Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Biến cố 30/4/1975: Những bí ẩn lịch sử và những hệ lụy .

 

 

 

Trong diễn văn nhậm chức ngày 20/1/1969 TT Nixon tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh VN trong danh dự. Trước tiên ông vận động VNCH gởi phái đoàn tham dự đàm phán hoà b́nh ở Paris, đến tháng 7/1969 ông bắt đầu cho rút quân Mỹ ra khỏi Nam VN tuần tự theo một lịch tŕnh sắp sẳn. Lúc bấy giờ quân Mỹ ở VN là 543 ngàn. Đồng thời HK viện trợ giúp VNCH kiện toàn sức mạnh để đảm nhận vai tṛ bảo vệ MN tự do trong giai đoạn diễn ra cuộc hoà đàm ở Paris. Dựa vào thiện chí rút quân và giải quyết chiến tranh VN bằng đường lối hoà b́nh, trong năm cuối của nhiệm kỳ (1972) Nixon làm sứ giả hoà b́nh đến Trung Cộng và Liên Xô để t́m hậu thuẫn kết thúc chiến tranhVN.

 

Tháng Giêng 1973 HĐ Paris ra đời, chiến tranh VN chấm dứt không có kẻ thắng người bại. Chỉ có kẻ thắng duy nhất là nhân dân Nam VN, với quyền tự quyết được hiệp định thừa nhận là “quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm”, họ sẽ quyết định tương lai chính trị MN, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Nơi đây, từ sau 1954, một cán bộ MTGP cao cấp là Trần Bạch Đằng đă nhận xét: “HK muốn biến Nam VN thành một tủ kính trưng bày sự phồn vinh của Mỹ”. Rất tiếc chiến tranh triền miên, kế hoạch xây dựng MN phồn vinh chưa thực hiện được. Nay hoà b́nh đă được tái lập, HK sẽ viện trợ đầy đủ cho những nhu cầu cấp thiết để phát triển kinh tế thời hậu chiến. C̣n chính quyền Miền Bắc được HK đề nghị viện trợ gần 5 tỉ đô la giúp chính phủ Việt Nam Dân Chủ Công Hoà hàn gắn vết thương chiến tranh. Sau đó hai miền Nam Bắc sẽ hiệp thương để thống nhất đất nước theo tinh thần HĐ Genève 1954 và Điều 15 của HĐ Paris 1973.

 

Riêng LX và TC đều hưởng lợi từ việc hợp tác, giúp HK chấm dứt chiến tranh VN. HK không dùng quyền phủ quyết, nhờ đó Bắc Kinh gia nhập LHQ, trở thành hội viên thường trực Hội đồng Bảo An, ngang hàng với LX và HK. Hai bên Mỹ và Trung Quốc chuẩn bị b́nh thường hoá bang giao, chấm dứt giai đoạn thù nghịch kéo dài kéo dài một phần tư thế kỷ. C̣n LX được hưởng qui chế ưu đăi mậu dịch của Mỹ, mua lúa ḿ với giá rẻ, được vay tín dụng của Mỹ và dùng số tiền đó mua trang thiết bị của Mỹ. Mối hoà hoăn Nga Mỹ c̣n đưa đến việc tài giảm binh bị, LX thay v́ xử dụng những khoản tiền khổng lồ vào việc tăng cường vũ trang, nay dùng số tiền đó vào việc phát triển kinh tế để đuổi kịp các nước Tây phương.

 

C̣n phần HK, mối lo sợ các con bài Domino ở Đông Nam Á lần lượt rơi rụng vào TC không c̣n nữa. Năm 1973, các nước ĐNÁ đều là đồng minh hoặc thân hữu của Mỹ. Đối với Miền Nam tự do. HK đă giữ đúng lời hứa: sau khi hiệp định hoà b́nh ra đời, bộ máy chính quyền VNCH c̣n nguyên vẹn với đầy đủ các cơ chế hiến định. Trong bối cảnh thuận lợi đó, Nixon mời TT Thiệu sang Mỹ thảo luận việc hợp tác và viện trợ giúp VNCH giành thắng lợi qua cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do có giám sát quốc tế. Nixon c̣n chỉ thị Kissinger trở lại Paris gặp Lê Đức Thọ để t́m cách thi hành HĐ Paris. Ngày 13/6/1973, hai bên đă ra một bản tuyên cáo chung 14 điểm để thi hành nghiêm chỉnh 21 điểm của HĐ Paris.

 

Bước sang 1974, chính quyền Nixon vẫn c̣n cố gắng giải quyết vấn đề Nam VN bằng con đường hoà b́nh. Ngày 20/2/1974 Kissinger lại sang Paris gặp gỡ Lê Đức Thọ. Trong cuộc mật đàm lần này có sự hiện diện của Martin, Đại sứ HK ở Sài G̣n, Kissinger yêu cầu Hà Nội hợp tác với Mỹ để thúc đẩy hai bên miền Nam VN ngồi lại với nhau. Ông đề nghị bước đầu Việt Cộng hăy ngưng bắn ở vùng 3 và 4; VNCH sẽ công nhận VC kiểm soát ở vùng 1 và 2 chỉ trừ Huế và Đà Nẳng. Sau đó HK sẽ áp lực chính quyền Sài G̣n thành lập Hội đồng Quốc Gia Hoà hợp Hoà giải dân tộc để tổ chức tổng tuyển cử.

 

Trở lại Sài G̣n, Đại sứ Martin thúc hối TT Thiệu cho thành lập Hội đồng Quốc gia Hoà giải Hoà hợp dân tộc và thừa nhận việc phân chia lănh thổ mà Kissinger đă đề nghị với Lê Đức Thọ. Ngoài ra, được sự đồng ư của Toà Bạch Ốc, Đại sứ Martin nhờ Đại sứ Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát ngưng bắn chuyển đến Hà Nội một điệp văn, kêu gọi giới lănh đạo Bắc Việt hưởng ứng đề nghị của Kissinger để chấm dứt cuộc chiến tại MNVN (1). Martin c̣n đánh điện về Hoa Thạnh Đốn tŕnh bày nhu cầu và sự hợp lư của việc cắt đất nhường cho Việt Cộng khi tiền viện trợ đă bị cắt (2).

 

Kiên quyết với lập trường “bốn không” (không thừa nhận CS, không trung lập hoá Miền Nam, không lập chính phủ liên hiệp, không nhượng đất cho CS), TT Thiệu khước từ hợp tác với Nixon để thi hành HĐ Paris. Nhưng c̣n một cái “không” nữa mà ông không chịu để ư đến. Đó là: VNCH không c̣n đủ quân viện, sau khi hiệp định hoà b́nh ra đời. TT Nixon đă nhắc nhở điều này rất nhiều lần trong hàng chục lá thư gởi đến ông từ tháng 11/1972 đến 13/6/1973. Nixon khuyến cáo TT Thiệu nên thích nghi với t́nh thế mới. Đó cũng là lời khuyên của Đức Giáo Hoàng Paul VI. Sau khi hội kiến với Nixon ở San Clemente, trên đường về nước TT Thiệu ghé La Mă để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Ngài khuyên ông Thiệu nên t́m cách hoà giải với Chính phủ Cách mạng Lâm thời của VC. TT Thiệu nghĩ rằng “giờ đây ngay đến Giáo Hội cũng ngoảnh mặt đi và rơi vào cậm bẫy tuyên truyền của Cộng sản” (3).

 

Lập trường “bốn không” chỉ c̣n “ba không”

 

Giữa tháng 11/1973 Hạ Viện HK ấn định mức viện trợ quân sự tối đa cho VNCH trong tài khoá 1974 là 1126 triệu đô la so với 2270 triệu của tài khoá trước. Nhưng khi chung quyết, Quốc hội lại cắt giảm thêm, chỉ c̣n 900 triệu. Ông Thiệu vẫn chưa nao núng. Ông c̣n tin tưởng ở lời hứa của Nixon “sẽ trả đũa nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định”. Có điều mâu thuẫn là Quốc hội Mỹ trách cứ TT Thiệu vi phạm hiệp định, nên họ cắt dần quân viện để buộc VNCH phải thi hành nghiêm chỉnh. C̣n TT Thiệu th́ tin tưởng khi BV xé bỏ hiệp định gây chiến th́ TT Nixon sẽ trả đũa.

Ngày 9/8/1974 TT Nixon từ chức, ông Thiệu bắt đầu lo sợ, nhưng hai ngày sau ông vững tin trở lại khi nhận được thư của tổng thống mới của HK là Gerald Ford. Ông ta viết rằng:

“Có lẽ tôi không cần phải thông báo cho Ngài rơ rằng chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ luôn luôn được dựa trên căn bản liên tục và sự ủng hộ của lưỡng đảng. Lúc này đây những tính chất đó lại càng rơ ràng hơn nữa và tất cả những cam kết mà nước chúng tôi đă hứa hẹn với quí quốc trong quá khứ nó vẫn c̣n hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi”. (4)

Có lẽ v́ quá chủ quan nên ông Thiệu chỉ chú ư vào nội dung phần sau của đoạn văn trên mà không đọc kỹ phần đầu. Hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà chỉ ủng hộ chính phủ thi hành nghiêm chỉnh hiệp định hoà b́nh ở VN, v́ thế Quốc hội phải cắt dần quân viện cho VNCH. Điều này đă được thực hiện ngay sau khi Ford nhậm chức. Quốc hội biểu quyết mức quân viện cho VNCH tài khoá 1975 chỉ c̣n 700 triệu đô la so với 900 triệu của tài khoá trước.

Đầu tháng Giêng 1975, Cộng quân đánh chiếm Phước Long, TT Ford vẫn không có một phản ứng nào, B52 vẫn không thấy cất cánh để trả đũa. Ford chỉ yêu cầu Quốc hội khẩn cấp quân viện 300 triệu đôla cho VNCH. Măi đến cuối tháng Hai 1975, phái đoàn lưỡng viện Quốc hội HK mới đến Sài G̣n để duyệt xét lời yêu cầu của TT Ford. Sau khi đi thăm các tỉnh, phái đoàn trở về Ság̣n họp với TT Thiệu để kiểm điểm t́nh h́nh. TS Nguyễn Tiến Hưng mô tả buổi họp “đă biến thành một tra vấn hằn học”. Ai cũng hỏi “tại sao VNCH đă vi phạm ngưng bắn”. Các dân biểu, nghị sĩ gay gắt hỏi Thiệu: “Ông muốn quân viện và kinh viện măi sao, chừng bao lâu nữa? (5)

Chỉ hơn một tuần sau khi phái đoàn Quốc hội Mỹ về nước, vào lúc 2 giờ sáng ngày 10/3/1975 Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột. Bắc Việt đưa 3 sư đoàn chính quy tấn công Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu Đắc Lắc, mở đầu chiến dịch Tây nguyên. Theo ư đồ của Bộ Chính trị Đảng CSVN, từ Ban Mê Thuộc cộng quân sẽ tiến thẳng xuống vùng duyên hải Phú Yên, chia hai miền Nam, giành phân nửa lănh thổ phía Bắc. Ngày 14/3/1975 tại Cam Ranh, TT Thiệu quyết định bỏ ngỏ cả vùng Cao nguyên v́ QLVNCH không c̣n đủ khả năng bảo vệ toàn thể lănh thổ. Ông chỉ thị Thiếu tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn II: “mang chủ lực quân, chiếc xa, pháo binh, máy bay về pḥng thủ duyên hải…lệnh này từ các tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống ai được biết”. Ngày hôm trước, TT Thiệu đă triệu hồi Trung tướng Ngô Quang Trưởng về Dinh Độc Lập, ra lịnh rút bỏ vùng I, đưa hai Sư đoàn Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến về bảo vệ thủ đô.

Kế hoạch rút bỏ vùng 1 và 2 xuất phát từ bản phân tích các mức độ quân viện năm 1975 đă được Thiếu tướng John Murray, Tùy viên Quân lực Sứ quán Mỹ và Trung tướng Đồng Văn Khuyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tiếp Vận QLVNCH phác hoạ hồi tháng 8/1974, trước khi tướng Murray rời nhiệm sở DAO ở Sài G̣n. Theo đó, nếu quân viện là 1,4 tỉ th́ có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả 4 vùng chiến thuật. Nếu 1,1 tỉ th́ Quân khu I phải bỏ. Nếu 900 triệu th́ khó ḷng giữ được Quân khu I và II. Nếu 750 th́ chỉ có thể pḥng thủ vài khu vực chọn lọc. Nếu quân viện dưới 600 triệu th́ chính phủ VNCH chỉ c̣n giữ được Sài G̣n và vùng châu thổ sông Cửu Long (6).

 

Viện trợ quân sự giảm, lập trường “bốn không” của TT Thiệu cũng giảm, nay chỉ c̣n “ba không”, bỏ bớt cái không cuối cùng là nhượng đất cho CS. Ông c̣n tuyên bố “Viện trợ nhiều th́ giữ nhiều, viện trợ ít th́ giữ ít”. Có lẽ v́ suy nghĩ này mà sau này gặp Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ở Luân Đôn, ông cho rằng: “Tôi có trách nhiệm, nhưng không có tội” (Je suis responsible mais pas coupable). Ông không chấp nhận cộng sản, nhưng ông lại bỏ rơi đồng bào và chiến hữu của ông vào ṿng tay cộng sản. Họ phải t́m đường trốn chạy dưới làn mưa pháo của cộng quân. Đó có phải là “hành động vô nhân đạo của một ông tổng thống vô nhân đạo”? Phải chi ông nghe lời khuyến cáo của Đại sứ Martin: VNCH công nhận VC kiểm soát ở vùng 1 & 2, có thể HK sẽ vận động với LX và TC để kế hoạch này thành tựu. Lực lượng hai bên MN ở thế cân bằng, Hội đồng Quốc gia Hoà giải dân tộc được thành lập để tổ chức cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do. Hai bên miền Nam sẽ tái thống nhất, tệ hại nhất cũng là một chính phủ liên hiệp đa đảng.

Ngày 19/4/1975 Hạ Viện HK bác bỏ việc quân viện khẩn cấp cho VNCH, Đại sứ Martin khuyến cáo ông Thiệu từ chức: nếu tổng thống không chịu xuống th́ các tướng lănh dưới quyền sẽ bắt tổng thống làm điều này. Hôm sau trong buổi họp với các tướng lănh, ông Thiệu cho họ biết lời đề nghị của Đ/s Martin và nói với họ “nếu ông là một chướng ngại cho hoà b́nh của đất nước th́ ông sẽ từ chức”. Không ai nói ǵ cả. Thế là đă rơ họ không muốn ông ngồi ở ghế tổng thống nữa. (7)

 

Ngũ Giác Đài: Trung tướng Đồng Văn Khuyên là cộng sản?

 

Chi tiết trên được tiết lộ trong quyển Hồi kư chính trị Đôi Ḍng Ghi Nhớ của cựu Đại tá Phạm Bá Hoa xuất bản tại HK năm 2004. Đ/t Hoa là TMT/Tổng cục Tiếp Vận mà người đứng đầu là Trung tướng Đồng Văn Khuyên kiêm nhiệm chức vụ TMT/Bộ TTM và khi tướng Cao Văn Viên từ chức ngày 25/4/1975, tướng Khuyên là quyền Tổng TMT/QLVNCH. Hồi kư tiết lộ vào buổi chiều ngày 27/4/1975, tướng Khuyên có tâm sự với tác giả xin trích nguyên văn như sau:

- Anh có biết không, Thiếu tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (Lầu Năm Góc tức Bộ Quốc pḥng HK) nói ổng đang ủng hộ một trung tướng cộng sản ngay tại Sài G̣n.

- Ông ta muốn ám chỉ trung tướng phải không?

- Tôi cũng nghĩ vậy.

- Trung tướng có nói ǵ không?

- Không.

- Đến lúc này, trung tướng có quyết định ra đi hay chưa?

Tôi hỏi như vậy là v́ lúc sáng, Y sĩ Chuẩn tướng Phạm Hà Thanh, Cục trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm t́nh h́nh, Trung tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn tướng Thanh cho ông hai chai thuốc độc, và tôi cũng xin hai chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin th́ xin nhưng vẫn chạy. Im lặng một chút, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:

 

- Tôi đă hứa với ổng (tức thiếu tướng Smith), v́ tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu tôi khước từ di tản.

- Thiếu tướng Smith có nói bao giờ th́ đi không, thưa trung tướng?

- Ông được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi.

- Thiếu tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không, thưa trung tướng?

- Giờ thứ 25. Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon.

Giữa trưa ngày 29/4/1975, Trung tướng Đồng Văn Khuyên rời toà Nhà Chánh Bộ TTM, qua cổng sau phi trường TSN để đến cơ quan DAO. Tướng Homer Smith, Tùy viên Quân lực Sứ quán Mỹ đă đứng chờ ở cửa văn pḥng DAO đưa tướng Khuyên di tản. (8)

 

Chiến tranh VN có nhiều điều đau buồn và bí ẩn. Huynh đệ chi binh kết thúc vào giờ thứ 25, thượng cấp ra đi t́m tự do, không một lời từ biệt thuộc cấp ở lại chịu biết bao hiểm nguy đe doạ. Câu chuyện kể trên là một thí dụ điển h́nh trong những bí ẩn lịch sử. Một sử liệu quư về ngày kết thúc chiến tranh. Cả hai nhân chứng lịch sử đều c̣n sống… Nhưng câu chuyện của họ khiến người đọc hồi kư nẩy sinh nhiều thắc mắc:

 

(a) Trung tướng Đồng Văn Khuyên là Cộng sản (nằm vùng) hay là một chiến sĩ Quốc gia có tinh thần hoà giải dân tộc bị CS móc nối?;

 

(b) Đại tá Phạm Bá Hoa đón nhận tin tức thượng cấp của ḿnh là cộng sản, ông không tỏ vẻ ǵ ngạc nhiên. Có phải ông biết tướng Khuyên không phải cộng sản, đó là thái độ của những chiến sĩ VNCH trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ: HK chấm dứt dần quân viện để các bên miền Nam giải quyết công việc nội bộ MN bằng con đường hoà giải dân tộc? Có thể v́ lư do này mà tướng Khuyên đă khước từ di tản theo đề nghị của tướng Smith? Nhưng ngặt nỗi TT Thiệu lên án tất cả những ai không đi theo con đường chiến tranh của ông đều là công sản hoặc tay sai của CS.

 

(c) Tướng Khuyên đứng đầu cơ quan tối quan trọng của QLVNCH là Tổng Cục Tiếp Vận, ông là người đề ra các nhu cầu về tiếp vận cho QLVNCH, trực tiếp tham khảo với DAO để cơ quan này tŕnh xin với Bộ Quốc pḥng HK. Nay Lầu Năm Góc biết ông ta là trung tướng CS mà vẫn hợp tác, tất phải có âm mưu ǵ? Khi chiến tranh sắp kết thúc, Mỹ mới tiết lộ, v́ thế tướng Khuyên “cảm thấy sẽ không an toàn nếu khước từ di tản”. Nếu ông xin di tản là điều có thể tin được, đằng này ông lại nói rằng: “Tôi đă hứa với ổng…” vậy ông hứa những ǵ với tướng Smith? Có phải ông hứa sẽ bàn giao Bộ Tổng Tham Mưu cho CS để tránh đổ máu cho QLVNCH vào lúc chiến tranh sắp kết thúc? Nhưng có lẽ việc này không phù hợp với chủ tâm của HK, họ chỉ muốn những người thuộc thành phần thứ ba thực hiện công việc này, chớ QLVNCH không thể đầu hàng? Có phải v́ lẽ đó, dù ông Khuyên là cộng sản, HK vẫn chấp nhận cho ông di tản?

 

Sở dĩ phải đề cập đến Trung tướng Đồng Văn Khuyên v́ ông là một tướng lănh ít bị tai tiếng nhất. Biến cố 30/4/1975 bắt đầu từ quyết định “di tản chiến thuật” của TT Thiệu khỏi Vùng I và II. Cuộc di tản bị tổn thất nặng nề, phần lớn v́ hệ thống tiếp vận quá yếu kém. Trong thời gian di tản, ông Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận lại mắc bận săn sóc thân phụ bị ung thư đang điều trị ở Nhật.

 

Đại sứ Martin: Không hiều lư do nào Bắc Việt bất chợt quyết định chọn giải pháp hoàn toàn quân sự?

 

Ngày 27/1/1976 Đại sứ Martin được mời điều trần trước Tiểu ban Điều tra Đặc biệt của Uỷ ban Liên lạc Quốc tế Hạ Viện HK về việc di tản hồi cuối tháng 4/1975. Cựu Đại sứ Mỹ tại Sài G̣n xác định: “Phía Liên Xô có cho phía Hoa Kỳ hay rằng Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản của chúng ta”. Và: “v́ phải được bảo mật, tôi là người duy nhất ở Sài G̣n nhận được thông tin do Bắc Việt chuyển qua phía Liên Xô cho hay rằng họ sẽ không can thiệp bằng quân sự vào cuộc di tản của chúng ta”. Ông c̣n tin rằng sở dĩ BV vẫn muốn điều đ́nh một giải pháp chính trị, v́ họ không muốn bước vào Sài G̣n trên một đống gạch vụn”. Lư do khác, theo ông: “Hà Nội c̣n muốn nhận được viện trợ quốc tế nữa”.

 

Các dân biểu chất vấn: “Nhưng nếu Hà Nội không can thiệp vào di tản th́ tại sao lại có vụ pháo kích vào phi trường TSN ngày 29 tháng Tư?”. Ông Martin trả lời: “Theo sự suy nghĩ của tôi, lư do có pháo kích vào phi trường sáng ngày 29/4, là v́ ngày hôm trước đó, chúng tôi bắt đầu cho một số không quân Việt Nam đưa máy bay ra ngoại quốc; tôi nghĩ rằng vụ pháo kích nhằm mục đích chỉ là để ngăn chận việc di chuyển này mà thôi, chớ không v́ muốn chặn cuộc di tản”. Đại sứ Martin cho biết ngày 28/4/1975 ông đă sắp xếp đưa nhiều phi công VNCH và gia đ́nh họ khoảng 2000 người di tản trên 130 chiếc phi cơ đủ loại tới phi trường Utapao ở Thái Lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng “Không quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của ḿnh khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt”.

 

Trong cuộc điều trần trên, đại sứ Martin c̣n cho biết hồi tháng Ba 1975, ông đă có tin t́nh báo là Hà Nội đă quyết định đi tới một một chiến thắng hoàn toàn quân sự, nhưng cả ông và Polgar (Trùm CIA ở Sài G̣n) không tin sự chính xác của nguồn tin này. Theo ông, cùng lúc đó lại có thông tin từ phía đại diện của Mặt trận Giải phóng từ Stockholm (Thụy Điển) và Paris, cả hai đều cho biết rằng họ cũng muốn có một giải pháp chính trị. Thế nhưng, theo ông, “Không hiểu v́ một lư do nào đó, đêm 27/4, Bắc Việt đă bất chợt thay đổ tín hiệu, quyết định chọn giải pháp hoàn toàn quân sự, và như vậy, giải pháp chính trị đă không c̣n nữa”. Martin dẫn chứng trong cuộc họp báo ngày 5/5/1975 Ngoại trưởng Kissinger cũng thừa nhận rằng cho tới ngày 27/4 Hoa Kỳ vẫn có nhiều hy vọng Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự, và c̣n muốn điều đ́nh với ông Dương Văn Minh. (9)

 

Thắc mắc trên của Đại sứ Martin có thể được trả lời vào năm 1979 khi mối xung đột giữa Hà Nội và Bắc Kinh lên đến cao độ, khiến CSVN cho phổ biến tài liệu Sự thật về Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua. Hà Nội tiết lộ trong cuộc chiến VN:  

 

“Những người cầm quyền Bắc Kinh c̣n khuyên Mỹ “đừng thua ở Việt Nam, đừng rút lui khỏi Đông nam châu Á”. Thâm độc hơn nữa, họ t́m cách lôi kéo nhiều tướng tá và quan chức ngụy quyền Sài G̣n hợp tác với họ, thậm chí cho người thuyết phục tướng Dương Văn Minh, “tổng thống” vào những ngày cuối của chế độ Sài G̣n, để tiếp tục chống lại cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền nam Việt Nam”. (10)

 

Sở dĩ “đêm 27/4 Bắc Việt bất chợt thay đổi tín hiệu…” là v́ họ sợ TC can thiệp bằng cách lên tiếng ủng hộ Chính phủ hoà giải hoà hợp dân tộc của ông Dương Minh. Buổi chiều hôm đó, Lưỡng viện Quốc hội VNCH đă biểu quyết chấp nhận ông DVM thay thế ông Trần Văn Hương đảm nhận chức vụ tổng thống. Chiều hôm sau 28/4 ông Minh tuyên thệ nhậm chức, ngay sau đó ông cử người đến tiếp xúc với phái đoàn CS trong trại Davis để bàn chuyện ngưng bắn và hoà giải dân tộc.

 

Đối với Bắc Kinh, họ đă hợp tác với HK kết thúc chiến tranh VN; v́ thế họ không thể chấp nhận MNVN thuộc ảnh hưởng của Mỹ nay lại rơi vào ảnh hưởng Liên Xô khi Hà Nội chiếm được Sài G̣n. Họ không muốn một nước VN thống nhất theo LX nằm sát cạnh sườn ḿnh. Thấy được ư đồ của TC, nước Pháp với chủ trương trung lập (của De Gaulle) muốn trở lại vùng đất ảnh hưởng cũ nên đă liên lạc với Bắc Kinh, t́m giải pháp giúp miền NamVN nằm ngoài ảnh hưởng Nga Mỹ.

 

Qua sự dàn xếp của Chính phủ Pháp, MTGPMN bắn tiếng sẵn sàng nói chuyện hoà b́nh với Chính quyền Sài G̣n nhưng với điều kiện tiên quyết là: Thiệu phải ra đi v́ ông ta là nhân tố cản trở hoà b́nh. Ngày 24/3/1975, khi tiếp xúc Philippe Richer, Đại sứ Pháp ở Hà Nội, TT Phạm Văn Đồng nói bằng một giọng giục giă: “Thế nào, bao giờ th́ người Pháp mới hành động? Giờ đă đến lúc của các bạn ông trong phe thứ ba ở Sài G̣n ra khỏi ṿng dè dặt để lật đổ Nguyễn Văn Thiệu và thành lập một chính phủ khả dĩ có thể nói chuyện với chúng tôi”. (11)

 

Richer vội vàng bay về Paris báo cáo chi tiết mới này, Bộ Ngoại giao Pháp liền tiếp xúc với các thành viên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà MN ở Paris, trong khi Đại sứ Pháp ở Sài G̣n Jean M. Merillon vận động đưa Dương Văn Minh lên thay Thiệu. Ông Minh được xem là nhân vật duy nhất mà phía CS có thể chấp nhận thương thuyết việc ngưng bắn và t́m một giải pháp chính trị cho miền Nam. Pháp hi vọng DVM sẽ thoả hiệp với MTGPMN thành lập chính phủ liên hiệp, thực hiện chính sách trung lập ở MN. Đường lối này được ủng hộ của các nước ASEAN và các cường quốc kể cả TC thể hiện qua lời khuyên của TT Chu Ân Lai với giới lănh đạo Hà Nội hồi tháng 6/1973: “Trong một thời gian chưa thể dứt khoát là 5 hay 10 năm. Việt Nam và Đông Dương nghỉ ngơi được th́ càng tốt, tranh thủ thời gian đó mà nhân dân miền Nam Việt Nam, Lào, Kampuchia thực hiện hoà b́nh trung lập một thời gian”. (12)

 

Qua Đại sứ Merillon, Ngoại trưởng Pháp Sauvegnargues thúc giục TT Thiệu v́ sự nghiêm trọng của t́nh h́nh cũng như v́ quyền lợi đất nước VN và chính bản thân ông, nên rút lui sớm. Sau đó đến lượt Đ/s Mỹ nghĩ rằng với nỗ lực vận động của cựu Đại sứ Bùi Diễm và nhất là ông Trần Văn Đôn -một người có khuynh hướng trung lập và thân Pháp- có thể một chính phủ liên hiệp hoà giải dân tộc sẽ thành h́nh tại MN, do đó Martin khuyến cáo Thiệu nên tự ư xin từ chức.

 

Ngoài ra từ tháng 2/1975, cựu đại tướng Pháp Vanuxem đến gặp TT Thiệu và ông Dương Văn Minh vào những ngày cuối tháng 4/1975. Ông nói ông DVM: “Tôi từ Pháp mới đến… hỏi xem t́nh h́nh hiện nay ra sao rồi”. Ông Minh trả lời: “T́nh h́nh không c̣n hy vọng nữa. Để tránh đổ máu vô ích. Tôi sắp phát thanh lời tuyên bố bàn giao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời”. Vanuxem trả lời: “Không phải hết hy vọng đâu, tôi đă thu xếp xong ở Paris. Đề nghị ông, nhờ Trung Cộng bảo trợ”. DVM nói: “Tôi không có liên lạc với Trung Cộng”. Vanuxem c̣n đề nghị nên cố thủ thêm vài ngày nữa để kịp làm áp lực ngoại giao. Ông Minh một mực khước từ. Ông nói: “Chúng ta đă bán nước cho Mỹ rồi. Bây giờ lại bắt chúng ta bán nước cho Trung Cộng!”. (13)

 

Vấn đề không phải là bán nước, làm chính trị để phục vụ nhân dân, gặp thời thế, thế thời phải thế. Người ta thường nói chiến tranh VN là chiến tranh uỷ nhiệm. Hai miền Nam Bắc đều tố cáo lẫn nhau là tay sai của Nga Mỹ. Nay Bắc Kinh tự nhận là lănh tụ Thế giới Thứ ba, được LX và HK mặc nhiên thừa nhận. Họ ủng hộ thành phần thứ ba ở Nam VN là điều hợp lư. Muốn chấm dứt chiến tranh VN phải nhờ vào ảnh hưởng này của Bắc Kinh, chớ không phải bán nước cho TC. Chiến tranh VN chấm dứt, cuộc chiến uỷ nhiệm không c̣n nữa. Từ đó nhân dân miền Nam VN cũng như nhân dân cả nước sẽ tự quyết định vận mạng đất nước mà HĐ Paris 1973 thừa nhận là “quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của người Việt Nam”.

 

TT Thiệu và những người ủng hộ ông thường buộc tội Kissinger đă “thông đồng” với Liên Xô và Trung Cộng để bán đứng miền Nam Việt Nam. Nhưng sau khi “MN đă bị bán đứng” th́ không thấy các ông ấy đề cập đến những ǵ xảy ra sau đó như sự xung đột và thù hận đưa đến đánh nhau giữa các nước CS anh em. Cuối cùng LX sụp đổ, c̣n TC b́nh thường hoá bang giao với HK để hiện đại hoá đất nước. TC gia nhập WTO trở nên một cường quốc kinh tế mà ngày nay có số ngoại tệ dự trữ lớn nhất thế giới: khoảng 2000 tỉ đôla. Phân nửa ngoại tệ này lại dùng để đầu tư ở Mỹ và mua công trái phiếu của Mỹ!

 

Hai cựu thống VNCH, một ông chửi Mỹ, một ông yêu cầu Mỹ rút khỏi VN, cuối cùng đều đến Mỹ và chết tại Mỹ (2001). Từ 1975 đến 2001, một phần tư thế kỷ với biết bao biến đổi nhưng không thấy họ nói lên những nhận thức ǵ, những bài học mới nào cho đất nước và dân tộc. Biến cố 30/4/1975 gây biết bao thảm hoạ cho dân tộc, ai có trách nhiệm đều có tội với đồng bào. Đó là điều không thể chối căi. Có lẽ nào lại tiếp tục vô trách nhiệm với lịch sử và các thế hệ con cháu mai sau?

 

Biến cố 30/4/1975 và những hệ lụy bi đát ngày nay.

 

Kư giả nổi tiếng thân Cộng là nhà văn Pháp Jean Larteguy có mặt tại Sài G̣n trong buổi trưa ngày 30/4/1975. Ông đă ghi lại ngày VNCH thất thủ như sau:

“Sài G̣n không được giải phóng. Nó bị một đạo quân xa lạ từ miền Bắc tới chiếm đóng. Sự thật là thế. Chúng tôi, 120 nhà báo ngoại quốc ở đây để chứng thật điều ấy. Cộng sản biết vậy và chỉ hai giờ sau đó, đúng hai giờ trưa chúng tôi hoàn toàn bị giam lỏng. Không điện tín, không điện thoại, không được gởi phim ảnh ra ngoài. Bọn ấy bắt chúng tôi im tiếng để có thời gian tiêu hoá hết cái lừa bịp của chúng… Này anh bộ đội, anh đội mũ sắt từ pháo tháp xe tăng ló đầu ra cũng giống như bọn lái xe tăng Xô Viết trước đây tàn sát thường dân Tiệp Khắc ở Prague, giết công nhân nổi dậy ở Budapest, ở Bá Linh. Anh từ đâu tới? Từ Hà Nội, từ Hà Nội…” (14)

 

Cuộc chiến giải phóng MN mà người CS luôn tự hào là chính nghĩa, đă bị huỷ hoại khi họ đưa xe tăng ủi sập cổng chính Dinh Độc Lập đă được mở rộng cửa đón chào “những người anh em phía bên kia”. Họ buộc Chính phủ Hoà giải Dân tộc đầu hàng. Các tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh Sư đoàn 5, Trần Văn Hai tư lịnh Sư đoàn 7, Nguyễn Khoa Nam tư lịnh Quân đoàn IV và viên Tư lệnh phó của ông là Lê Văn Hưng và tướng Phạm Văn Phú cựu tư lịnh Quân Đoàn II và biết bao chiến hữu của họ noi gương các cụ Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương… tuẫn tiết chớ không đầu hàng.

 

Chiến thắng xong miền Nam, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà với ba tiêu đề Độc lập- Tự do- Hạnh phúc, đổi tên thành nước Cộng Hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam theo đúng khuôn mẫu Liên Xô, trong đó Đảng CS nắm quyền độc tôn lănh đạo nhà nước với nền chuyên chính vô sản. Sự phồn vinh của Miền Nam trước 1975 bị coi là giả tạo để xây dựng xă hội chủ nghĩa phồn vinh. Hậu quả là Sài G̣n năm 1975 ngang hàng với Bangkok, nhưng đến năm 1992 theo nhận xét của cựu thủ tướng Singapore Lư Quang Diệu th́ VN tụt đàng sau Thái Lan đến 20 năm.

 

Đất nước có tụt hậu song cũng có ngày tiến lên dù chậm chạp… Nhưng điều đáng nói là biến cố 30/4/1975 đă tạo ra mối hận thù giữa hai đảng CS anh em VN và TQ, mà ngày nay đất nước gánh chịu biết bao hệ lụy. TC là nước đầu tiên trên thế giới công nhận nước VNDCCH, họ đă giúp CSVN rất nhiều trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Từ đầu thập niên 1970, sau khi giúp HK giải quyết êm đẹp cuộc chiến VN, Bắc Kinh được thừa nhận như là lănh tụ các nước Thế giới Thứ ba. Họ kỳ vọng sẽ đứng ngang hàng với LX và HK trong thế ba chân vạc thế giới.

 

Hành động của CSVN trong những ngày cuối tháng 4/1975 coi như là hành động phá bĩnh mưu đồ chiến lược của Bắc Kinh, thách thức đàn anh TC. Từ đó Đặng Tiểu B́nh lên án CSVN là phường vong ân bội nghĩa. Ông tuyên bố “dạy cho VN bài học” và nhiều bài học khác nữa. Sau khi LX sụp đổ, CSVN xin nối lại bang giao với TC. Trong phái đoàn CSVN có Phạm Văn Đồng là người bạn cố cựu của Đặng Tiểu B́nh, song ông ta vẫn không đón tiếp, dù năm 1958 ông Đồng đă gởi công hàm thừa nhận lănh hải 12 hải lư của TC. Trong hơn 30 năm làm thủ tướng, ông PVĐ đă đến BK hàng trăm lần đàm đạo với Mao với Chu (Ân Lai) và Đặng. Nay ông ta là cố vấn Bộ Chính trị Đảng CSVN, nhưng chỉ được gặp đàn em của Đặng ở Thành Đô.

 

Những việc làm chèn ép của TC từ khi mối bang giao Việt Trung được tái lập rơ ràng là trừng phạt kẻ phản bội chớ không phải hữu nghị. Để duy tŕ chế độ độc tôn độc đảng, các lănh tụ Đảng CSVN phải nhượng bộ trước những đ̣i hỏi của Bắc Kinh, làm cho ḷng dân than oán. Sợ rằng một ngày nào đó “thiên triều” thực hiện âm mưu thâm độc trừng phạt kẻ phản bội để xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Trung.

 

Nhớ lại từ khi Ngô Vương Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mở ra thời đại tự chủ trong gần 11 thế kỷ qua, các triều đại Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh không lấn chiếm được một tất đất nào của tổ tiên ta. Ảnh hưởng Trung Quốc đối với VN đă chấm dứt từ khi triều đ́nh Măn Thanh kư hiệp ưóc Thiên Tân 1885 với Pháp và đại diện Trung Hoa Dân Quốc kư Hiệp ước Trùng Khánh với Đại sứ Pháp hồi cuối tháng Hai 1946.

 

Từ 1946 đến ngày nay, cả chục triệu đồng bào đă chiến đấu và hy sinh v́ khát vọng độc lập tự do hạnh phúc. Đánh Pháp đuổi Mỹ giành độc lập thống nhất cho nước nhà, rồi du nhập chế độ XHCN, nền chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp của LX. Cuối cùng là hợp tác toàn diện với TC. Giai đoạn 1945-2009 là đoạn đường dài lịch sử bất hạnh của dân tộc, nhưng khát vọng trên của dân tộc vẫn chưa đạt được.

 

Lê Quế Lâm .

 

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của VNCH. Nhóm nghiên cứu Sử Địa VN xuất bản, Gia Nă Đại, 1979, tr. 161-162

(2) Snep W. Frank, Decent Interval. Random House, NY, 1977, p. 52

(3) Nguyễn Tiến Hưng & J.L. Schecter, Bí Mật Dinh Độc Lập. C & K Promtion, Los Angeles, 1987, tr. 294

(4) Nguyễn Tiến Hưng & J.L.Schecter, Sđd, tr. 403.

(5) Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, tr. 431.

(6) Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh tháo chạy. Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, San Jose, CA, 2005, tr. 235.

(7) Như trên, tr. 388-389.

(8) Phạm Bá Hoa, “Đôi ḍng ghi nhớ”. Báo Sài G̣n Times (Úc Châu), 16-6-2005.

(9) Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Sđd, tr. 384-391 cùng những trích dẫn từ bài điều trần của ĐS Martin.

(10) Sự Thật về Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr. 70.

(11) Nguyễn Khắc Ngữ, Sđd, tr. 340

(12) Sự thật về quan hệ Việt Nam?Trung Quốc trong 30 năm qua, Sđd, tr. 69

(13) Nguyên Sơn, “Sài G̣n: 72 giờ hấp hối”, Việt Luận (Úc Châu), Thứ Sáu 2/5/2008.

(14) Phạm Kim Vinh, Nước mắt Việt Nam. Cơ sở PKV xuất bản, HK, 1982, tr. 117 (Trích L’Adieu Saigon của J. Larteguy)

 

 

 

Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài G̣n sau 1975

Số phận của họ đi theo những ngả đường khác nhau, người ở lại đất nước và được trọng dụng, người ra đi và sống lặng lẽ nơi xứ người…

Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài G̣n từ 1967-1975. Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc sống thầm lặng trong quăng đời c̣n lại ở đây. Ông qua đời ngày 29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.

Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài G̣n. Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 th́ sang Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ), sống với gia đ́nh con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đă bày tỏ mong muốn được trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam b́nh thường.

Trần Văn Hương (1902-1982) là cựu Thủ tướng (1964–1965; 1968–1969), phó tổng thống (1971-1975), rồi Tổng thống trong thời gian 7 ngày (21-28/4/1975) của chế độ Sài G̣n. Sau 1975, ông chọn ở lại quê hương, tiếp tục sống ở căn nhà của ḿnh ở Sài G̣n. Những năm tháng cuối đời, ông sống chung với em gái, em rể, và người con trai lớn là Lưu Vĩnh Châu – từng là một đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, đă tham gia trận Điện Biên Phủ. Ông mất ngày 27/1/1982, hưởng thọ 80 tuổi.

Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) là một sĩ quan cao cấp và là cựu Thủ tướng và Phó Tổng thống của chế độ Sài G̣n. Năm 2004, ông đă về thăm quê hương trong tinh thần ḥa giải dân tộc. Ông mất ngày 23/6 tại một bệnh viện ở Malaysia, thọ 81 tuổi.

Nguyễn Xuân Oánh (1921–2003), là cựu Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân hàng, 2 lần là quyền Thủ tướng trong chính phủ Sài G̣n. Sau 1975, ông tiếp tục được chính quyền mới trọng dụng. Trong tiến tŕnh Đổi mới cuối thập niên 1980, ông đă có đóng góp lớn vào việc cải cách các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài… tại VN. Ông từng là cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Vơ Văn Kiệt và cũng là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN. Ông mất ngày 29/8/2003 tại TP HCM.

Vũ Văn Mẫu (1914-1998) là một chính trị gia kiêm học giả về ngành luật nổi tiếng ở Sài G̣n trước năm 1975. Ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao rồi Thủ tướng của chế độ Sài G̣n. Sau 1975, ông ở lại VN trong một thời gian, rồi sau đó sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông Vũ Văn Mẫu mất ngày 20/8/1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.

Nguyễn Hữu Có (1925-2012) là cựu Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc pḥng và tổng tham mưu trưởng quân lực chính quyền Sài G̣n. Sau năm 1975, ông ở lại VN và phải đi cải tạo đến năm 1987. Tuy vậy, đến cuối năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN và được chính phủ VN xem như một biểu tượng của sự ḥa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù của 30 năm chiến tranh. Ông mất tại TP HCM ngày 3/7/2012, hưởng thọ 87 tuổi. Trong ảnh là vợ chồng ông Nguyễn Hữu Có, chụp vào tháng 2.2012.

Trần Văn Đôn (1917-) là tướng lĩnh cao cấp của Quân lực Sài G̣n và là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc pḥng trong nội các cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 29/4/1975, ông là một trong những người di tản trên chuyến trực thăng nổi tiếng của Mỹ xuất phát từ tầng thượng ṭa nhà 22 phố Gia Long (nay là phố Lư Tự Trọng) ở Sài G̣n. Sau đó, ông sang Pháp định cư và sinh sống ở đó cho tới nay.

Cao Văn Viên (1921-2008) là 1 trong 5 người được phong hàm đại tướng quân lực chế độ Sài G̣n. Ông là vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975) và cũng là người cuối cùng giữ cương vị này của chế độ Sài G̣n. Năm 1975, trước các thất bại quân sự, ông từ nhiệm ngày 27/4 và lên máy bay di tản sang Mỹ. Sau 1975, ông sống lặng lẽ tại Arlington, Virginia. Ông mất ngày 22/1/2008 tại viện dưỡng lăo, thọ 87 tuổi.

Vương Văn Bắc (1927-2011) là một luật sư và Tổng trưởng Ngoại giao vào những năm cuối cùng của chế độ Sài G̣n. Sau ngày 30/4/1975, ông sang Pháp định cư. Nhờ học vấn uyên thâm, ông được ngành luật của nước Pháp trọng dụng và làm việc cho đến năm 80 tuổi mới nghỉ ngơi. Ông mất ở Paris ngày 20/6/2011.

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten