tập quốc- tế-tính.
Trung đừng nhầm quốc- tế-tính là một thứ tư tưởng quốc tế, có
mục đích làm cho con người mở rộng ḷng thương yêu nhân loại cũng
như thương yêu đồng bào ḿnh, Trung hăy chú ư đến chữ tính, tính
nết, đă dùng trong chữ vô sản tính, giai cấp tính. Quốc tế tính là
một thứ thói quen tinh thần, một thứ ư nghĩ bảm sinh đă có, rằng con
người sinh ra không có quốc gia, quốc gia là bịa đặt, ái quốc là bịp
bợm, bởi v́ con người là con người của hoàn vũ, của nhân loại.
Quốc tế tính, thật ra, là một cái mồi và cũng là một cái bẫy
cho đồng bào ta… Là cái mội, v́ nước Việt Nam nhỏ, đất Việt Nam
nghèo, nếu thực hiện quốc tế tính, người Việt Nam có thể sang làm ăn
bên Mỹ, bên Pháp, mà vẫn như ở trong nước nhà. Giấc mộng giàu sang
dễ dàng thành sự thật. Lại cũng chính v́ thế mà là cái bẫy, v́ dân
tộc nhỏ, bên cạnh dân tộc Trung hoa khổng lồ, nếu càng có quốc tế
tính th́ trong bao lâu sẽ mất gốc?
Tưởng chẳng nói Trung cũng biết người Tàu từ ngàn xưa vẫn nuôi
cái mộng đồng hóa những nước “man di” nhỏ bé. Nay có cơ thực hiện,
ắt là có bàn tay Trung Cộng dính vào. C̣n Việt Cộng chưa chắc đă
muốn thế, v́ ai chẳng muốn một t́nh làm chúa tể một sơn hà, dù nhỏ
bé. Nhưng t́nh trạng kiệt quệ về thực lực đă bắt buộc họ.
Cho nên tôi chắc rằng họ đă bắt đầu run sợ, ngay từ khi Hồng
Quân tiến đến giáp giới biên thùy. Tôi nghĩ rằng họ sợ, v́ trong
hành động của họ, trong những năm gần đây, đă có nhiều trạng thái
của mất sự vững vàng về tinh thần. Tôi nhớ khi trước, bị bắt ở Lạng
Sơn, nhiều lần bị họ đem ra toan giết, mà không thấy một lần nào
thấy họ lộ vẻ căm thù hay tức giận. Tôi nhớ tên cai ngục vào với
cuộc giây thừng, đến trước mặt tôi nghiêm chào, xin lỗi như người ta
xin lỗi nhau trong một buổi dạ hội ở Nhà Hát lớn, rồi xin phép trói,
trói thật chặt. Đến khi giải ra pháp trường, tên chỉ huy c̣n tươi
cười nói “đồng chí đi trước”. Lại đến khi có lệnh hoăn, vẫn tươi
cười, không bực dọc, cũng không ngượng ngập, vừa cởi trói vừa nguyền
rủa “cái đồng chí nó chưa được giác ngộ, nó trói đồng chí chặt quá
thôi!”.
Như thế, thật trái hẳn với thái độ của họ trong khi đấu, tố.
Đă đành chính họ chủ trương giáo dục căm thù cho quần chúng. Nhưng
v́ sao phải giáo dục căm thù, nếu dám quyết địch vẫn yếu, ḿnh vẫn
mạnh, và dân vẫn theo ḿnh tuyệt đối?- Tôi cho rằng việc ấy, căm thù
ấy, chính là sự hiển hiện của tự ti mặc cảm, của sự run sợ ngay
chính các đồng chí vĩ đại.
Tôi có nhầm không, khi dám nói rằng trong ḷng người Cộng Sản
đă có tự ti mặc cảm, ngay khi họ đương thắng lợi trên khắp các mặt
trận?
– Có thể lắm. V́ tôi dù sao cũng chỉ là khách quan quan sát
đối với chủ quan thực lực của họ. Tôi có thể nhầm trong đoạn vừa mới
phân tách về các thành phần mặt trận quốc gia. Tôi có thể không biết
nhiều việc, nhất là những việc trong bí mật, ví dụ như những hoạt
động ngấm ngầm để xây dựng cơ sở của những tập thể chính trị. Hoặc
những hành động bán nước của những tập thể khác.
Nhưng có một nơi tôi nhất định không nhầm, là sự nhận định của
tôi về giới trí thức. Trí thức chống Cộng, tư sản, t́nh nhân của tự
do, cơ sở của tất cả mọi nền dân chủ. Đó là trí thức ở ngoài toàn
cảnh, ở trong một không gian vĩnh viễn. C̣n trí thức của ta… Tôi sợ
rằng người trí thức của ta, trong lúc này, chỉ c̣n là cái bóng của
người trí thức năm xưa, khi, 1945, họ không ngần ngại phất lá cờ
máu- lúc ấy c̣n là cờ của Tổng Khởi Nghĩa thuần túy-trên khắp các
ngă đường đất nước.
V́ sao? Tôi không muốn nói v́ sao trước khi thuật lại cho
Trung tất cả những hoàn cảnh, những phản ứng nó đă đến trong tôi, từ
ngày tôi đặt quản bút xuống bàn, sau khi viết cho Trung: Về đâu,
tiểu tư sản?
Về Hà Nội!
Trung đă mày ṃ xin được Letourneau, tổng trưởng trú xứ, đánh
điện xin, không, đ̣i cho tôi trở về tự do. Th́ việc đầu tiên tôi
phải làm là ǵ? Là t́m cách gián tiếp trả ơn viên Tổng trưởng trú
xứ, bằng cách trực tiếp đánh đ̣n trả thù đầu tiên vào những người
Bôn-sơ-vích.
Tôi nghĩ thế, viết ngay hai bức thư dài cho hai viên đại tướng
Tổng tư lệnh Salan, và Tư lệnh khu Hành quân Bắc-Việt De Linares.
Trung hẳn đoán được trong thư tôi viết những ǵ: chính sách ruộng
đất Cộng Sản, giáo dục giai cấp tính Cộng Sản, tự ti mặc cảm Cộng
Sản. Và sự chia rẽ trong nội bộ ta, sự cần thiết có một ư chí chỉ
đạo, sự cần thiết động viên trí thức, không phải bằng tuyên truyền,
mà bằng lời nói tâm thành giữa bạn với bạn. Điều kỳ dị nhất trong
thư là tôi công nhận công lao của người Pháp, công nhận người Pháp
có quyền ở lại, để hưởng thụ b́nh đẳng với người Việt trên đất Việt.
Viết thư xong, đánh máy xong, tôi vừa kư tên vừa cười một
ḿnh. Bởi cho rằng ḿnh xử sự trúng tâm lư, đối với hai viên tướng,
một nghe đâu có duyên nợ với Phù dung tiên nữ, một có nhiều bằng cử
nhân hay tiến sĩ ǵ đó. Tôi tưởng họ sẽ hả dạ lắm, v́ được công nhận
có quyền làm thực dân, v́ họ cố nhiên, là tri thức, phải tự hiểu
ḿnh quả thật là thực dân. Tâm lư hơn nữa nơi cuối thư, tôi không
quên ghi rơ rằng tôi không đ̣i hỏi điều kiện vật chất, không xin mề
đay cũng không xin đi làm, và cao quư hơn hết, xin sẵn sàng cộng tác
hoàn toàn trong lănh vực tinh thần.
Thư gửi đi, tôi vui liền đến mươi hôm. Đến hôm thứ mười, tiếp
được giấy đ̣i của Sở mật thám Liên Bang. Tôi ngạc nhiên, nhưng vẫn
đến. Rồi ngă ngửa người: một suưt nữa lại tù!
Th́ ra tôi tâm lư trên mây rồi. Hai ông tướng xét bức thư của
tôi, thấy cho phép họ làm thực dân, liền cho ngay là tôi có ư ngạo
mạn. Tôi viết thư bằng chữ Pháp, chắc ít lỗi văn phạm, chứng tỏ có
học khá. Mà không cần tiền, không cần mề đay, không xin đi làm! Viên
Phó giám đốc đầu bạc, h́nh như tên là Cardin, hỏi đi hỏi lại, hỏi
lại hỏi đi: “ Ông ở đảng nào? Ai ra lệnh cho ông viết bức thư này?…
Anh ở đảng nào?… Mày ở đảng nào?…” Tôi được dịp thề chối chết. Rằng
tôi ở Phục Quốc đảng, nhưng đă hết hoạt động, và bức thư ấy chỉ do
tôi thực ḷng ngưỡng mộ ông Tổng trưởng trú xứ…
Ông Tổng trưởng Letourmeau cứu tôi lần thứ hai. Không có ông,
sự dại dột lần này phải đưa tôi gần lắm là đến Côn Đảo!
Tôi ra khỏi Sở mật thám Liên Bang mồ hôi lấm tấm trên trán và
ướt lạnh trong áo sơ mi, giữa cơn rét Nàng Bân năm Quư Tỵ. Con đường
Gia Long đón gió hồ Gươm ào ào trên hè vắng, và hú từng hơi dài
trong cành cây mới lưa thưa ít ngọn xanh. Tôi đi quanh hồ nhiều
ṿng, nhận thấy sự thất bại đầu tiên gieo vào tâm tư ḿnh rất nhiều
phiền muộn. Bởi tôi chờ đợi sự hiểu biết ở những người Pháp cao cấp.
Tôi bắt đầu lo sợ: đến họ c̣n không hiểu, ai sẽ hiểu?
Và quả thế. Tôi c̣n thử thách nhiều lần. Lần thứ nhất, sau đó,
đến thăm vị thủ lĩnh đ̣n thể cũ. Ven bờ hồ Thiền-cuông, dưới một ṭa
lầu ba tầng, vị thủ lĩnh của tôi ở trong căn pḥng để xe hơi. Lụp
xụp, chật chội. Tôi linh cảm ngay được sự trong sạch, mừng thầm.
Nhưng mừng trong giây phút, rồi thôi. Bởi đến phút thứ hai đă biết
ông bị thời thế vượt xa nhiều quá. Là người thiểu số, đời đời tù
trưởng, ông trung thành với Nhà vua, gián tiếp là Bảo Đại. Mặc dầu
ông trong sạch, không nhận tiền của Pḥng Nh́, không đề cử cán bộ
vào chính quyền, ông cam phận đói rách trong căn pḥng tối hẹp. Để
chờ cơ hội, nhưng cơ hội ǵ, thế nào, ông không biết.
Hoàn toàn thất vọng. May lúc sắp đứng lên lại được gặp một lăo
đồng chí, một nhà trí thức danh tiếng. Tôi ngơ ư hỏi anh về thủ
lĩnh, anh mỉm cười khẽ lắc đầu hai ba lần, chán ngán. Câu chuyện trở
về quá khứ. Anh khen tôi viết tờ Phục Quốc hay. Tôi khen anh giữ
được đạo đức giữa một thời điên đảo. Rồi cùng cười, nhưng cùng rất
buồn mà chia tay.
Tôi trở lại căn pḥng của tôi, hẹp và tối hơn căn pḥng của
anh Nông Quốc Long nữa. Nhà tôi c̣n chờ chồng bên cạnh mâm cơm
nguội, nước nguội. Cất bát cơm suông lên tay, người đàn bà mỉm cười
nói một câu an ủi bâng quơ, nhắc lại một thời kháng chiến, làm như
đă xa lắm.
Mà xa lắm thật rồi, những ngày gian nguy tác chiến. Những hăng
hái dào dạt, những quyết liệt xông pha. Cả đến niềm thống khổ, uất
hận, mới ba tháng trước, bây giờ cũng đă lắng đọng xuống nhiều. Tôi
cảm thấy tâm hồn ḿnh muốn nhỏ lại. Một ư nghĩ c̣n ngập ngừng, có lẽ
v́ hổ thẹn với quá khứ. Tôi đột nhiên muốn trở về với gia đ́nh.
Gia đ́nh tôi vỏn vẹn c̣n có hai đứa tôi. Mẹ tôi đă thất lộc từ
ngoài khu. Trong căn nhà ngơ hẹp này, bây giờ chỉ c̣n một ḿnh nhà
tôi, sáng sáng đưa chồng ra khỏi ngơ, lần nào cũng tươi cười hẹn
chồng “về sớm”. Rồi buổi tối, có những bận về rất khuya, bụng rỗng
tuếch và lên chân rời rạc vào căn pḥng chỉ sáng nhờ ngọn đèn hoa kỳ
tù mù, tôi ngao ngán lắc đầu, th́ người đàn bà cũng lại tươi cười
“để mai ăn một thể anh ạ!”.
Để mai ăn một thể, tức là hôm ấy không có ǵ vào bụng. Đói.
Nhưng đói, thật ra và tự một ḿnh nó, không có ǵ lạ. Nhất là nhà
tôi lại càng quen lắm, ngay từ lúc c̣n tản cư. Tôi không có ǵ giúp
đỡ, mẹ tôi già, một ḿnh nhà tôi lo liệu, ắt phải lấy câu chuyện
“nhỡ bữa” làm thường. Cực nhất là hồi tháng Mười năm 47, binh đoàn
Vanuxem từ Tuyên Quang về qua Lập-thạch, qua nơi gia đ́nh tôi trú
chân làm ruộng ấp, có ba lính da đen rạch mặt bị du kích dùng câu
liêm móc chết, bèn báo thù, gặp bao nhiêu nhà cửa, thóc lúa cảu dân
chúng mới gặt về đều đốt cho kỳ hết. Cả nhà tôi đành ăn cơm gạo
cháy, cay mùi khói. Đến tháng Ba, tôi có dịp về thăm, thấy mẹ với vợ
chỉ c̣n da bọc xương, g̣ mà nhọn, mắt sâu hoắm, tóc trên đầu khô như
rang. Thế mà người đàn bà ấy vẫn cười được, thậm chí hôm tôi phải
đi, vẫn c̣n t́m được cách may cho chồng cái áo trấn thú bằng phin
đen thật đẹp. Mẹ tôi thấy thế chỉ khóc, nước mắt già đau khổ nhưng
hănh diện.
Một người vợ như thế cố nhiên không bao giờ thẳng thúc tôi về
miếng cơm manh áo. Anh em ở bên này đều cho tôi nhờ vợ mà sung sướng
nhất đời. Kể cũng đúng, càng đúng khi chính ḿnh cũng biết chẳng
thiếu ǵ người, v́ vợ muốn, phải bán linh hồn cho quỷ. Quỷ sống, một
là Cộng Sản, hai là Pháp, ba nữa là chính phủ Tâm hay Hữu cũng thế.
Tôi công nhận nhà tôi là người vợ Á Đông trọn vẹn. Mười năm,
hai mươi năm nữa, tôi vẫn có thể mặc cho nhà tôi t́m cách sống lấy
một ḿnh , không nâng đỡ, không cả đến hỏi han cho đủ cái nghĩa
thiên nhiên của sự kết đôi làm vợ làm chồng. Tôi biết trước nhà tôi
sẽ không bao giờ oán hối: kể từ ngày về làm bạn với tôi, một thiếu
nữ đôi tám đă quên luôn đi rằng ḿnh chỉ có tuổi xuân có hạn. Một
thiếu nữ sớm trở thành người đàn bà không tuổi. Mười năm nữa, hai
mươi năm nữa…
Nhưng cũng có lúc tôi bâng khuâng tự hỏi không biết c̣n làm
khổ nhà tôi đến bao giờ. Những lúc họa hoằn tôi bắt gặp ḿnh xây
mộng về một cuộc đời yên ấm: căn nhà nho nhỏ, xinh xinh, người vợ
ngồi thuê thùa bên cạnh chồng đọc sách. Cảm giác êm vui thấm thía
không bền, cứ mỗi lần nghĩ đến hưởng thụ hạnh phúc trong gia đ́nh
nhỏ hẹp là một lần nhớ đến anh em. Người đă chết, để lại vợ con nheo
nhóc; người c̣n đang câm nín trong hàng ngũ bôn-sơ-vích, cố chịu
đựng tất cả mọi gian nguy, điêu đứng, miễn làm sao ở lại được giữa
đoàn quân kháng chiến. Quá khứ, kỷ niệm buổi xuất quân trong Rừng
Thông, kỷ niệm trận đánh đồn Đại-Bục 1, kỷ biệm chiến dịch Lê Hồng
Phong phá tan đồn Bảo-Chúc 2, quá khứ rừng rực những lửa reo, đạn
réo, những người tiến lên, những người ngă xuống. Máu chảy, giặc đầu
hàng, kéo lên lá cờ, là cờ dù sao vẫn là cờ kháng chiến. Quá khứ
nặng quá cho một kẻ muốn trở về với gia đ́nh. Bởi hắn biết không sao
tránh khỏi mặc cảm phạm tội, một khi anh em c̣n chiến đấu mà hắn nỡ
ḷng nào một ḿnh hưởng thụ?
Quá khứ đ̣i hỏi con người phải xứng đáng với nó, trong hiện
tại và trong tương lai. Con người không thể phản bội chính cuộc đời
ḿnh. Mà hiện tại, chia rẽ, hỗn loạn, bắt phải có những khôn khéo,
những luồn cúi, những nham hiểm toàn những thứ không phải là đức
tính của chiến sĩ.
Cuộn chiến đấu được đặt trên một b́nh diện khác. B́nh diện của
thực dân ngoan cố, ngu xuẩn của chính quyền hèn hạ, thối nát. Của
một quần chúng, mặt ngoài chen chúc hưởng thụ một nền kinh tế phồn
thịnh giả tạo, nhờ viện trợ và nhờ sự tiêu pha của Đoàn quân Viễn
chinh. Nhưng bên trong, quần chúng thiếu thốn xúc cảm chân t́nh,
không thể làm ǵ hơn là hướng về kháng chiến. Chữ kháng chiến, lâu
nay cán bộ nội thành đă dần dần ḥa vào chữ Đảng: kháng chiến Đảng,
Đảng kháng chiến.
Quần chúng hưởng thụ, quần chúng tiểu tư sản, nhất định không
thương ǵ người bôn-sơ-vích. Nhưng đổi trước người Pháp rơ rệt không
thực tâm, quần chúng sợ hăi nô lệ hơn đói rét, cần phải có một nơi
gửi ḷng tin cậy. Năm 1948-49, h́nh như đă có lần hướng về Bảo Đại
với những người trí thức. Năm đó tôi chưa về, không biết rơ sự thất
vọng của quần chúng to lớn đến mực nào, v́ trót quá tin ở Bảo
Đại.Trí thức cũng tin ở Bảo Đại, ở bản Tuyên ngôn Thoái vị của ông
ta th́ đúng hơn, đă đảm bảo cho con người ấy trước quần chúng. Cho
nên Bảo Đại hiện nguyên h́nh “con Tây” khả ố, th́, đầu tiên đă mất
mát một phần nào ḷng tin của quần chúng, lại thành thực nhận sự sai
lầm của ḿnh, người trí thức tự trừng phạt bằng cách tự ḿnh không
tin vào ḿnh nữa!
Trung đă biết không ǵ khổ bằng sự ngờ vực của ḿnh đối với
chính ḿnh. Tấn kịch bi đát của những người cố t́m một lối thoát mà
phải bấu víu vào những lực lượng bên ngoài. Bên ngoài, một đằng là
Pháp với khi th́ Tâm, khi th́ Hữu, một đằng là Cộng Sản. Quần chúng
th́ đă mất một phần nào tin tưởng. Giải pháp vẫn chỉ có một: bằng
mọi cách phải cướp lại cho kỳ được ḷng tin của quần chúng. Nhưng đó
là việc làm dài ngày, khó khăn, nguy hiểm. Trí thức đă lùi lại, rút
vào trong một thái độ bế tắc. Phần đông chùm chăn, ngừng tất cả mọi
hoạt động. Riêng từng nhóm nhỏ, hoặc bất chấp đe dọa, tiến lên ….
1: Trên hữu ngạn sông Hồng
2: Thuộc huyện Tam-Dương, Vĩnh Yên.
….. chống cả Cộng Sản lẫn Pháp, và có nhiều người đă bị lưu
đày. Hoặc có những nhóm khác, nhận định Cộng Sản nguy hiểm về lư
thuyết nên ngày đêm đào xới, cố t́m lấy một chủ nghĩa khả dĩ thay
thế chủ nghĩa bôn-sơ-vích. Bấy nhiêu gắng công, cho đến nay, đă
tương đối coi được là thất bại. Thất bại v́ hành động lẻ tẻ. Ở cương
vị lănh đạo, trí thức đă lẻ tẻ, sẽ làm thế nào để lôi cuốn được toàn
dân?!
Làm thế nào? Người trí thức vẫn tự hỏi như thế. Câu hỏi đưa
đến bế tắc, khiến cho trogn tâm hồn họ rộn lên một niềm đau đớn.
Nhất là những thanh niên c̣n nhiều thiết tha với dân tộc không thể
ngồi yên, cũng không thể liều lĩnh làm một cái ǵ cho hả. Thanh niên
tuổi băm lăm, băm mấy, được sống đủ để được biết đủ, không thể chấp
nhận cho những thứ bác sĩ Moreau bôn-sơ-vích biến đổi con người
thành đồ vật, càng không thể chấp nhận một cuộc đầu hàng người Pháp.
Tuổi thanh niên băm lăm, băm bảy là tuổi chúng ta. Tôi đọc
những bức thư của Trung, rồi ḷng hỏi ḷng, càng nhận thấy tuổi
chúng ta là tuổi phải chịu nhiều vết thương tâm t́nh nhất trong thời
đại.
Chúng ta trước hết đă bị Cộng Sản dày xéo. Đến bây giờ lại bị
dằn vặt trong tâm tư bởi ư chí muốn thoát ra khỏi một hoàn cảnh bế
tắc. Tôi tin lời Trung viết cho tôi:
– “ Chúng ta hiện mang nặng một chứng bệnh tâm lư, một chứng
bệnh thế kỷ, nó đ̣i hỏi, nó bắt buộc chúng ta đi t́m một lẽ phải,
một lẽ phải tuyệt đối, một lẽ phải là căn nguyên của mọi sự, cắt
nghĩa mọi sự, và, do đó, chính là lí do tồn tại của đời sống”.
Trung lại viết cho tôi: – “ Chúng ta sở dĩ chống lại người
bôn-sơ-vích là v́ chúng ta biết họ chưa t́m thấy lẽ phải tuyệt đối
mà đă nóng ḷng tranh chấp đến tự thỏa măn bằng những lẽ phải của
giai đoạn, họ cố nhiên chiến thắng chúng ta trong giai đoạn cái lẽ
phải của họ. Nhưng đời người c̣n dài, nguồn sống bất tận của con
người không thể bị chính nó hủy diệt, cho nên tôi tin rằng chúng ta
sẽ t́m thấy lẽ phải tuyệt đối, có khả năng giải quyết tất cả mọi
thắc mắc, bộc lộ nguồn gốc của mọi cuộc giao tranh, có khả năng phán
xét sau cùng, và đặt địa vị trí cũ những tinh thần lầm lạc”.
Tôi hoàn toàn đồng ư với Trung rằng người trí thức- trí thức
tư sản, nói cho thật rơ-có nhiệm vụ đi t́m một lẽ phải vĩnh viễn,
bên ngoài thời gian và không gian, không thể không có cho đời sống
thái b́nh của nhân loại. Người trí thức, nhân danh những đau khổ họ
đă chịu đựng, rất xứng đáng sẽ t́m thấy.
Nhưng người nào sẽ t́m thấy th́ chính người đó đă biến thành
thần linh. Bởi, trong lịch sử của giống người, đă t́m thấy một lẽ
phải có giá trị lâu bền, mới chỉ có Thích Ca Mâu Ni, Giu se Ki ri xi
tô với Mahomet. Thêm hai vị á thánh Khổng Khâu và Cam Địa, có lẽ có
chủ trương gần gũi với loài người hơn, nhưng tiếc thay, chỉ hợp với
một phần nào nhân loại.
Nhân loại hiện đang tiến rất nhanh- có thể là nhanh quá chăng?
Trong lĩnh vực khoa học. “ Người sau này t́m thấy lẽ phải tuyệt đối,
Trung đă viết thế, phải là người có thiên tư phối hợp cảm t́nh với
khoa học, một thứ trí tuệ Einstein hay Coppernic cộng với tấm ḷng
bác ái, vị tha của Đức Phật”. Ở nơi đó, tôi cũng tin như Trung, rằng
cuộc tranh chấp giữa hai khối dân chủ, bôn-sơ-vích, ngày nay đă lớn
rộng quá, khiến cho một sự ḥa giải không thể có, và sẽ chỉ có hoặc
một sự can thiệp thiêng liêng, hoặc một trận giao tranh kinh khủng
giữa những sức mạnh cuồng nhiệt năng nguyên tử, trong đó loài người
không thể tránh được tự tiêu diệt toàn bộ. Cả hai viễn tượng cùng
vượt xa người trí thức trung b́nh, không mỗi lúc làm nên giáo chủ,
cũng không thể một ngày thành được một Einstein. Cho nên v́ biết rơ
được sự không đi tới đâu của ḿnh mà phát sinh hoài nghi.
Đă đành rằng hoài nghi là một bệnh nặng. Nơi tận cùng bức thư
sau trót gửi cho tôi, Trung đă lộ một vẻ buồn sâu sắc. Trung không
viết rơ , nhưng tôi nhận được, qua ḍng chữ, ư nghĩ của Trung không
nhiêu xa sự tuyệt vọng:-“ Chúng ta đi đúng đường, nhưng chúng ta đi
quá chậm. Có thể rằng Nước Đỏ sẽ tràn ngập cuộc đời là hậu quả của
sự thắng thế của Tội Ác trên Thiên lương. Khoa học đă nhiều lần
chứng tỏ dấu tích những nền văn minh bị tiêu diệt”.
Tôi nhận thấy Trung bi quan quá, một phần v́ Trung là một
người độc đáo trong tư tưởng, nên không thể cam chịu những giải pháp
nửa vời, không chấp nhận một lẽ phải giai đoạn và cương quyết không
thỏa hiệp với lẽ phải bôn-sơ-vích. Nguyên nhân thứ hai của căn bệnh
bi quan của Trung, theo ư tôi, là Trung rời xa đất nước lâu quá, từ
sớm quá. Mười lăm năm thương nhớ, cứ mỗi khi muốn có h́nh ảnh dăy
núi, con sông cùng những nét sinh hoạt dồn dập hay thờ ơ, lành hiền
hay bạo ngược của đồng bào, Trung chỉ có thể đọc sách báo, và đọc
những bức thư của một số bạn thân, trong đó có tôi.
Tôi biết Trung thao thức, tha thiết muốn có những tài liệu xác
thực, để có thể mường tượng ra hẳn đời sống của quốc dân ta, trong
một thời kỳ nhất định. Tôi không thể làm vừa ḷng Trung cũng như
không một ai làm nổi việc ấy, kể cả những cấp bộ chỉ huy cao nhất
nhất, v́ lư do đơn giản là mỗi người chỉ có thể biết được sự thật
của riêng phe ḿnh. Tôi nghĩ như vậy, nên thuật lại cuộc đời của
chính tôi trong thời kỳ ấy. Trung hiểu tôi, sẽ hiểu cả một thế hệ.
Nếu mỗi thế hệ có một người cũng làm cái việc tôi làm với Trung, th́
đem tất cả những bức thư gom lại, nhà học giả xă hội và tâm lư sẽ có
những tài liệu chính xác nhất về đời sống của một dân tộc.
Nhưng riêng Trung, chỉ có thư riêng của tôi, tôi với Trung lại
cùng một lứa tuổi, thành ra Trung chỉ biết, tuy biết rất rơ về một
thế hệ. Một thế hệ, dù có được giữ một vai tṛ trọng yếu nhất trong
một giai đoạn lịch sử, vẫn không thể là một dân tộc. Trung có lẽ
không chú ư đến điều này nên mới có thái độ bi quan quá đáng.
Trung viết: -“ Tôi nhiều khi khổ sở mà nghĩ rằng chúng ta đành
phải thúc thủ. Công việc của chúng ta cố nhiên tâm thành mà vẫn
không tránh khỏi không tưởng. Chúng ta muốn làm thánh, trong khi kẻ
địch của chúng ta làm người e không đủ tàn bạo, lại c̣n cố trở thành
đồ vật… Trên lư thuyết đấu tranh, tôi không thấy sức mạnh của ḿnh,
không thấy kẽ hở của địch”.
Chúng ta đành thúc thủ v́ lẽ phải của chúng ta chưa kịp t́m
thấy (Trung viết: sẽ có ngày nào t́m thấy được chăng?!), lẽ phải của
địch, tuy chỉ có giá trị trong một giai đoạn, giai đoạn ấy có thể
c̣n dài, đủ dài cho những người bôn-sơ-vích tiêu diệt xong những
người tiểu tư sản. Trung nghĩ như vậy. Tôi nghĩ cũng gần như vậy.
Chúng ta cùng chủ bại.
Duy không phải tất cả mọi người, tất cả mọi thế hệ đều chủ
bại. Tôi vừa mới viết, ngay trên đây, rằng Trung biết rơ một thế hệ,
là cốt để bây giờ viết thêm rằng có những thế hệ Trung không biết,
những thế hệ đương lên. Nhất là thế hệ của những đứa em của chúng
ta, hôm nay trên dưới ba mươi tuổi, thế hệ của những thanh niên cũng
say đắm tự do và dân chủ, cũng thiết tha với tài sản tinh thần,
nhưng không những không chủ bại, cũng không phải chỉ có một ư chí
liều chết chiến đấu, mà, trái lại, c̣n t́m thấy cái lẽ phải tạm thời
có thể “ giải quyết được tất cả mọi thắc mắc, bộc lộ mọi nguồn gốc
của mọi cuộc giao tranh, có khả năng phán xét sau cùng , và có thể
đặt về vị trí cũ những tinh thần lầm lạc”.
Lẽ phải đó là ǵ, thế nào, sau đây tôi sẽ nói rơ cho Trung
biết. Lẽ cố nhiên đó không phải là sự “t́m thấy” của tôi, bởi, ví dù
tôi có thật t́m thấy cũng không có giá trị ǵ hơn, v́ nghĩ là một
việc, nhận rằng đúng là một việc, mà tin vào cái nghĩ đúng ấy lại là
một việc khác. Điều tôi cần phải nói ngay, là chính họ, họ tin vào
cái họ nghĩ.
Họ là những bạn trẻ tôi thường gặp. Mắt họ sắc nhưng nh́n
thẳng, miệng họ cười tươi thắm nhưng khi hai vành môi khít lại, lại
vẽ thành một nét trang trọng, uy nghiêm sớm sủa. Vầng trán của nhiều
người đă có bóng những vết nhăn ngang, trái hẳn với mớ tóc họ cắt
ngắn, xương bả vai họ rộng và đầy, có vẻ tố cáo họ chỉ biết ăn khỏe,
ngủ khỏe, tập thể thao khỏe, để bồi bổ riêng cho sức mạnh của thể
xác.
Tôi gặp họ, yên chí họ thơ ngây, ít ra là về chính trị. Nhưng
vẫn theo dơi họ v́ ṭ ṃ. Họ biết thế, theo dơi lại tôi không kém.
Cho đến khi hoàn cảnh cho phép chúng tôi hiểu nhau, qua một đêm tâm
sự chí t́nh.
Họ vào đề đột ngột:
– Chúng em biết các anh đau khổ trong một trạng thái tinh thần
không có lối thoát. Các anh đă chiến đấu can đảm, các anh c̣n muốn
chiến đấu nữa. Nhưng các anh đă hoài nghi chính khả năng chiến đấu
của các anh, của dân tộc, và, luôn thể, hoài nghi đến sự hữu hiệu
của những tổ chức quốc tế. Sau một thời gian tích cực chiến đấu, các
anh v́ lẽ này lẽ khác, đă muốn sinh hoạt nặng về tư tưởng. Các anh
nhiều lần giáp mặt với cái chết, nhiều lần được chứng kiến những
hành vi nham hiểm và hèn hạ, cho nên v́ một thứ phản ứng nén tâm,
các anh đă hướng về sự t́m ṭi một Sự Thật tuyệt đối, và đó là một
thái độ không tưởng.
Tôi chịu là chúng ta trở nên không tưởng, nhân nói thêm rằng
sự có mặt của chúng ta, từ trước tới nay, thật là vô ích, nếu không
có hại. Th́ họ lại bênh vực chúng ta:
– Các anh đă đóng trọn một vai tṛ lịch sử, một cách cao quư
không thể nào hơn được. Sự có mặt của các anh là một sự lợi ích, là
một cứu cơ cho bọn chúng em. Các anh đă hứng chịu hộ chúng em tất cả
những ảnh hưởng tai hại của một giai đoạn quá độ của lịch sử. Chính
các anh đương lúc lớn lên, đă phải nhận lấy cái mặc cảm chủ bại của
tinh thần Nho giáo suy tàn. Các anh lại bị đầu độc bởi lăng mạn chủ
nghĩa, cá nhân khoái lạc chủ nghĩa trong văn chương Pháp. Chúng em
cho rằng chính tinh thần hiệp sĩ Pháp, tinh thần trung quân, quân tử
Tống Nho, đă xui các anh chống Cộng Sản bằng cách giúp Cộng Sản
chống Pháp. Nhất là anh Quảng, như anh có lần kể chuyện, chúng em
thấy anh Quảng giống một Don Quichotte cộng với một Chu Hy như đúc…
Tôi không muốn nghe họ nói về Quảng, dù nói rất đúng. Sự phân
tách tâm lư một người bạn đă khuất chỉ có thể gợi cho tôi nhiều xúc
động không nên có vào lúc ấy. Tôi cắt lời họ bằng cáchđưa cuộc thảo
luận sang vấn đề thực tế chống Cộng Sản. Về vấn đề này, ư kiến của
họ khác ư kiến chúng ta nhiều lắm.
Họ trước hết không công nhận cái mạnh hiện hữu của những người
bôn-sơ-vích là không có kẽ hở. Theo ư họ:
– Cộng Sản không phải mạnh v́ lư thuyết chủ nghĩa mác-xít.
Cộng Sản thật ra mạnh v́ trên đời c̣n có đói khổ và nô lệ, nghĩa là
c̣n có những người bất măn. V́ thế, nếu có thể một lư thuyết cùng
những thực hiện xây dựng xă hội lành mạnh, no đủ và tự do, th́ Cộng
Sản tự nhiên hết quyến rũ về tinh thần. Sức mạnh thứ hai của Cộng
Sản là một tập thể vững chắc với những đạo quân cuồng tín. Chúng em
công nhận tính chất cuồng tín ấy có thật, nhưng chúng em cho rằng
binh sĩ của họ sở dĩ cuồng tín là v́ hai nguyên nhân. Một nguyên
nhân là sức quyến rũ của chủ nghĩa chúng em vừa nói, một nguyên nhân
nữa lại chính là tinh thần yêu nước trong mỗi người. Những binh sĩ
Việt Minh, Bắc Hàn, và Nga Sô với các nước Đông Âu trong những năm
1941-1945, đều chiến đấu anh dũng để bảo vệ tổ quốc. Chứng cớ là 159
ngàn quân Lỗ mă Ni, năm 1941-1942, đánh Nga Sô để đ̣i lại vùng
Bessarabie, c̣n anh dũng gấp mấy 200 ngàn quân Lỗ mă ni, năm
1944-45, theo Hồng quân Nga Sô đánh vào nước Đức.
Họ lại c̣n thấy cái yếu của Cộng Sản:
– Cộng Sản bảo không có mâu thuẫn trong hàng ngũ Cách Mạng Vô
Sản, tức là trong Đệ Tam Quốc Tế. Họ đă nhầm lớn lắm. Trong hàng ngũ
Đệ Tam đă phát sinh mâu thuẫn thứ nhất là Đệ Tứ Tờ Rốt Kưt. Rồi
chính hàng ngũ những nước xă hội chủ nghĩa là cả một cái quyết thế
có cực nhiều mâu thuẫn nội bộ: mâu thuẫn giữa các bộ với cán bộ,
giữa đảng viên với cán bộ hay với đảng viên; mâu thuẫn giữa Đảng với
quần chúng đối lập với cả quần chúng đă theo Đảng, v́ lẽ số quần
chúng này theo Đảng để hưởng quyền lợi, nên sẽ đ̣i Đảng phải thi
hành những lời hứa mà Đảng muốn quên. Như vậy là trên thực tế, Cộng
Sản đă không mạnh như người ta tưởng, mà về lư thuyết, chính Marx
nói xă hội chủ nghĩa không có mâu thuẫn với biện chứng duy vật, tức
là mâu thuẫn với lư thuyết nguyên thủy. Theo ư chúng em, trong khi
nói “xă hội xă hội chủ nghĩa không có mâu thuẫn”, Marx chỉ có một
dụng ư tuyên truyền: Tuyên truyền gian dối, đâu có phải là tuyên
truyền của sức mạnh thật sự?
Sau một hồi quanh quẩn, họ lại trở về chúng ta:
– Anh Trung (tôi có cho họ xem thư của Trung) nói rất phải là
họ quá vội trong sự tranh chấp quyền lực, nên đă phải tự thỏa măn
bằng những lẽ phải có tính chất giai đoạn. Có điều anh Trung đă bi
quan quá, khi sợ rằng giai đoạn lẽ phải của họ đủ dài để cho phép họ
tiêu diệt tiểu tư sản, Theo chúng em th́ họ đă trở thành nô lệ ngay
cái tính chất giai đoạn của họ: sau giai đoạn lợi dụng tiểu tư sản
để kháng chiến thành công (khi sự thành công đă rơ rệt) là họ bắt
buộc phải chuyển sang giai đoạn đấu tranh chính trị, lợi dụng quần
chúng nghèo đói để tiêu diệt tiểu tư sản. Nhưng các anh đă thấy họ
thất bại trong công cuộc giáo dục căm thù, chứng cớ là anh Chắt Hoe
chắc chắn đă dự vào việt giết anh Nhiễu, (ai có thể không dự ?),
nhưng sau đó lại hồi tâm, có lẽ c̣n hối hận nữa là khác, nên mới hy
sinh cho vợ con anh Nhiễu: Nghĩa là Cộng Sản có thể giết được người
mà dân chúng kính phục, nhưng không thể giết được chính sự kính phục
người ấy trong ḷng dân chúng. Nói tóm lại, hai chữ giai đoạn đă làm
cho họ trở nên máy móc, biết làm Cải Cách Ruộng Đất th́ mất ḷng dân
mà cứ phải làm.
Sự thảo luận chân thực đưa tôi đến chỗ hỏi về quan niệm của họ
đối với vai tṛ của chính họ trong lịch sử. Họ thẳng thắn công nhận:
– Các anh đă giúp chúng em quá nửa về công việc lư thuyết.
Trên lư thuyết, v́ sao chống Cộng Sản, chúng em chỉ cần phải nói
thêm một điều anh chưa kịp nói, là Cộng Sản chủ trương một thứ tự do
tập đoàn, một thứ tự do trong kỷ luật sắc thép. Chúng em chưa vội
phê b́nh chủ trương ấy có lợi hay có hại cho đời sống vật chất của
nhân loại nói chung, nhưng chúng em có thể nói ngay rằng tự do tập
thể, chính họ cũng công nhận, sẽ giết chết tự do cá nhân. Tự do cá
nhân bị tiêu diệt th́ sáng kiến cá nhân cũng bị tiêu diệt, và bị
tiêu diệt luôn thể cả ư chí sáng tạo của con người. Đó là nơi chúng
em chống họ đến cùng trên lư thuyết. Lẽ cố nhiên em không là nghệ
sĩ, nhưng cũng không quan niệm chữ sáng tạo hẹp ḥi trong phạm vi
nghệ thuật. Chúng em công nhận người ta ở đời, mỗi người là một nghệ
sĩ: Người mẹ sáng tạo ra đứa con theo h́nh ảnh ḿnh, người t́nh nhân
t́m hết cách để nh́n người yêu của ḿnh cho thật đúng với người yêu
lư tưởng; người thợ dụng tâm là ra một đồ vật theo ư ḿnh, tất cả
đều là nghệ sĩ.
Nghe họ nói đến đây, tôi cười họ chặt chẽ hết sức trong lư
luận mà vẫn c̣n có cảm t́nh đối với nghệ thuật. Họ cũng cười:
– Chúng em quan niệm nghệ thuật khác các anh nhiều. Các anh
làm nghệ thuật để tô điểm cho đời sống, chúng em làm nghệ thuật để
ích lợi cho đời sống. Các anh nặng về cá nhân, chúng em nặng về tập
thể tuy vẫn bảo vệ cá nhân trong tập thể. Các anh thuần cảm t́nh nên
không làm được, c̣n chúng em may sinh sau các anh, nên chịu ảnh
hưởng Tây phương thuần túy, chúng em phân định được rơ rệt vị trí
của cá nhân trong tập thể. Có lẽ chính v́ thế mà chúng em tin ở lực
lượng của tập thể, tin ở hiệu lực của những công cuộc tổ chức, giáo
dục và chi phối tập thể. Công cuộc ấy lẽ dĩ nhiên là nhiệm vụ của
người trí thức tiểu tư sản: các anh sẽ giúp chúng em về giáo dục,
chúng em sẽ thay các anh trong tổ chức và chỉ huy. Chúng em, hơn
nữa, c̣n tin ở các tổ chức quốc tế hơn các anh. Các anh, với kinh
nghiệm sống bốn chục năm gần đây, không tin tưởng ở sự trong sạch
của những cuộc bang giao quốc tế. C̣n chúng em lại bằng vào sự khôn
ngoan trong khi phân phối và bảo vệ quyền lợi chung, mà tin rằng
thời kỳ chia rẽ và mâu thuẫn tất phải hết, để cho quốc tế đi dần đến
thời kỳ chân thực đồng minh chống Cộng, đồng thời giải phóng những
nước bị trị. Sở dĩ chúng em dám đặt hy vọng vào những viễn tượng tốt
đẹp của tương lai, là v́ chúng em theo kịp sự tiến bộ của khoa học,
của tinh thần khoa học. Khoa học có thể mở mang tài nguyên cho đời
sống ê hề đến nỗi chiến tranh trở nên vô ích và vô lư. Khoa học cũng
có thể tiến tới điểm chế tạo ra những vơ khí tuyệt đối, khiến cho
bất cứ một cuộc chiến tranh nào cũng là một cuộc tự sát chung của cả
nhân loại.
Rồi, thân ái Trung, đây là quan điểm của họ về cuộc giao tranh
giữa chúng ta, tiểu tư sản và những người bôn-sơ-vích:
– Trên phương diện tuyệt đối cảu thời gian hễ hết đói khổ, nhờ
ḥa b́nh và khoa học, và hết nô lệ, nhờ kháng chiến dân tộc và can
thiệp quốc tế, là Cộng Sản sẽ hết mănh lực thu hút đối với dân
chúng. Riêng trong phạm vi nước ta, trận Điện Biên Phủ vừa mới kết
liễu, Việt Minh-Cộng Sản rơ rệt sắp chia đôi sơn hà với Pháp. Chúng
em nóng ḷng chờ đợi ngày chia đôi đó. Không phải v́ chúng em thích
thú ǵ sự chia đôi đất nước, nhưng riêng chúng em cho rằng đó là một
sự tai hại cần thiết. Miễn là có ḥa b́nh, v́ chủ trương bạo ngược
và v́ mất danh nghĩa kháng chiến Việt Cộng sẽ mất ḷng dân cực kỳ
nặng nề. Người Pháp c̣n giữ một phần đất, nhưng vừa mới thua đau,
c̣n khiếp nhược và hoang mang. Quốc tế nhân việc điều đ́nh, chú ư
đến nước ta hơn, chắc hẳn sẽ bênh vực người tiểu tư sản mà hiện nay
quen gọi là người Quốc Gia chống Cộng. Người tiểu tư sản, được ba
điều trên, nhất là được trông thấy Cộng Sản mất dân, sẽ như được
tiêm thuốc hồi sinh. Nói tóm lại, chúng em tin rằng người tiểu tư
sản không cử phải t́m thấy lẽ phải tuyệt đối mới thắng được người
bôn-sơ-vích, ít ra là trong giai đoạn hiện tại, mà các anh nói là
“giai đoạn” của lẽ phải của họ”.
Thân ái Trung,
Tôi vừa mới thuật lại, dài dằng dặc, mấy mẫu tư tưởng của một
số anh em thanh niên ít hơn chúng ta dăm, bảy tuổi. Tôi thuật lại
đúng, cho nên miễn phê b́nh, dù chỉ để tỏ ḷng tin tưởng của tôi hơi
họ, hoặc chỉ để chống lại quan niệm độc đoán của họ về nghệ thuật.
Tôi thấy chỉ cần phải nói cho Trung biết ít ngày sau đêm họ
nói chuyện với tôi th́ xảy ra việc quân Pháp bỏ khu chiến miền Đông
Nam. Sự rút lui của đoàn quân Viễn Chinh là cả một sự vội vă, cả một
sự sợ hăi trông thấy. Có điều lạ, là không có một lời tuyên truyền,
dân chúng ùn ùn bỏ nhà cửa theo quân đội. Dân chúng bám vào xe chở
hàng, như chùm sung, tràn lên đ̣ làm ch́m mất vô số. Rồi đi xe tay,
đi bộ, mẹ cơng con, chồng dắt vợ, trên vai ṭn ten đôi quang thúng,
có khi tiền bạc th́ quên, lại đem đi mấy cái nồi đất. Tôi xuống tận
Nam Định. Buổi tối, đèn mờ mờ, trông đoàn người ra đi không mảy may
khác những người, chín năm trước, ra đi kháng chiến.
Nhưng vẫn khác, bởi ra đi kháng chiến, người ta tuy lặng lẽ mà
nhộn nhịp, tuy đau khổ v́ tan vỡ, mà hy vọng xa xôi nhưng mănh liệt
vẫn tràn ngập không gian. C̣n lần này ra đi, chỉ có những bóng đen
câm nín cúi đầu xuống mặt đường, và lưng c̣n dưới gánh nặng.
H́nh ảnh của tội lỗi, của hối hận, hay của sự cam tâm chịu
đựng ṿ xé bởi sự ĺa bỏ vĩnh viễn quê cha đất tổ? H́nh ảnh của một
đoàn quân chiến bại?- Không! Hơn nữa, Trung ơi, v́ đây là h́nh ảnh
của những bị người phản bội, bị phản bội trong ḷng tin thắm thiết
nhất. Đây là người nông dân không chịu đổi nóc nhà thờ dột nát lấy
mười mẫu ruộng tốt, đây là người nông dân trọn đời không có ǵ để
cho ai một chút, nhưng ngót tám năm vừa qua đây, không có ǵ để tiếc
không cho kháng chiến.
Kháng chiến với họ không phải là lá quốc kỳ dù đẹp dù xấu,
không phải là bài quốc ca dù dở dù hay, cũng chưa hẳn là một chính
quyền hoàn toàn việt nam hay những quyền tự do căn bản… Kháng chiến,
trong tâm hồn người dân lành, chỉ là làm thế nào cho được sống yên
ổn, dù nghèo đói, thiếu thốn trăm bề, trong căn nhà có bát hương thờ
tổ phụ, bên bờ ao đă soi bóng nhiều đời mẹ hiền, và trên mặt những
thửa ruộng biết bao nhiêu đời nông phu kiên nhẫn đă cầy, đă bừa, cho
nhuyễn cả những viên đá sỏi, cho cây lúa mọc được lên, rồi trĩu nặng
bông vàng dưới một thứ ánh sáng mặt trời không thể có ở nơi đâu
khác. Kháng chiến là làm thế nào giữ cho khỏi đứt đoạn sự quen thuộc
với thôn xóm, t́nh tương trợ của họ hàng, v́ không có những thứ ấy,
người dân lành thấy ḿnh bơ vơ, lạc lơng trong đời sống. Kháng chiến
c̣n nhất là sự giữ ǵn cho toàn vẹn, sự bù đắp cho tăng thêm một
chút gia sản, dù hèn mọn đến đâu cũng vẫn là “của hương hỏa” làm sự
bảo đảm tương lai cho đàn con lũ cháu, sau này.
Đối với người dân lành, kháng chiến là như thế. Dốc một ḷng,
và “để cho con cái chúng ta giữ được như thế lâu dài”, họ đă hy sinh
tất cả những ǵ là của họ. Họ đă chịu cho giặc đốt nhà thờ, chịu cho
du kích tát cạn ao chuôm để xẻ hào giao thông, chịu bỏ cỏ những bờ
xôi ruộng mật v́ những ngày dân công xa vắng. Cuối cùng họ mặc dầu
không được huấn luyện, đă dám cầm thanh mă tấu, cái câu liêm, đi
trước quân đội để đánh Pháp: họ đă liều cái mạng họ. V́ họ tin lời
người cán bộ mà nghĩ rằng “để cho con cái chúng ta được yên hưởng về
sau”! (người nông dân không yêu con kiểu cách như người thành thị.
Không ch́u nựng, không quấn quít. Người nông dân yêu con bằng một
t́nh yêu hồn nhiên, một tâm tư chất phác: Con cái là khả năng làm
cho đời sống không bao giờ tận cùng: Cha mẹ chỉ là một đoạn đường,
trong khi con cái là tất cả, là vĩnh viễn)
Yêu như thế, tin như thế, thế mà họ bị phản bội. Phản bội
không v́ điều đ́nh với Pháp. Phản bội đă đến, ngấm ngầm, dần dà, từ
lâu rồi. Từ ngày họ không được giết con gà cúng bố mẹ, từ ngày Đảng
bắt buộc đấu tranh phải khởi sự giữa vợ chồng, con cái, giữa thôn
xóm, giữa họ hàng. Từ ngày hạt thóc vàng, là kết quả của trăm cay
ngh́n đắng, của vợ kéo chồng cày, phải đem gánh tất cả ra trụ sở
Nông hội xă để nộp thuế Nông nghiệp. Nghĩa là từ ngày họ hết sạch,
cả của lẫn người, nhất là người.
Sự phản bội gây ra thất vọng mênh mông và mất mát trọn vẹn,
đến nỗi bước chân ra khỏi căn nhà quen thuộc, họ không t́m thấy vật
ǵ đáng kể là c̣n lại, đáng đem theo vào một bên quang thúng, cho
cân với bên kia đặt đứa con mới chập choạng tập đi. Đi, đi hẳn, có
khác ǵ chết trong ḷng người dân lành, cái chết héo hắt, dần ṃn
của linh hồn? – Đến chết c̣n kinh ngạc, chưa muốn chịu thật rằng họ
chẳng có một cách nào khác nữa, ngoài sự rời bỏ quê hương, không hy
vọng ǵ trở lại.
Sự ra đi của những người dân lành thật biết bao nhiêu cay
đắng. Bởi nhớ những lần tản cư kháng chiến, họ liều chạy trước tầm
súng giặc, một đỗi đường một đỗi nghi, để quay lại t́m lẫn trong
chân trời, cái vệt thẫm dài là làng xóm, là quê hương họ. Lần trước
họ nh́n lại, nh́n lại là hy vọng. C̣n lần này, họ cúi đầu xuống mặt
đường…
Tôi hiểu nỗi đau đớn của những người nông dân ấy. Thời thế đă
bắt họ trở thành những chiến sĩ, v́ tự họ, họ chỉ muốn cày ruộng,
làm nhà, cuộc đời họ, lành mạnh những tự cao mặc cảm, không bao giờ
muốn tranh cướp. Sức khỏe của họ, trí khôn của họ, họ chỉ quen dùng
vào việc giành giật với thiên nhiên, với mưa nắng, gió băo, với khô
nẻ hay lụt lội, những khóm lúa “chít hết hai gang tay”, có nhiều
bông “lớn như đuôi trâu”. Tâm sự họ đơn giản, họ là người, có thể
một đôi khi gian dối về đấu thóc, thúng gạo hay con lợn, con ḅ,
nhưng họ không bao giờ dám nghĩ người ta có thể lừa nhau về quê
hương, đất nước và tổ tiên. Họ đă ra đi kháng chiến, tin theo bọn
cán bộ, với tâm sự đơn giản ấy. Họ đă bị phản bội, bị “bán đứng cả
cút” cho một thứ chủ nghĩa Cộng Sản nói th́ đẹp vô cùng, mà đến lúc
thực hành th́ hà hiếp bóc lột hơn cả bọn Chánh Sứ, Tây đoan thời
trước.
Họ biết đau khổ, lần đầu tiên trong một lănh vực rộng lớn. Tôi
đoán được nỗi lo sợ của họ ở cặp mắt họ nháo nhác quay ngược, quay
xuôi t́m kiếm, tuy không có ǵ mà chờ đợi. Họ muốn nh́n thấu ư nghĩa
của sự việc đă vượt họ xa quá, để nhận định con đường phải đi cho
tới được yên ổn. Họ thấy tôi đứng một ḿnh bên cột đèn, có lẽ nét
mặt khổ sở của tôi làm cho họ tin tưởng hay chỉ bằng vào cặp kính
trắng là dấu hiệu của con người có học, họ đến gần tôi cất tiếng
hỏi, ngập ngừng e sợ: “ Ông ơi! Chúng cháu đi về đâu bây giờ?”
– Đi về đâu? Người nông dân ra đi để bảo vệ lấy một chút tài
sản tinh thần, người nông dân tiểu tư sản đă hỏi tôi như thế. Lời
hỏi chân thực, họ chắc chắn sẽ đi về hướng tôi chỉ cho họ. Mặc dầu
họ không biết tôi, trong đáy sâu của bản năng họ vẫn tin tưởng ở
tầng lớp trí thức, theo một truyền thống chưa bao giờ đứt đoạn.
– Đi về đâu? Tôi biết trả lời họ ra sao, một khi chính chúng
ta c̣n tự hỏi lẫn nhau câu ấy?
– Đi về đâu? Tôi yếu đuối chỉ tay về phía Hà Nội. Dưới bầu
trời không trăng sao, con đường nhựa thăm thẳm tan vào đêm tối. Tôi
rùng ḿnh, có cảm giác cả không gian thấp xuống, nhỏ lạ trong màu
đen cạm bẫy. Con đường đưa vào đáy một cái túi không lối thoát. Tù
ngục.
Họ đi rồi. Th́ tôi muốn kêu lên, gào lên, để gọi họ trở lại:
Đằng nào cũng chết, thà ở đây mà chết, c̣n bao nhiêu sinh lực hăy
tập trung lại để chết cho can đảm! Nhưng có một chút ǵ ngăn cản
không cho tôi làm cử chỉ tuyệt vọng ấy. Một chút ǵ…… thiết tha,
tính gan góc và ư chí tận tụy của Quảng, tiếng khóc của anh Chắt
Hoe, bước đi của chị Nhiễu thấm máu chân vào rễ cây rừng Nghĩa lộ.
Tôi nhớ lại tất cả sự dai dẳng chịu đựng của con người tiểu tư sản,
của con người t́m tự do, và nhớ lại lời người bạn trẻ về một sự tai
hại cần thiết, một nơi nghĩ dưỡng sức cho những người chiến đấu đă
quá mệt, một địa điểm tập trung những khả năng c̣n đương lên.
Tôi nghĩ: “Chia đôi đất Việt!”
Trong bụng tôi nao nao một sức nặng muốn bồng lên, trong cổ
tôi tanh nhạt một vị kinh tởm, tôi có cảm giác sắp nôn xuống mặt
đường tất cả tim phổi, dạ dày, ruột non, ruột già. Những bộ phận ấy
đă sống v́ kháng chiến, nay kháng chiến bị ô nhục, bị phản bội, tất
cả thân thể tôi bỗng ngập trong mùi máu.
Tôi nh́n lên ngọn đèn vẫn ú áy trong sương đêm. Ngọn đèn đổ
nhào xuống vỉa hè. Tôi choáng váng mày mặt, phải ngồi thụp xuống
đất. Hai tay tôi chống lên những ngọn cỏ mát rượi, tôi đưa tay áp
lên trán, trán tôi nóng rừng rực. Tôi cứ ngồi yên măi như thế lâu
lắm.
Thế rồi đất nước bị chia đôi thật. Trong tâm hồn tôi, như tâm
hồn một bố già thấy chủ bán mất một phần thửa vườn cũ, có những ḍng
nước mắt tê tái, tủi nhục.
Từ Hải Pḥng, tôi nhiều lần trở lên Hà Nội, những tưởng sẽ ra
ngồi khóc trên băi cỏ Hồ Gươm cho nhẹ nỗi đau khổ. Nhưng mỗi lần ra
tới đó, lưng quay vào ṭa Thị sảnh, mặt nh́n ra phía Tháp Rùa, th́
đáng lẽ than van yếu đuối, tôi lại kinh ngạc thấy ḿnh b́nh thản đặt
vấn đề tính toán.
Có lẽ từ trong tiềm thức, tôi đă học được, hay được truyền
tiếp nguồn sinh lực của số đồng bào đông như kiến cỏ trên con đường
Nam Định, Hà Nội. Ở Hà Nội, tôi đi thăm nhiều trại tạm trú của đồng
bào, trong khi chờ đợi phương tiện vào Nam. Đ́nh, chùa, nhà thờ, nhà
thương, trường học, thậm chí trại giam và trại lính, bất cứ đâu,
miễn có đất đặt quang gánh nghỉ chân và có mái che mưa nắng. Tôi len
lỏi t́m người quen không thấy, nhưng đến đâu cũng nhanh chóng thành
quen hết cả. Đồng bào, hàng trăm ngàn người à lên để trả lời chung
những câu hỏi. Hỏi: tại sao đi? Trả lời: V́ không ở được. Hỏi: Tại
sao không ở được? Th́ chính tôi đă trả lời ngay trên đây. Nhưng, mặc
dầu biết chắc ḿnh không lầm, tôi thành thật vẫn muốn nghe tiếng nói
của người trong cuộc.
Tôi hỏi, đồng bào tranh nhau thuật chuyện làng, chuyện nhà, cả
đến chuyện riêng của ḿnh. Một bà mẹ chừng bốn mươi tuổi- thế hệ
chúng ta! Ôm con nhỏ trong cánh tay gầy guộc, vừa kéo vạt áo lau đôi
mắt đỏ mọng vừa kể:
– “Ông ơi, các anh cán bộ xă, các anh ấy bảo chúng cháu bỏ
cúng ông vải, v́ cúng vái là duy tâm, là chống chính phủ Cụ Hồ. Các
anh cán bộ phát động gọi họp ngoài đ́nh để đấu cụ Cử xóm Hạ, bảo là
kẻ thù của nhân dân. Ban Nông hội xă thu thuế bắt phơi khô quạt
sạch, chúng cháu gặt về mười phần phải nộp đến bảy, tám phần rồi.
Rồi đến các anh cán bộ dân công, các anh ấy chia lân thế nào mà mấy
vợ chồng bố con nhà cháu lúc nào cũng có người phải đi phục vụ chiến
dịch. Các anh cán bộ bảo thế nào chúng cháu cũng xin vâng, v́ các
anh ấy bảo thế là theo Cụ Hồ kháng chiến. Chúng cháu cũng muốn kháng
chiến lắm, nếu có phải khổ gấp trăm, gấp ngàn hồi Pháp thuộc chúng
cháu cũng cố chịu.
Người đàn bà nghẹn ngào khi bắt đầu vào đến đoạn thương tâm:
– “ Nhưng về sau có hai điều làm chúng cháu cay đắng, nhục
nhằn quá. Là hồi tháng Một năm ngoái, chúng cháu mới gặt xong tay,
là đảng gọi họp, bảo chúng cháu đấu ruộng, đấu trâu vào, làm chung.
Bố thằng cháu có ư kiến xin cứ để cho ai làm của nấy (v́ chả nói ông
cũng biết, chúng cháu cấy ít mới làm tốt được, tám sào ruộng nhà
cháu là khóm lúa cứ như khóm lúa nếp cả ấy ông ạ) nhưng anh cán bộ
giận dữ, buộc là bố cháu phản động, bảo vệ tư hữu (khốn nạn, chúng
cháu có mấy sào ruộng quèn th́ tư hữu, tư hiếc ǵ!). Bố cháu có nói
muốn làm lấy tốt để cho mấy đứa cháu mỗi đứa một tí, gọi là thơm
thảo của cha của mẹ chúng nó, th́ anh cán bộ bảo cháu cụ Hồ đă có
đảng, có Bác.
– “Sau rồi nghe chừng bố cháu buồn bực lắm, mà những nhân dân
(!) khác cũng thế, anh cán bộ mới bảo nhân dân về thảo luận với các
con, cháu xim chúng nó có bằng ḷng lấy ruộng gia tài không. Bố cháu
bằng ḷng ngay, những tưởng các cháu nó dại, bảo chia ruộng cho
chúng nó th́ chúng nó mừng. Nào ngờ bố cháu vừa hỏi chưa dứt câu,
cái thằng Nhớn nhà cháu này- người đàn bà chỉ đứa nhỏ, chừng tám
tuổi, mắt ráo hoảnh, mặt câng câng- nó đă bảo ngay “ bố bẩn thỉu, ù
ĺ, ngoan cố”. Bố cháu giận quá, có đánh nó mấy cái khẽ, thế mà nó
lu loa lên rằng áp bức nó, cấm đoán nó, không cho nó làm cháu cụ Hồ.
Nó lại c̣n đi báo cáo cho ban xă cảnh cáo bố cháu, là chúng cháu có
đẻ nhưng chính đảng với Bác nuôi, nên từ nay phải ḥa b́nh (!) với
nó. Thế là bố cháu đợi đến đêm hôm ấy thắp hương van với ông bà ông
vải, rồi cuối canh Ba cuốn gói đi ngay”.
Người đàn bà nói đến đây liếc nh́n thằng Nhớn. Mặt nó trân
tráo, đáng ghét quá. Tôi khẽ hỏi, th́ bà cho biết vợ chồng phải lừa
nó ngủ, lấy giẻ nhét vào miệng rồi trói nó lại mà xé rào, vừa cơng
em nó, vừa khiêng nó đi trốn (v́ thế không đem theo được tí đồ đạc
nào hết). Tôi ngạc nhiên, sao vợ chồng bà không để nó lại:- “Cái đồ
bất hiếu bất mục ấy, đem nó đi làm ǵ?”. Nhưng bà ta đă trả lời ngay
tôi rằng “ nước mắt bao giờ cũng chảy xuôi”, rằng “cháu nó dại, nghe
người ta dụ dỗ, rồi bố cháu sẽ khuyên can cháu”
Lời nói đi thẳng vào đáy ḷng khiến cho tôi cảm động. Bao lâu
nay quen dùng kỹ thuật để diễn tả tâm t́nh tế nhị, thiết tha, nhưng
rối ren, giăng mắc, tôi ngạc nhiên thấy cả một bầu trời cao rộng và
xanh trong của t́nh yêu hồn nhiên, giản dị.
Tôi thành thực hổ thẹn, phải nhận rằng bao nhiêu học hành, bao
nhiêu từng trải , chỉ làm cho tâm hồn tôi càng ngày càng thêm suy
yếu. Tâm hồn tôi đâu c̣n có khả năng thương yêu một cách trọn vẹn
đến thế? Và ḷng tin trong tôi không đủ, khiến cho đối trước tương
lai, tôi phải đặt ra bao nhiêu câu hỏi không thể trả lời. Tôi thật
không bằng người đàn bà chẳng bao giờ nghĩ rằng con cái có bổn phận
phải yêu thương và hy sinh ngược lên cho cha mẹ. Tôi học ở trường
“hoài nghi” của tinh thần Pháp, hôm nay thật sung sướng vô ngần khi
nhận thấy trên đời quả nhiên có những tấm t́nh “yêu không đ̣i yêu
lại”.
Tôi lại c̣n được những bài học khác. Bài học về sự khiếp nhược
của chúng ta trên đường đời. Chúng ta nh́n về tương lai, tính đếm
lợi hại, không lúc nào không cần đến sự giúp đỡ bên ngoài: Nào là sự
bảo trợ của một chính quyền dân chủ, nào là quyền tự do cá nhân, nào
là cơ sở kinh tế bắt đầu xây dựng. Cuộc sống của chúng ta là một
chuỗi dài những điều kiện. Chúng ta quá nhiều tự ti mặc cảm, so sánh
với gia đ́nh nông dân kia, đi chỉ đem theo được có hai thứ vốn
liếng: Một là ḷng tin ở ḿnh và ở đồng bào ḿnh, rằng đi bất cứ đến
đâu cũng có những người tốt; hai là ḷng tin ở trời, “trời sinh voi,
trời sinh cỏ”, tin ở trời mà thật ra là chắc bằng vào sức khỏe với
đức tính cần cù, kiên nhẫn và chịu đựng của ḿnh.
Sự thật hết sức rơ rệt, là nếu chúng ta ở vào địa vị họ, trong
một ngàn người chưa dễ có một người đă dám đi tay không như họ. Tôi
đă nói: V́ đời sống của chúng ta phụ thuộc nhiều quá vào những loại
vật chất phù phiếm mà chúng ta tưởng rằng không có không được. Có lẽ
chính v́ thế mà chúng ta không t́m thấy Lẽ Sống. Lẽ Sống h́nh như
phải là định nghĩa của những hoạt động nhất định thiết yếu của con
người, là lao động, tin yêu, và sáng tạo. Lao dộng để bảo vệ lấy bản
thân ḿnh, có bảo vệ được bản thân ḿnh chắc mạnh mới có tin yêu vạn
vật quanh ḿnh, có tin yêu vạn vật quanh ḿnh th́ sự sáng tạo, để
truyền tiếp ṇi giống, truyền tiếp những vẻ đẹp của Vũ trụ và loài
Người, lúc đó mới thật có nghĩa lư.
Thân ái Trung,
Tôi nhiều lần len lỏi giữa đám đông những người nông dân ra đi
để t́m hiểu họ hơn nữa. Trên băi xi măng các phi trường Bạch Mai,
Gia Lâm, có những tốp người quần nâu áo vá chen nhau tránh nắng dưới
bóng những chiếc Dakota hay Nord-Atlas hai thân. Sự hạnh ngộ không
thiếu ư nghĩa sâu sắc, đối với ai kia mới ngày này tháng trước,
thoáng nghe tiếng máy bay ầm ́ đă mau mau xuống hầm, xuống hố, àm
bây giờ sắp trèo vào bụng của chính những con chim dữ tợn ấy, để
ngồi vào đúng những chỗ đặt bom, mắc đạn, làm một chuyến đi suốt đời
không bao giờ mơ tưởng.
Sự hạnh ngộ này, tôi hoảng nhiên thức tỉnh, là cả một cuộc đảo
lộn của lịch sử. Có viên sĩ quan phi công Pháp quặt tay ra sau lưng
để làm thang cho một em nhỏ trèo lên vai, rồi truyền sang ngồi thu
lu trên bánh xe kép của chiếc Nord-Atlas. Lớn, bé, với tất cả số
đồng bào ngồi quanh đấy, cùng nhau vui cười hỉ hả. Cuộc đảo lộn thật
rơ rệt: Giai đoạn thực dân đă hết, giai đoạn sau đă bắt đầu bằng
những chuyến đi tập trung vào miền Nam của những người chống Cộng.
Tôi viết “ giai đoạn sau… chống Cộng”, viết xong mới ư thức
được rằng, từ trước đến nay, chúng ta quả thực chưa từng có một mặt
trận và một giai đoạn chống Cộng. Không kể mặt trận tṛ hề Tâm, Hữu,
những con người yêu tự do, những con người tiểu tư sản đă có lần nào
họp được nhau thành tập thể có trách nhiệm hẳn hoi trước lịch sử?
– Chưa có, nhưng sẽ có, v́ phải có. V́ Nam Việt là cứ điểm
cuối cùng của chúng ta, nếu chúng ta không muốn có ngày biến thành
đồ vật. Vả lại, chính Cộng Sản đă dồn vào Nam-Việt hàng trăm ngàn
đồng bào từ này phải bấu víu lấy nhau để sống. Cộng Sản, khi thắng
Pháp bằng chiến tranh, không ngờ đă hoàn bị cho người tiểu tư sản
một đoàn quân cảm tử. Một đoàn quân, từ nay là cái nhân mănh liệt
trong cái quả dân tộc. Một cái nhân, vốn là cái quả của kháng
chiến…. Nếu chúng duy tâm, sẽ cố nhiên cho rằng Đạo Trời huyền bí,
yếu mà được, mạnh mà thua là như thế.
Nhưng chưa chắc chúng ta đă duy tâm, cũng như chưa hẳn chúng
ta đă duy vật (bôn-sơ-vích). Chúng ta hay biết cứ nhận chân một sự
kiện cụ thể, nó chứng minh rằng sau ba, bốn năm phân ly kẻ bị mê
hoặc, kẻ bị đàn áp tàn nhẫn, th́ bây giờ đồng bào nông thôn, nền
móng của xă hội ta, đă lại trở về với trí thức.
Tôi muốn thú nhận với Trung rằng, ngay lúc này, trong tâm hồn
tôi tràn đầy một viễn tượng tương lai rực rỡ. Những người bạn trẻ
của tôi đă rời khỏi Hà Nội, người đi Pháp, đi Mỹ, người vào Nam, mỗi
người nắm trong tay một kế hoạch cho những ngày sắp tới.
Họ đến thăm tôi để từ biệt, không ai quên nháy một mắt và hất
đầu một cái không đâu, để tỏ vẻ đồng t́nh một cách khoái trá. Riêng
tôi c̣n ở lại, hàng ngày đi tiễn những người lên máy bay không quen
biết, nhưng cũng từng đêm ra ngồi trên bờ Hồ Gươm, lắng nghe tiếng
im lặng của cảnh vật, của ánh đèn tan trên mặt nước, và của cả bóng
đen u uẩn dăi quanh Hồ.
Ḷng hỏi ḷng, tôi thấy ḿnh như con ngựa mệt mỏi dọc theo lối
ṃn kháng chiến quanh co, nay ra đến con đường mới vừa thẳng vừa
rộng, thốt nhiên đâm sợ. Sợ, nhưng cũng có mừng: Đàn ngựa trẻ đang
phóng lên nước kiệu … Tôi linh cảm Việt Cộng lại đương nhầm, nhầm ở
chỗ đáng giá anh em ta quá thấp.
Tôi chấm hết thư ở đây, bằng một điểm hy vọng. Đừng trách nhau
chủ quan. Hai mươi nhăm triệu cái chủ quan sẽ làm nên lịch sử, nghe
đâu tôi đă viết thế cho Trung, trong bức thư thứ nhất, để bênh vực
một ư muốn lạ đời: ĐEM TÂM T̀NH VIẾT LỊCH SỬ.
Hải Pḥng,
Ngày 1 tháng 8, năm 1954, viết hết.
“Nhưng v́ đâu hôm nay
tôi tự nhiên thấy bừng lên trong tâm hồn một ngọn lửa, như ngày c̣n
đương viết về những người bạn bị hạ sát trong cuộc Đấu Tranh Chính
trị của Việt Cộng. Tôi nóng nẩy, muốn trút ngay lên mặt giấy một sự
cần thiết phải gào thét, phải nức nở cho số phận những người bạn tôi
sắp phải chết, ngoài kia, bên trên vĩ tuyến Bắc 17 độ.
… Nói là bạn nhưng chỉ có một số nhỏ là bạn của tôi thật, c̣n
nhiều người mới quen biết sơ qua trên con đường kháng chiến, nhiều
người chưa hề được gặp mặt, nhiều người tôi đáng tôn lên bậc thầy.
Phan Khôi, Đào Duy Anh, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Trương Tửu,
Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… những người ấy sắp bị Việt Cộng
đem ra xử án.
Tôi đủ hiều Việt Cộng để biết đích v́ sao họ phải đem ra buộc
tội công khai những người đáng lẽ họ có thể thủ tiêu bí mật. Nhất
định là trong hàng ngũ của họ có sự nứt nẻ trầm trọng. Một luồng dư
luận mạnh mẽ mănh liệt rơ rệt đương sôi sục lên
giữa những người trí thức. Việt Cộng có thể giết bỏ vài chục
nhân mạng bằng một chuyến may bay định trước cho phát hỏa trên không
trung. Nhưng Việt Cộng cần phải giập tắt cho kỳ được một luồng dư
luận. Việt Cộng cần phải tổ chức cho kỳ được những phiên ṭa công
khai, trong đó từng nguời, từng người trong số những người chủ
trương chống lại chủ nghĩa Staline- Mao - Hồ, phải công khai nhận
tội, sau khi được giáo dục một lần cuối cùng bằng những phương pháp
phát minh bởi đội
M.V.D.. đặc vụ chính trị. Năm 1936, Staline đă dùng thử những phương
pháp ấy vào những vị lănh tụ của thời kỳ tiền khởi nghĩa 1917: tất
cả mọi người đă nhận tội phản đảng, phản quốc, phản nhân dân. Bây
giờ đến lượt những nhà trí thức Việt Nam kháng chiến. Họ sẽ ra ṭa,
ngây độn, ngớ ngẩn v́ nhữngh liều thật nặng của những thứ thuốc
Penthotal, Morphine, Largactil, v́ những đêm đứng cả đêm dưới ngọn
đèn 500 nến, không được nhắm mắt. Họ mệt mỏi cùng cực, với một phần
đầu óc bị tê liệt bởi độc dược, họ sẽ nhận hết mọi tội, xin lỗi Đảng
đủ điều, để chóng được nằm xuống nghỉ, dù là nghỉ chẳng bao giờ c̣n
giậy. Họ sắp phải trả gía, bằng tính mạng, những lỗi lầm của họ năm
1954.
Năm ấy, bằng sự tự ư ở lại miền Bắc, họ đă chấp nhận những
nguyên tắc thiết yếu của một chế độ độc tài. Họ đă nh́n chúng tôi –
chúng ta - ra đi, hoặc thương t́nh, hoặc riễu cợt. Tin tưởng vào lư
luận họ chờ đợi trông thấy giai cấp vô sản nắm quyền chuyên chế nhờ
có sức mạnh của đa số. Họ không phải là người của đa số, họ biết từ
lâu đa số sẽ quá khích và độc đoán. Nhưng họ không phút nào sợ hăi,
viện cớ rằng họ chính là người chỉ đường cho đa số- người ta- bọn
lănh tụ vẫn nói như thế trong suốt thời kỳ kháng chiến.
Họ không chịu rằng họ chỉ là những phương tiện của bọn lănh
tụ, phương tiện dùng để khích động dân chúng reo ḥ băng ḿnh vào
lửa đạn. Phương tiện đă hết mọi tác dụng khi cuộc chiến tạm thời
ngừng lại. Mà họ không chịu biết như thế, nên vẫn c̣n muốn soi sáng
cho dân chúng đi lên con đường tự do, hạnh phúc. Rất có thể họ muốn
lănh đạo cả chính trị, ảnh hưởng cả lănh tụ, bởi nhân danh văn nghệ
sĩ, họ gần gụi nhân dân hơn ai hết. Họ nghĩ ḿnh là những phần tử
thành tâm nhất của chế độ cộng ḥa nhân dân hay xă hội chủ nghĩa lư
tưởng, nếu không phải là những người cộng sản thuần tuư. Họ quên
ḿnh vốn dĩ là trí thức, trí thức tư sản.
Họ, nói cho thật đúng có nhớ rằng từ khi chính phủ công khai
lệ thuộc đảng. Đảng đă có thái độ rơ rệt đối với những kẻ thù số một
là giai cấp tiểu tư sản, lănh đạo bởi tầng lớp trí thức, luôn luôn
bảo vệ nhân phẩm, nhân đạo, tự do cá nhân và t́nh thương yêu từ con
người đến đất nước. Thái độ này nhằm xử trí trước tiên những phần tử
tiểu tư sản đối kháng, chỉ giữ lại một số những kẻ nào chịu đầu
hàng.. Chính họ đă đầu hàng, nên cho chết tinh thần tự trọng để học
tập chối bỏ ông cha và quá khứ. Họ tưởng thật. rằng làm như thế sẽ
được Đảng tha thứ cho cái tội đầu thai nhầm giai cấp.
Cho nên họ không ngờ phía sau những danh từ tốt đẹp của “Cuộc
cách mạng vô sản vĩ đại của nhân dân ta” đă có sẵn một bản án của
bọn lănh tụ. Và tất cả những trọng tội bọn chúng đem buộc cho họ hôm
nay: phản đảng, phản cách mạng, gián điệp, tất cả chỉ để trừng trị
họ dám theo đuổi một khẩu hiệu:”
Độc lập – Tư do – Hạnh phúc” lơị dụng khẩu hiệu ấy để vận động nhân dân,
tranh dành ảnh hưởng trong nhân dân với lănh tụ.
Sự nhầm lẫn của họ sẽ phải trả gía bằng tính mạng.
Nhưng trước khi họ chết, họ sẽ phải hối hận. Những truyện
ngắn, những bức tranh, những bài thơ hay những bài tham luận họ sáng
tạo ra trong ba năm gần đây, hết thẩy đều chứng tỏ niềm thất vọng
cay đắng, xót xa của họ. Đến bây giờ, đọc những bài buộc tội họ, do
bọn học tṛ của họ viết ra, tất họ đă hiểu, Việt Cộng đă quyết định
từ lâu rằng sống tiểu tư sản, họ sẽ chết tiểu tư sản, không bao giờ
không là tiểu tư sản!”
Mặt Trận Việt Minh đeo đuổi mục đích cộng
sản. Nhưng trong số đó có mục đích kháng Nhật, đuổi Tây. Họ hoạt
động có tổ chức và có khoa học nhất trong các đoàn thể lúc bấy giờ.
Yếu tố quyết định là họ có bằng cớ liên lạc với Đồng Minh, được Đồng
minh tiếp tế và giao cho nhiệm vụ t́nh báo kháng Nhật.
Họ chụp ảnh sĩ quan Hoa Kỳ đang huấn
luyện cán bộ, ảnh phi cơ Mỹ thả dù tiếp tế chiến khu. Nghĩa là họ có
chút giao dịch với Đồng minh. Trong khi bao nhiêu hy vọng kháng Nhật
đều đặt vào sự thắng lợi của Đồng minh nên họ nắm được thành phần
quả cảm của giai tầng
tiểu tư sản trí thức đă nhầm lẫn do căn tính vọng ngoại. Qua thành phần
này Việt minh dễ dàng nắm được hầu hết đồng bào cần lao ở nông thôn
và thành thị. V́ thế Việt Minh được hoan nghênh.
“Bao nhiêu hy vọng
kháng Nhật đều đặt vào sự thắng lợi của Đồng Minh, bởi ai nấy đều
hiểu rằng một đội quân cách mạng ô hợp đâu có dám đương đầu với quân
đội Nhật. Đó là lư lẽ khiến một chút giao dịch với quân đội Đồng
Minh có thể giúp cho Việt Minh nắm được hầu hết thành phần quả cảm
của giai tầng tư sản trí thức. Có thành phần này Việt Minh dễ dàng
nắm được hầu hết đồng bào cần lao ở nông thôn và ở thành thị.”
“Thành ra
ngày 17-8 vừa rồi, có trọn vẹn ba lá cờ chạy hiệu, giữa đám biểu t́nh
của Tổng hội Công chức mà huy động được hơn trăm ngàn người đi biểu
t́nh ngày 19. Rồi lại có không đến ba mươi cán bộ Việt Minh thụt
lại phía sau đoàn biểu t́nh vĩ đại ấy mà “cướp” được chính quyền ở
một nước hai mươi nhăm triệu dân.
Trung hăy nghe tôi tả rơ cuộc biểu t́nh tổng khởi nghĩa ngày 19
tháng 8.
Người ta bảo nhau, rủ nhau may
cờ để đi biểu t́nh tuần hành. Ít lắm là đoàn biểu t́nh có một trăm
ngàn người. Nếu đi từng nhà, triệu thỉnh từng người th́ cán bộ Việt
Minh chỉ tập họp được vài ngàn người. Nhưng không mấy ai được gặp
cán bộ. Chỉ cần một
người nói
lên: “19 tháng 8!” thế là đủ một truyền mười,
mười truyền trăm, trăm đến ngàn, đến trăm ngàn.
Chúng tôi vác cả một rừng cờ đến đợi trước nhà Hát Lớn từ bốn giờ
sáng. Măi hơn tám giờ mới có micro với loa phóng thanh. Mấy cán bộ
Thành của Việt minh lên đọc, ngập ngừng, những lời hiệu triệu yếu
đuối so với khí thế bừng bừng của chúng tôi đứng nghe. Hơn mười giờ
bắt đầu biến biểu t́nh thành tuần hành “thị uy” về phía “Bắc bộ
phủ!”.
Người ta đă có quyền hành chính. Bây giờ đi cướp quyền quân sự.
Tượng trưng cho quân đội lúc đó là hơn một ngàn Bảo an binh đóng
ở trại lính Khố xanh cũ, đường Đồng khánh, Rolandes, th́ các
cán bộ đại biểu đi chậm lại rồi mất dạng. Hơn trăm ngàn người dồn
nhau, tiến vào sát cổng trại Bảo an. Cổng đóng. Phía trong cổng hai
khẩu súng máy hạng trung và ước độ năm chục binh sĩ hoặc nằm bên
cạnh súng, hoặc nấp ḿnh sau những bức tường cuốn, súng đặt trên vai
ṇng quay về phía cổng. Người đi đầu -không có vơ khí- trông thấy
hai sĩ quan Nhật đứng giữa lính, muốn quay lại. Người phía sau không
thấy ǵ cả, thúc bách nhau tiến lên. Chen chật quá, tay đă co lên
không buông xuống được, tay đương thơng không co lên được. Cứ dồn
nhau như thế, đến một giờ rưỡi th́ có kẻ xuẩn động ném gạch vào lính
Nhật gác ở ngă tư chợ Hôm, Hàm long. Lính Nhật nổ súng, hai người bị
thương nơi chân. Náo động. Có tiếng hô “Đánh! Đánh!”. Cuộc biếu t́nh
có thể trở nên lưu huyết. Bộ Tư lệnh Nhật, trong năm phút, phái
chiến xa đến chặn tất cả mọi ngả đường vào chỗ đoàn tuần hành. Nội
bất xuất ..cho đến năm giờ chiều. , ngày chớm Thu sắp tàn. Sương bắt
đầu xuống. Cờ vác mỏi tay, đă cuộn giấu vào bụng áo. Chiến xa Nhật
vẫn chặn đường. Một vài người muốn ra về đều thấy lưỡi lê dí vào
bụng. Hoang mang bắt đầu. Phía ngoài hàng rào chiến xa có nhiều
người mẹ đi t́m con, nước mắt chạy quanh. Chỉ một giờ nữa là tối.
Quân Nhật có thể cho từng người một ra về, sau khi khám xét kỹ
lưỡng. Cuộc khởi nghĩa tự nó sẽ tan vỡ. Nhưng bỗng
có tiếng reo lên như động biển. Th́ ra trong sân trại Bảo an,
lá cờ Quẻ Ly vừa hạ xuống, lá cờ của Tổng khởi nghĩa được kéo lên.
Chiến xa Nhật mở máy về trại. Hơn một trăm ngàn người sô nhau ra về,
măi đến bẩy giờ tối mới tan hẳn. Và người ta xôn xao hỏi nhau: “-
Sao? Sao?”. Có người nói không xong, có người lại quả quyết rằng mắt
thấy hai sĩ quan Nhật bị chói chặt giải đi, và Uỷ ban Tổng khởi
nghĩa đă chiếm trọn trại lính.
Nhưng sự thật,sự thật muôn đời là Uỷ ban đă bỏ chết đồng bào trước
họng súng Nhật. May sao trong đoàn tuần hành có một chàng thanh niên
thân Nhật vào được trại, thuyết phục được viên chỉ huy Xuyên điền
(Kawada) làm một cử chỉ tượng trưng là kéo lá cờ mới. Sau hết nài nỉ
măi bằng điện thoại mới yêu cầu được bộ Tư lệnh Nhật mở ṿng vây…
Sự thật của cuộc Tổng khởi nghĩa là như thế đấy Trung ạ.”
Cái nhân của Việt Minh là cộng sản. Việt Minh trưởng thành
tất phải là cộng sản
Chế độ uỷ ban
(quần chúng hạ tầng) là chế độ sô viết không hơn không kém đó là nền
tảng căn bản lư về
thuyết tổ
chức của cộng sản.
Những giai đoạn chiến lược :
Giai đoạn một: Lấy Độc lập làm mồi, dùng tiểu tư sản mị quần chúng.
Giại đoạn hai: Lấy Kháng chiến làm mồi, dùng
Tiểu
Tư
Sản nắm
Quần
Chúng.
Giai đoạn ba: Lấy
Quyền
Lợi làm mồi, dùng
Quần
Chúng diệt
Tiểu
Tư
Sản.
Giai cấp tiểu tư sản theo cộng sản không có nghĩa là giai cấp của
những người có tài sản
trung b́nh không lớn quá để thành đại tư bản, không nhỏ quá để thành
vô sản.
Tiểu tư sản là những ai có đầu óc tham luyến của cải theo nghĩa vật chất lẫn
tinh thần.(tư hữu, có cái tôi, danh dự, nhân phẩm).
Tiểu tư sản theo định nghĩa của Việt minh coi như gồm tất cả mọi
người trong xă hội ngoại trừ hai hạng người:
Giai cấp Đại tư bản có nhiều
tiền bạc, ruộng đất, đồn điền, hăng buôn hay xí nghiệp sản xuất, để
trực tiếp tham dự vào công việc tổ chức và chỉ huy nền kinh tế quốc
gia. Hạng thứ hai coi như đối lập với hạng trên được gọi là vô
sản khi nào từ vật chất đến tinh thần đều lệ thuộc vào một cơ cấu
chỉ huy độc nhất.(thí dụ: Người cộng sản)
Đại tư bản khống chế xă hội bằng phương tiện sản xuất, vô sản không
có phương tiện sản xuất và tiểu tư sản có phương tiện sản xuất nhưng
có không đủ để làm đại tư bản.Nhưng
Cộng sản chủ trương ngay trong lư thuyết, tiêu diệt tự do cá nhân,
giết bỏ tâm hồn để trở thành sắt đá.. Trong khi tiểu tư sản lấy sự
phong phú tâm hồn làm hănh diện, ấy sự yêu thương làm lẽ sống, lấy
danh dự, nhân phẩm, tự do cá nhân là những gía trị của con người nên
tiếu tư sản chính là tử thù của Cộng sản.
Người ta không thể giúp ích cho quốc gia về chính trị nếu không làm
chính trị.
Bọn trí thức hèn mạt nuốt nhục vào ḷng để sống một bề ngoài vinh
hiển.
Một thế hệ dù có được giữ một vai tṛ trọng yếu nhất trong một giai
đoạn lịch sử, vẫn không thể là một dân tộc
Quá khứ đ̣i hỏi con người phải xứng đáng với nó, trong
hiện tại và trong tương lai. Con người không thể phản bội chính cuộc
đời của ḿnh. Thói khôn khéo, luồn cúi, nham hiểm, không phải là đức tính của chiến
sĩ.
Quần chúng sợ hăi nô lệ hơn đói rét.
Sự thất bại phần lớn là do
hỗn loạn nội bộ, chia rẽ, tranh quyền, phân hóa đẳng cấp.
Lạc đường vào lịch sử
Trụ sở Đồng
Minh hội này là trụ sở của Ban thường vụ, có năm anh th́ ba anh là
người của Việt Minh rồi. Cụ Nguyễn Hải Thần bị vụ này đau lắm, v́
trên danh nghĩa chính thức, có bầu bán hẳn hoi năm 1943, cụ chỉ giữ
có nhiệm vụ Uỷ viên giám sát trong Trung Ương chấp hành Uỷ viên hội.
Theo quan niệm của Tôn tiên sinh về một chính quyền dân chủ, th́
quyền giám sát là quyền to lắm, to ngang với lập pháp. Nhưng trên
thực tế, chẳng ai muốn quyền rơm vạ đá làm ǵ. Cụ Nguyễn vốn cả tin,
lại kém tài biện bạch nên bị bọn thanh niên gán cho cái chân Ủy viên
giám sát ấy, để học xung phong giữ Ban thường vụ dưới quyền lănh đạo
của cụ. Thế là cụ không vui vẫn phải vui, không bằng ḷng cũng phải
bằng ḷng. Những tưởng ở trên c̣n có cụ Chủ nhiệm Trương bội Công,
và Tưởng thống chế cũng sẵn sàng hỗ trợ cho tự đằng xa.
Vả lại cuộc bầu bán xảy ra đă lâu rồi. Hồi bấy giờ có ai dám ngờ có ngàynay, mà ông Hồ chí Minh về làm quốc trưởng, mà toàn thể ba Thường vụ bỏ phiếu theo tắp về Mặt trận Việt Minh. Cụ Nguyễn bị họ giằng co, báo cáo về Trùng Khánh vung văi. Thống chế Tưởng giối Thạch chẳng biết tin ai, đành để mặc kệ Lư Hán với Tiêu Văn giải quyết thế nào th́ gỉải quyết. Đồng minh hội thành thử bị cắt làm hai phần, có tác dụng gần giống nhau. Bên cụ Nguyễn người ta coi Đồng minh hội như đ̣an thể ruột của cụ, trong khi Quốc dân đảng là đoàn thể ruột của ông Vũ Hồng Khanh. Cụ Nguyễn đặt trụ sở ở số 23 đường Quan Thánh, c̣n lực lượng quân sự chiếm dẫy nhà của bọn hạ sĩ quan Pháp ở trước - ở đầu phố Cornot, trông thẳng sang vườn hoa Hàng Đậu- và đặt cho nó cái tên rất kêu: Đệ Tam khu, tức khu C, nổi tiếng nhờ những vụ bắt cóc Pháp kiều về chọc tiết trong sân sau. Quyền chỉ huy binh sĩ lọt vào một tay cựu quân nhân trong đội lính khố đỏ: Nguyễn phúc An, sau làm đến Uỷ viên quân sự phó bên cạnh Vơ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. Nhưng An là người vô học, kiến thức lại rất kém, chỉ biết làm cách mạng là thù oán người Pháp, hễ bắt được tên nào đi lạc lơng nơi vắng người là đem về sát hại một cách thật tàn nhẫn. C̣n ngoài ra các vấn đề tuyên truyền, mở rộng phạm vi không được An nói đến bao giờ. Cụ Nguyễn vốn đă không có tài tổ chức, có bí thư là Ḥang Phạm Trân- tứ nhà văn Nhượng Tống - lại càng không biết, vả cũng không thích làm ǵ khác hơn dịch sách , làm thơ, và luận về chính trị được một lúc, hễ đi đến chỗ khó khăn, là nói sang đề tài siêu h́nh, triết học. Đoàn thể Đồng minh hội phía bên này v́ thế nên không sao lớn mạnh được. Như hoa thơm ở trong vườn chờ người đến thưởng thức, cụ Nguyễn Hải Thần chỉ biết ngồi sẵn trong trụ sở, để đón tiếp những người có ḷng thành với nhà cách mạng đă có 50 năm bôn ba nơi hải ngoại. Số người đến như thế tất nhiên rất ít và hầu hết đă đứng tuổi.Họ phần nhiều là những người có tiền của nhưng không có uy quyền, đồng thời cũng rất thèm danh vọng. Tuỳ số tiền mà họ ủng hộ, có người được phong làm bộ trưởng- như nhà doanh nghiệp Đinh Bưởi được giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính – có người được làm cố vấn. Những người đến chậm, khi bao nhiêu chức vụ quan trọng đă được phong tặng hết, đành phải nhận tạm làm tỉnh trưởng, quân trưởng những tỉnh hay quận mà sau này, cụ Nguyễn làm Tổng thống rồi, sẽ giao phó cho họ. Điếu buồn cười nhất là có nhiều ông phú thương đă bắt vợ con, người làm công và bè bạn thân, gọi họ bằng cái chức vụ được hứa hẹn đó. Cách mạng đến như thế , thật là thê thảm.Bên Ban thường vụ tuy không đến nỗi quá quẩn, nhưng Đồng minh hội cũng vẫn là nơi Việt minh dùng để chứa đựng những người mà họ muốn dùng nhưng không thể, hoặc không muốn dụ vào đảng. Nội quy của đảng Cộng sản bắt buốc đảng viên mới phải qua thời kỳ dự bị, phải dự cuộc sinh hoạt dưới cấp thấp nhất. Những người có danh tiếng lớn như mấy ông kỹ sư Đặng phúc Thông, luật sư Nguyễn Mạnh Tường nghe đâu đă được mời vào hội, rồi được bầu ngay vào ban Chấp hành trung ương.
NHẬN ĐỊNH
Xét Nghiệm PCR Về SARS-CoV-2 Hoàn Toàn Vô Nghĩa Về Mặt Khoa Học
Kissinger Report 1974: Tác Động Của Việc TăngTrưởng Dân Số Toàn Cầu
Global Risk Report
https://www.worldsciencefestival.com/videos/evolution-beyond-earth/
BIG PHARMA PFIZER Công Bố Doanh Thu Tóm Tắt Hai Qúy Đầu Năm của 2020-2021
Tiêm Chủng: Công Cụ Lừa Đảo Hiểm Độc Của Chủ Nghĩa Đế Quốc Tài Chính Toàn Cầu
https://knowgenetics.org/genetics-in-the-news/genetic-testing/
https://govextra.gov.il/ministry-of-health/corona/corona-virus-en/
https://www.timesofisrael.com/israels-covid-reproduction-rate-drops-below-1-despite-omicron-fears/
https://www.thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(21)02249-2/fulltext
https://www.pop.org/wp-content/uploads/2020/10/Pandemonium_web.pdf
https://www.schengenvisainfo.com/news/brazil-south-africa-removed-from-list-of-high-risk-countries/
https://headlines360.news/doctors-sign-declaration-blasting-covid-policymakers/
https://exposingvaccinegenocide.org/gates-genocide-partners/
https://intelligence.weforum.org/topics/a1G0X000006O6EHUA0?tab=publications
https://www.collective- Evolution.com/2013/02/26/the-united-nation-exposed-who-is-in-control
https://www.gracevanberkum.com/post/stand-up-speak-up-how-do-we-do-this
https://www.corbettreport.com/interview-1163-spiro-skouras-explains-the-agenda-2030-ocean-takeover/
https://sustainabledevelopment.un.org/post2015/transformingourworld
https://intelligence.weforum.org/topics/a1G0X000006O6EHUA0?tab=publications
https://www.technocracy.news/italys-from-covid-death-count-drastically-reduced-by-over-97-percent/
https://www.weforum.org/covid-action-platform
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
THÁNG 10
Thành Tựu Lớn Nhất Của Trump & Những Thành Tựu Của Tồng Thống Sau 42 tháng. Kim Âu (st)
Donald Trump Học Ở Đại Học Nào? Kim Âu (st)
Donald Trump Trị Gía Bao Nhiêu? Kim Âu (st)
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Thời Trump Kim Âu (st)
Những Tội Phạm Tỷ Phú Kim Âu (st)
Coronavirus, Có Phải Là Vũ Khí Sinh Học Không? Kim Âu (st)
UN, WHO, Gates T́m Cách Thu Hút Quần Chúng Kim Âu (st)
Coronavirus Lockdown Những Chuyện Chưa Kể Kim Âu (st)
Nhận Thức Sai Lầm Về Virus Kim Âu (st)
Covid 19 Không Phải Là Một Loại Virus Mới Kim Âu (st)
Covid 19, Cuộc Lừa Đảo Vĩ Đại Kim Âu (st)
11 Thuyết Âm Mưu Kim Âu (st)
Vũ Hán, Từ Cách Mạng Văn Hóa Đến Covid 19 Kim Âu (st)
Covid 19= Nói Dối Hoàn Toàn Kim Âu (st)
Cuộc Điều Tra Của Thẩm Phán Durham Kim Âu (st)
Nếu Ứng Cử Viên Tổng Thống Qua Đời.. Điều Ǵ Sẽ Xảy Ra Kim Âu (st)
Bất Ngờ Tháng Mười 2020 Kim Âu (st)
Chủ Nghĩa Toàn Cầu vs Toàn Cầu Hóa Kim Âu (st)
Chỉ Có 6% Chết V́ COVID 19 Kim Âu (st)
Đọc: Death By China Kim Âu (st)
Trump's Agenda 2020 Kim Âu (st)
Những Ư Tưởng Nền Tảng Của Republican 2020 Kim Âu (st)
Truyền Thông Bất Lương Che GIấu 7 Sự Việc Quan Trọng Kim Âu (st)
Covid 19 Khai Thác Và Thao Túng Tâm Lư Sợ Hăi Kim Âu (st)
CoronavirusThay Đổi Thế Giới Vinh Viễn Kim Âu (st)
Trang Quyền Lợi Cử Tri (Voter) Kim Âu (st)
Kiểm Soát Dân Số: Hệ Tư Tưởng Ma Qủy Kim Âu (st)
Chiến Dịch Bôi Nhọ Các Bác Sĩ Xác Nhận Thuốc Trị Covid 19 Kim Âu (st)
Yale School of Public Health that was recently published in the American Journal of Epidemiology
Những Khoảnh Khắc Jane Phạm
Cờ Vàng Trong Tâm Tôi Christine Cao
Thôi Về Đi Con Christine Cao
Nợ Quốc Gia Dưới Thời Obama Kim Âu
Dư Luận Viên Báo Nói : Biến Tướng Của Hồng Vệ Binh Kim Âu
Event 21 Mẹ Đẻ Của COVID 19 Kim Âu
Khi Người Quốc Gia Trở Về Bùi Anh Trinh
Người Quốc Gia Hà Văn Sơn Về Nước Bùi Anh Trinh
Dân Chủ Với PheTa: Đó Là Dân Chủ Rừng Rú Kim Âu
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.contagionlive.com/news/cdc-reports-13-million-flu-cases-thus-far-in-201920-season
https://www.kff.org/other/state-indicator/influenza-and-pneumonia-death-rate/?c
https://www.state.gov/the-united-states-announces-assistance-to-combat-the-novel-coronavirus/
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/cases-updates/cases-in-us.html
https://usafacts.org/visualizations/coronavirus-covid-19-spread-map/
Vai Tṛ Của Trung Cộng Trong Chiến Tranh Việt Nam Kim Âu -ST
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/99-01-02-7861
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/proclamation-3204-obstruction-justice-the-state-arkansas
https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards - https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards_(USA)
TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mă: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *