NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN
TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE
NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO
VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT
HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON
NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Đảng chính trị cũng giống như ban âm nhạc hay đội túc cầu… Tuy nhiên đảng có
tham vọng lớn hơn, đó là lập chính quyền và giành lấy chính quyền. Chỉ khi nào
đảng có được chính quyền trong tay, th́ lúc đó đảng mới thực hiện được mục tiêu,
lư tưởng của ḿnh… hoặc tối thiểu đảng cũng phải giành được số ghế trong Quốc
Hội th́ mới phát huy được khả năng hiện thực của đảng. Căn cứ theo kết qủa họat
động, và tùy thuộc tham vọng của đảng, mà người ta có định nghĩa đảng đó theo
như cơ cấu, danh xưng, lư thuyết hay chủ trương họat động.
Trong sách “Chính Đảng và Chính Trị Hoa Kỳ – Parties and Politics in America”
(1960) Clinton Rossister nhận định rằng chính trị đă cứu văn nền kinh tế Hoa Kỳ
trong cuộc đại khủng hỏang vào năm 1930: “Tổ chức cuối cùng đă bẻ găy được chính
sách nô lệ và chủ nghĩa địa phương ở Hoa Kỳ là chính đảng. Người Hoa Kỳ đă nhận
của đảng chính trị những giúp đỡ đầu tiên về tự do, công bằng và t́nh huynh đệ,
cũng như với phương thức thích hợp nhất, các đảng chính trị đă và đang biến cải
những hy vọng và thất vọng vô h́nh, thành những đề nghị có thể hiểu được, có thể
bàn căi được được, để được dân chúng chấp nhận và trở thành hiện thực,” (tr.
100) (1*). Những điều này chứng tỏ tầm mức quan trọng của đảng chính trị trong
thời đại kỹ nghệ (Industrial Revolution) của nhân loại, cũng như đối với hiện
t́nh của dân tộc Việt Nam ngày nay.
Trong nội bộ đảng chính trị cũng có hai cánh tả hữu, đối lập và xây dựng để
thành viên bất đồng ư kiến nhập sang cánh khác mà sinh hoạt, không có chuyện bỏ
đảng v́ thiếu lối thoát. Đảng đối lập đóng một vai tṛ trong việc ngăn cản sự
qúa đà hoặc chuyên chế của đảng cầm quyền, là đại biểu cho những ư kiến khác
biệt, và là động cơ thúc đẩy đảng cầm quyền cố gắng sửa sai. Tuy nhiên trong
thực tế, đối lập cũng luôn t́m cách soi mói và chỉ trích đảng cầm quyền để mong
kiếm phiếu, nhưng chính v́ thế mà họat động xă hội được thăng tiến. Hơn nữa,
đảng đối lập mà không có thực lực chính trị tương xứng với đảng cầm quyền th́
giấc mộng tham chính chẳng bao giờ thành công.
A. Chính Đảng Thế
Giới
Đọc cuốn “Dân chủ và Giáo dục: Giới thiệu các Triết học Giáo dục – Democracy and
Education: An Introduction to the Philosophy of Education” triết gia Hoa Kỳ John
Dewey (1859-1952) nhận xét về đảng chính trị: “Mỗi cá nhân chỉ t́m thấy được sự
an toàn và được bảo vệ, mà đây là tiền đề cho sự tự do, khi họ tập họp lại với
nhau. Và rồi những tập hợp này, để bảo toàn sự hữu hiệu của chúng, giới hạn trở
lại tự do của các cá nhân trong đó… Bây giờ, chúng ta có một h́nh thức tổ chức
giáp xác với những cá thể yếu đuối bên trong và chiếc vỏ cứng bên ngoài.” Và ông
định nghĩa, “Một đảng chính trị tân thời là tập hợp của những người có triết lư,
lư tưởng, mục tiêu, hay ư nguyện tương đồng.” (2*)
Người ta cho rằng, đảng chính trị cũng giống như ban âm nhạc hay hội túc cầu…
Tuy nhiên đảng có tham vọng lớn hơn, đó là lập chính quyền và giành lấy chính
quyền. Chỉ khi nào đảng có được chính quyền trong tay, th́ lúc đó đảng mới thực
hiện được mục tiêu, lư tưởng của ḿnh… hoặc tối thiểu đảng cũng phải giành được
số ghế trong Quốc Hội th́ mới phát huy được khả năng hiện thực của đảng. Căn cứ
theo kết qủa họat động, và tùy thuộc tham vọng của đảng, mà người ta có định
nghĩa đảng đó theo như cơ cấu, danh xưng, lư thuyết hay chủ trương hoạt động.
I. Khuynh Hướng
Chính Trị
Trong chính đảng, cho dù có cùng mục tiêu, lư tưởng, quyền lợi… nhưng khuynh
hướng đảng viên cũng có nhiều khác biệt. Từ dị biệt đảng phân ra nhiều cánh, từ
cực tả đến cực hữu, như cánh cực tả (radical), cánh trung tả (liberal), cánh
trung hữu (conservative), cánh cực hữu (reactionary). Và giữa các cánh tả hữu,
lại c̣n nhiều khuynh hướng cực đoan hơn, như trung lập, trung tả…
1. Cánh Cực Tả
- Muốn có những thay đổi cực đoan.
- Có khuynh hướng xử dụng bạo lực và phương thức bất hợp pháp để đạt được mục
đích.
- Luôn chống đối và theo cách phê b́nh khắc nghiệt đối với trật tự xă hội đương
thời.
- Không bị ràng buộc bởi truyền thống nào.
2. Cánh Trung Tả
- Ủng hộ những thay đổi lớn nếu thay đổi này được thực hiện bằng phương thức hợp
pháp.
- Muốn có đổi mới hơn là cứ giữ nguyên sự việc đang diễn biến.
- Có khuynh hướng đi t́m sự tự do một cách tối đa.
- Chấp nhận có mức độ xáo trộn trật tự xă hội để đổi lấy sự tự do cá nhân.
- Nhấn mạnh đến sự xứng đáng làm người.
- Thành viên trong cánh trung tả thường lạc quan và tin tưởng vào bản chất tự
nhiên của con người.
3. Cánh Trung Hữu
- Ủng hộ những thay đổi vừa phải, chậm từ từ.
- Quan tâm đến sự bảo toàn trật tự căn bản trong xă hội.
- Cho tới những thay đổi chỉ nên có tính cách hoán đổi, chớ không hủy bỏ hoàn
toàn cái cũ.
- Rất yêu nước, tuân hành mệnh lệnh của thượng cấp, chấp hành trật tự và luật
pháp.
- Nh́n nhận con người là chưa hoàn hảo và cần sự giám thị.
4. Cánh Cực Hữu
- Những thành viên thuộc cánh cực hữu thường chống đối những thay đổi chính sách
xă hội một cách cực đoan mù quáng.
- Bảo vệ những địa vị xă hội.
- Sẵn sàng dùng phương thức bất hợp pháp để đạt mục tiêu.
II. Sinh Hoạt
Chính Đảng
Các đảng chính trị luôn phải đấu tranh trong những cuộc tranh cử, bầu cử để có
thể nắm được chính quyền và giữ chính quyền. Những quốc gia như Hoa Kỳ, Gia Nă
Đại, Úc Đại Lợi – các đảng chính trị tổ chức và sinh hoạt theo ba cấp, từ cấp
quốc gia, cấp tiểu bang hay tỉnh, và cấp địa phương (quận). Song hành với tổ
chức hành chính quốc gia, đảng chính trị cũng tổ chức và sinh hoạt ở khu vực bầu
cử.
Đảng chính trị là nhu cầu quan trọng và cần thiết cho chính thể dân chủ. Trong
thể chế chính trị dân chủ đảng chính trị là Đại Biểu Dân Chủ, công dân chọn
người đại diện cho ḿnh từ đảng chính trị vào chính quyền để làm luật và thực
thi luật. Và công dân chọn người đại diện cho ḿnh từ đảng chính trị vào các ghế
trong chính quyền để tranh luận, mổ xẻ các vấn đề quốc gia một cách công khai,
ích quốc lợi dân. Bởi thế đảng chính trị hoạt động với những công tác định sẵn:
- Chọn ứng cử viên vào điều hành văn pḥng công quyền.
- Phụ giúp tổ chức guồng máy chính quyền.
- Làm đối lập với đảng cầm quyền.
- Gây qũy để vận động tranh cử cho những cuộc bầu cử sắp tới.
- Đảng luôn thông báo đến cử tri của ḿnh về những chương tŕnh hoạt động, những
khó khăn mà chính phủ đang gặp phải, cũng như đưa ra tranh luận để t́m ra phương
thức giải quyết
III. Hệ Thống
Chính Đảng
Đảng chính trị thường xử dụng cơ quan ngôn luận báo chí, truyền thanh truyền
h́nh làm phương tiện thông tin phổ biến chương tŕnh hoạt động của đảng. Sở dĩ
phải rộng đường dư luận v́ đảng cầm quyền c̣n hy vọng tái đắc cử, hoặc đảng đối
lập khai thác và phê b́nh yếu điểm của chính quyền, tạo ra điểm thắng cho đảng
ḿnh trong kỳ tranh cử sắp tới. Thông thường chính đảng đơn giản hóa các vấn đề
phức tạp của quốc gia, nhằm làm sao cho cử tri dễ dàng chọn lựa. Muốn đắc cử,
ứng viên đưa ra điểm nóng mà đa số cử tri chú ư, đồng thời cũng là yếu điểm mà
đảng cầm quyền lơ đăng và ít giải quyết.
1. Độc Đảng
Các lănh tụ độc tài rất hoan hỉ và ưa thích phương thức cai trị độc đảng, họ
chấp nhận ma giáo “muôn năm trường thọ, nhất thống giang hồ.” (Tiểu thuyết kiếm
hiệp của Kim Dung). Đảng độc quyền về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa, giáo dục, xă hội… Tuy cũng tổ chức bầu cử rầm rộ, nhưng mục đích gây phấn
chấn nội bộ và đề cao đảng viên với đại chúng… đă bao lănh tụ giải thích chương
tŕnh họat động của đảng tràng giang đại hải và hứa hẹn đủ thứ, nhưng ṭan dân
đă mỏi ṃn chờ trông.
Như tại Việt Nam hiện nay, xin hỏi phổ thông đầu phiếu là ǵ, khi sinh hoạt
chính trị bị cướp khỏi tầm tay người dân, chỉ c̣n hoạt động một chiều: đảng cử
dân bầu?
Dân tộc ta được hưởng ǵ, khi phổ thông đầu phiếu biến thành phương tiện tranh
đoạt dành đặc quyền cho cán bộ có chủ trương thủ đoạn, mạnh được yếu thua?
Dân tộc ta chọn lựa được ǵ, khi mà khu vực bầu phiếu phân chia theo tiêu chuẩn
lợi ích cho đảng cầm quyền?
Dân tộc ta bầu người đại diện cho ḿnh. Nhưng xin hỏi, đại đa số cử tri đă không
biết mục tiêu thực sự của các ứng cử viên; lại nữa, dân biểu tranh đấu cho
nguyện vọng người dân địa phương nhưng lại không được quyền phát biểu trái với
đường lối chủ trương của đảng cầm quyền.
Và rồi dân biểu thay mặt dân, nhưng sau ngày đắc cử họ không c̣n thuộc thành
phần đại chúng hay dân tộc, mà lại gia nhập vào nhóm đặc quyền hưởng nhiều đặc
lợi suốt đời.
Đang khi c̣n tranh đấu, c̣n vận động th́ họ quảng cáo rầm rộ với nhiều chương
tŕnh tân tiến, v́ dân v́ nước… nhưng lấy ǵ bảo đảm cho rằng họ thực thi? Nh́n
lại những ngày bầu cử trong lịch sử, lá phiếu cũng được vận động qua đặc ân tạm
bợ và lời hứa hẹn mị dân, mị cán bộ…. Dân tộc ta sẽ thực sự được ǵ?
Ngoài ra chế độ dân chủ như ở Mễ Tây Cơ cũng là h́nh thức độc đảng, đảng Cách
Mạng (Partido Revolucionario) chẳng thua kém ǵ đảng độc tài Cộng Sản. Đảng này
kiểm soát chính quyền từ năm 1920 và thắng tất cả các ghế ở cấp tiểu bang hay
thành phố lớn; đang khi các đảng phái nhỏ không thể cạnh tranh nổi với đảng cầm
quyền. Hậu qủa của nạn độc tài chính trị đă dẫn tới cảnh dân đói nước nghèo!
Độc đảng dẫn đến quyền lực tuyệt đối, là nguyên nhân tạo ra tai họa cho dân tộc.
Đó cũng là điều chúng ta cần tránh, đừng để vướng mắc sai lầm tái diễn.
2. Đa Đảng
Các quốc gia như Pháp, Ư, Nhật Bản, Tích Lan… đa đảng. Những nước này thường có
bốn năm đảng chính trị mạnh, và nhiều đảng nhỏ. Mỗi đảng lại có một chính sách
riêng về kinh tế xă hội. Một hai đảng “tả khuynh” th́ chủ trương Tự Do, Cấp
Tiến. Một hai đảng “trung dung” có chủ trương Dung Ḥa, Trung Lập. Một hai đảng
“hữu khuynh” lại chủ trương Bảo Thủ.
Quốc gia đa đảng th́ khó có một đảng nào thắng bầu cử để giữ chính quyền, cho
nên phải có hai đảng liên minh thành lập nội các. Khi hai đảng không đồng ư với
chính sách hay chương tŕnh hoạt động chung, th́ liên minh tan ră và thường kéo
theo sự xụp đổ chính quyền. Nh́n chung, hệ thống đa đảng thường làm cho chính
quyền yếu hơn hệ thống lưỡng đảng.
3. Lưỡng Đảng
Hệ thống lưỡng đảng đă thành h́nh ở những quốc gia dùng Anh ngữ, dù rằng có
nhiều đảng nhỏ nhưng chỉ quy tụ nơi hai đảng chính. Anh Quốc có đảng Bảo Thủ
(Conservative) và Lao Động (Labor). Hoa Kỳ có đảng Cộng Ḥa (Republican) và Dân
Chủ (Democratic). Gia Nă Đại có đảng Bảo Thủ Tiến Bộ (Progressive Conservative)
và Tự Do (Liberal) (3*). Hay Úc Đại Lợi có những đảng chính trị nhỏ nhưng một
trong hai đảng lớn giữ chính quyền. Thông thường, dân chúng vùng kỹ nghệ bỏ
phiếu cho đảng Tự Do, vùng nông nghiệp th́ bỏ phiếu cho đảng Bảo Thủ. Mặc dù
trong nước có hai đảng nhưng mỗi đảng lại kiểm soát một vùng, và cử tri bỏ phiếu
cho ứng cử viên đảng ḿnh.
IV. Chính Đảng
Hoa Kỳ
Năm 1787 các nhà lănh đạo chính trị Hoa Kỳ về họp tại Philadelphia soạn thảo
Hiến Pháp, tuy không đề cập đến đảng chính trị, nhưng George Washington chủ tọa
Hội Nghị Lập Hiến thống nhất 13 tiểu bang, và có nhiều lănh tụ đảng phái chống
đối xảy ra. Dù có bất đồng chính kiến, nhưng v́ quyền lợi kinh tế, chính trị, xă
hội của người Hoa Kỳ đă buộc mọi người phải ngồi lại để thành lập tổ chức chính
trị.
Một nhóm người gọi là Nhóm Liên Bang (Federalists) ủng hộ chính phủ Liên Bang
mạnh. Những người chống đối được gọi là Nhóm Chống Liên Bang. Đây là hai tổ chức
chính trị đă h́nh thành trước khi Washington trở thành tổng thống vào năm 1789.
Sau đó hai nhóm này phát triển thành hai đảng chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ:
Đảng Liên Bang (Federalist Party) và Đảng Dân Chủ Cộng Ḥa (Democratic
Republican Party). Đảng Liên Bang lănh đạo bởi Alexander Hamilton muốn có chính
quyền trung ương mạnh. Đảng Dân Chủ Cộng Ḥa lănh đạo bởi Thomas Jefferson ủng
hộ chính quyền trung ương yếu.
Sau cuộc Bầu Cử Tổng Thống năm 1816, lưỡng đảng không giữ được sự thống nhất,
một trong những nhóm của đảng Dân Chủ Cộng Ḥa do Andrew Jackson lănh đạo, tới
khoảng năm 1830, nhóm này tách ra gọi là người Dân Chủ.
1. Đảng Dân Chủ
Đảng Dân Chủ là đảng kỳ cựu nhất hoạt động tại Hoa Kỳ. Có sử gia cho rằng Đảng
Dân Chủ bắt đầu vào những năm 1790 với Thomas Jefferson, nhưng đa số lại quả
quyết nguồn gốc của Đảng Dân Chủ bắt đầu sau chiến dịch vận động tranh cử tổng
thống năm 1824, và Andrew Jackson thắng cử vào năm 1828.
Từ năm 1828 đến 1860, Đảng Dân Chủ thắng tất cả các cuộc tranh cử tổng thống,
mặc dù trong đảng có những bất đồng về các vấn đề như nô lệ, thuế khóa… và gặp
nhiều khó khăn về nội bộ. Tới năm 1832 th́ có nhiều nhóm chống đối lại Tổng
Thống Jackson và thành lập Đảng Tự Do (Whig Party), nhưng Đảng Tự Do không thống
nhất và phát triển đủ mạnh để dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ.
Cho tới thập niên 1850 Đảng Dân Chủ chia rẽ v́ một số người chống đối, hoặc ủng
hộ sự kéo dài chế độ nô lệ. Năm 1860 đảng này đề cử người tranh cử tổng thống,
nhưng không thắng được ứng cử viên của Đảng Cộng Ḥa Abraham Lincoln, và v́ thế
mà Hoa Kỳ lâm cảnh nội chiến vào năm 1861 đến năm 1865.
Từ 1860 đến 1932, Đảng Cộng Ḥa đổ lỗi cho Đảng Dân Chủ gây ra cuộc nội chiến
Civil War. Ngược lại, Đảng Dân Chủ đổ lỗi cho Đảng Cộng Ḥa gây ra cuộc đại
khủng hoảng kinh tế vào năm 1930. Tóm lại, Đảng Dân Chủ giữ ghế tổng thống từ
năm 1933 cho tới 1953 và kiểm soát luôn lưỡng viện quốc hội.
2. Đảng Cộng Ḥa
Đảng Cộng Ḥa khởi đầu bằng những loạt biểu t́nh chống Nô Lệ tại miền Trung Tây
Hoa Kỳ vào năm 1854. Vào thời kỳ này Đảng Tự Do tan ră, và nhiều đảng viên Tự Do
cũng như Dân Chủ ở miền Bắc Hoa Kỳ chống đối sự kéo dài chế độ Nô Lệ. Đảng Cộng
Ḥa là đại diện cho quan điểm này nên đă kết nạp đảng viên một cách nhanh chóng.
Ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng Ḥa đầu tiên ra tranh cử là John C. Fremont
dù bị thất cử nhưng đă chiếm được 11 tiểu bang miền Bắc.
Và từ năm 1860 khi Abraham Lincoln đắc cử cho đến 1928, Đảng Cộng Ḥa thắng 14
trên 18 cuộc tranh cử tổng thống. Chính sách của đảng đáp ứng nhiều nhóm gồm
nông gia, kỹ nghệ và thương gia. Vụ bêu xấu tiền bạc của Tổng Thống Ulysses S.
Grant vào năm 1879, và trước đó, nền kinh tế bấp bênh đă gần làm hỏng cuộc vận
động tranh cử năm 1876.
Năm 1912 Tổng Thống William Howard Taft là lănh tụ đă gây chia rẽ Đảng Cộng Ḥa.
Nhóm Cộng Ḥa Tiến Bộ chọn Theodore Roosevelt làm Tổng Thống từ 1901 đến 1909,
tiếp đến là cuộc tranh cử, và nhóm Bảo Thủ Cộng Ḥa lại chọn Ông William Howard
Taft tái tranh cử tại đại hội đảng tổ chức vào năm 1912. Ông Theodore Roosevelt
ly khai với Đảng Cộng Ḥa để thành lập Đảng Cấp Tiến (Progressive Party). Sự
chia rẽ trong nội bộ đă làm cho Đảng Cộng Ḥa thất cử.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến (1939-45) Đảng Cộng Ḥa lại chứng tỏ cho dân chúng Hoa Kỳ
thấy được dấu hiệu phục hồi sinh lực của đảng. Năm 1946, đảng thắng cử ở Lưỡng
Viện Quốc Hội lần đầu tiên kể từ năm 1928. Cho tới năm 1952 Dwight D. Eisenhower
đắc cử tổng thống và mang lại chiến thắng vẻ vang cho Đảng Cộng Ḥa sau 24 năm
mất ghế. Năm 1956 Tổng Thống Eisenhower tái đắc cử nhưng ông chỉ chiếm được đa
số ở Quốc Hội có hai năm đầu trong tám năm làm tổng thống của ông.
3. Các Chính Đảng
Khác
Tại Hoa Kỳ cũng có nhiều đảng chính trị khác như Tự Do Cộng Ḥa (Liberal
Republicans, 1872), Cấp Tiến (Progressives, 1912), Kim Dân Chủ (Gold Democrats,
1896), Xă Hội (Socialists, 1901), Công Xă (Socialists Workers, 1938)… Nhưng các
đảng này chưa bao giờ thắng cử tổng thống. Những khi tư tưởng của các đảng nhỏ
này vừa đề ra và được đại chúng ủng hộ, th́ ngay lập tức cả hai đảng lớn Dân Chủ
và Cộng Ḥa đều thay đổi đường lối nhằm đáp ứng kịp thời ḷng dân. Nhiều tiểu
bang Hoa Kỳ ủng hộ mạnh cho một đảng, và đảng này kiểm soát tiểu bang. Từ cuộc
Nội Chiến đến năm 1960 đảng Dân Chủ kiểm soát các tiểu bang miền Nam, Cộng Ḥa
kiểm soát các tiểu bang miền Trung Tây.
V. Chính Đảng Úc
Đại Lợi
Nếu chúng ta chấp nhận định nghĩa của triết gia John Dewey, “Một đảng chính trị
tân thời là tập hợp của những người có triết lư, lư tưởng, mục tiêu, hay ư
nguyện tương đồng,” th́ Úc Đại Lợi từ năm 1972 đến 1976, chỉ trong 4 năm hoạt
động đă có trên 60 đảng chính trị. Và như thế, nh́n lại số tổ chức đảng phái của
người Việt Nam sau năm 1975 tới nay, ở quốc nội cũng như hải ngọai, sĩ số c̣n
quá ít với tổ chức đảng phái của người Úc Đại Lợi. Bởi thế, việc tổ chức chính
trị càng nhiều càng tốt, v́ nó giúp cho đại chúng dễ dàng thanh lọc và chọn lựa;
chớ chẳng phải rằng có nhiều tổ chức là biểu hiện của sự chia rẽ như nhiều người
lầm tưởng.
Thực tế, những đảng chính trị có khả năng đưa đảng viên vào lập pháp chỉ gồm có
Đảng Lao Động (Labor Party), Đảng Tự Do (Liberal Party), Đảng Quốc Gia (National
Party), Đảng Dân Chủ (Democrats)… Và theo nhiều nhà phân tích, th́ Úc Đại Lợi
không phải thuộc hệ thống đa đảng mà là “lưỡng đảng,” bao gồm khối lưỡng đảng
(Labor vs non-labor) và khối tứ đảng (Labor, Liberal, National, Democrats).
1. Đảng Lao Động
(The Australian Labor Party, ALP)
a. Nguồn Gốc
Đảng Lao Động là đảng lâu đời nhất của Úc Đại Lợi. Vào thập niên 1890 nhiều cuộc
khủng hoảng xảy ra, nhân công ở New South Wales và Queensland đă đ́nh công dưới
sự điều động của Liên Đoàn Công Nhân (Labor Leagues). Và các cuộc đấu tranh này
đạt được nhiều thành qủa hơn những cuộc đấu tranh chỉ mang tính cách Nghiệp Đoàn
(Union) như tại Victoria và South Australia.
Dân chúng Úc Đại Lợi cho rằng h́nh thức tổ chức Liên Đoàn Công Nhân đă gần gũi
với thợ thuyền và có kỷ luật của một đảng phái rơ ràng hơn. Và những cuộc đ́nh
công trong công nghiệp đă chẳng mang lại những cải cách theo ư muốn của đại đa
số người dân lao động. Biện pháp duy nhất để tạo ra những cải cách là phải thay
đổi các điều luật thông qua Quốc Hội. V́ thế New South Wales và Queensland đă
h́nh thành Đảng Lao Động để tranh cử vào thập niên 1890, và sau đó khi Liên Bang
được thành lập th́ Đảng Lao Động của cấp liên bang cũng được ra đời.
b. Chủ Trương
Nguyên Tắc Căn
Bản của Đảng Lao Động bao gồm 3 điều:
- Thành viên trong quốc hội phải tuân theo đường lối của đảng.
- Caucus, tức là buổi họp các thành viên của đảng nằm trong quốc hội, sẽ có
quyết định ảnh hưởng đến tất cả các đảng viên trong quốc hội.
- Vai tṛ của Đảng Lao Động là liên tục t́m kiếm sự cải cách và b́nh đẳng trong
xă hội.
Đảng Lao Động đă trải qua 3 cuộc biến động lớn:
- Cuộc biến động đầu tiên vào năm 1916, khi chủ trương tổng hợp động viên được
Caucus tán thành, nhưng hầu hết thành viên trong Đảng Lao Động không tán tành.
Kết quả dẫn đưa đến việc thủ tướng, thủ hiến và các vị lănh tụ đảng trong Caucus
phải mất chức.
- Năm 1939 có sự bất đồng ư kiến trong đảng Lao Động về việc đối phó với cuộc
khủng hoảng kinh tế.
- Cho tới năm 1955, Đảng Lao Động bị tách ra làm hai v́ bất đồng chính kiến trên
khuynh hướng phải chấp nhận Cộng Sản hay không. Không riêng ǵ Việt Nam, mà cả
thế giới đă có kinh nghiệm sống, thừa nhận và kết luận rằng Chế Độ Cộng Sản là
không tưởng, là huyền hoặc và lỗi thời.
c. Cơ Cấu Tổ Chức
Đảng Lao Động chia làm 3 cấp cấu trúc: chi bộ nghiệp đoàn được thừa nhận, tiểu
bang, và liên bang.
Các chi bộ được thành lập trên căn bản địa lư với nhiệm vụ vận động bầu cử và
gây qũy. Đảng viên địa phương có quyền tuyển chọn các đại diện tranh cử vào các
chức vụ dân cử nếu người đó hội đủ hai điều kiện: có chân trong một chi bộ, và
đă gia nhập chi bộ trên 6 tháng.
Các nghiệp đoàn đóng đảng phí cho Ban Thường Vụ Tiểu Bang (State Executive) và
cử người đại diện vào các đại hội đảng cấp tiểu bang. Tại Queensland, nghiệp
đoàn có quyền cử đại biểu trực tiếp với ban thường vụ, nhưng ở các tiểu bang
khác th́ nghiệp đoàn phải thông qua cuộc tuyển chọn đại biểu ở vùng bầu cử
(Electorate).
Ban thường vụ tiểu bang gồm có chủ tịch, các phó chủ tịch, thư kư, phụ tá thư
kư, thủ qũy, tổng ủy viên, các phối trí viên tiểu bang, ủy viên truyền thông và
chủ tọa của các công ty. Ngoài ra tại đại hội đảng tiểu bang, người ta c̣n bầu
ra thành viên ủy ban hành chánh, ban tranh tụng, cử tri đoàn trung ương, đại
biểu đại hội quốc gia và ban thường vụ cấp liên bang. Đại hội thường niên cấp
tiểu bang quyết định đường lối, tổ chức và bầu ra ban thường vụ cho năm tới.
Ở cấp liên bang số đại biểu của các tiểu bang đều bằng nhau. Ban thường vụ liên
bang nhóm họp 2 hoặc 3 lần trong năm, gồm có 2 đại biểu của mỗi tiểu bang. Đại
hội đảng cấp liên bang nhóm họp mỗi năm 2 lần và mỗi tiểu bang có 6 đại biểu.
Tất cả các quyết định tối hậu đều do ban thường vụ đảng cấp liên bang quyết định
thông qua một đại hội đảng. Ban thường vụ có nhiệm vụ giữ liên lạc mật thiết với
các đảng viên trong quốc hội.
d.Trung Tâm
Quyền Lực
- Caucus, gồm các đảng viên có chân trong quốc hội, có quyền quyết định chiến
thuật tổng quát và bầu ra hội đồng nội các; Caucus bầu ra lănh tụ đảng và lănh
tụ có quyền đặt ra các bộ trong nội các.
- Đại hội và ban thường vụ đề ra chủ trương chung và xác định ứng viên tranh cử.
- Các chi bộ địa phương và nghiệp đoàn tuyển chọn ứng viên tranh cử và vận động
cư tri ủng hộ cho các ứng viên này. Nghiệp đoàn ở Úc Đại Lợi được hiểu là các
công đoàn lao động, thương mại, tài chánh xin gia nhập đảng và được đảng thừa
nhận (Affiliated Unions).
e. Mối Quan Hệ
Đảng
- Nguyên thủy, do bất tín nhiệm các chính trị gia vào thời thập niên 1890, đảng
đưa người vào chính quyền, rồi xảy ra nhiều vụ cán bộ đảng xé lẻ vào năm 1894…
thành viên buộc phải tuyên thệ và tuân theo quyết định chung. Năm 1916 xảy ra vụ
lật đổ đảng khi Caucus chung quyết “động viên,” là quyết định đi ngược lại
nguyện vọng của đảng và nghiệp đoàn.
- Nhưng cho tới nay chính quyền Lao Động luôn luôn tuân theo đường lối của Đảng.
g. Tài Chính
Tranh Cử
Ở Sydney là nơi mà Đảng Lao Động thường giành được chính quyền th́ giai đoạn
tranh cử trong nội bộ đảng có khi quan trọng hơn cả giai đoạn bầu cử phổ thông.
- Ứng cử viên phải là đảng viên của chi bộ liên hệ đến cuộc tranh cử, hay là
thành viên của một nghiệp đoàn đă được thừa nhận hơn 3 năm liên tiếp, ngoại trừ
trường hợp có sự can thiệp đặc biệt của ủy ban hành chánh. Cuộc bầu cử chia làm
hai phần:
- 50% giá trị tùy thuộc vào cử tri đoàn trung ương. Đoàn gồm có 42 phiếu ở
Queensland, 1 phiếu của chủ tịch đảng tiểu bang, 1 phiếu của người lănh đạo cấp
chính quyền mà ứng viên muốn tranh cử vào v́ người này phải thuộc là người
Queensland, 24 phiếu từ đại biểu nghiệp đoàn, và 16 phiếu từ đại biểu được chọn
từ đại hội đảng tiểu bang.
- 50% c̣n lại sẽ là quyết định của đảng viên các chi bộ trong vùng liên hệ.
h. Chi Bộ (Branch)
Cứ có 7 đảng viên sinh hoạt trong một vùng bầu cử th́ chính thức thành lập ra
một chi bộ đảng mới.
- Đảng viên. Công dân phải hội đủ các điều kiện: trên 15 tuổi; nộp đơn gia nhập
đảng; đóng đảng phí [$52.00, $37.00 hay là $13.00…] tùy theo mức thu nhập của
mỗi cá nhân, và không được có chân trong đảng Phát Xít và Cộng Sản.
Để có quyền bầu cử nội bộ, đảng viên phải đăng kư vào một chi bộ, làm thành viên
của chi bộ trên 6 tháng th́ mới có quyền.
i. Các Nhánh của
Đảng
- Thanh Niên Lao Động Úc Đại Lợi (Australian Young Labor – AYL) đảng viên từ 15
đến 26 tuổi.
- Hội Phụ Nữ Lao Động (Labor Women’s Organisation – LWO) dành cho nữ đảng viên.
2. Đảng Tự Do
(Liberal Party)
Đảng Tự Do là đảng trẻ trung nhất trong hàng ngũ chính đảng của Úc Đại Lợi,
nhưng lại là đảng có nhiều quyền lực và kế tục truyền thống chính trị lâu đời
trong dân chúng của quốc gia này.
a. Nguồn Gốc
Cơn khủng hoảng Caucus của Đảng Lao Động xảy ra vào năm 1931 đă làm cho đảng này
tan ră, và phân chia thành ra ba nhóm. Một trong số nhóm ấy do Joseph Aloysius
Lyons lănh đạo sát nhập vào Nhóm Người Quốc Gia (Nationalists) và thành lập ra
đảng mới có danh xưng Úc Đại Lợi Thống Nhất (United Australia Party). Và trong
cuộc tranh cử phổ thông đầu phiếu đầu tiên năm đó, Đảng Úc Đại Lợi Thống Nhất
thắng cử vẻ vang. Nhưng sau thời gian cầm quyền, đảng này càng ngày lại càng bị
yếu thế bởi cấu trúc lỏng lẻo, không đáp ứng kịp nhu cầu nhân tâm và t́nh h́nh
thực tế. Mặc dầu đảng mang danh nghĩa đại diện ở cấp liên bang, nhưng tại nhiều
tiểu bang đảng này lại không có đại diện. Thứ rồi ở một số tiểu bang, đảng viên
lại hoạt động không mang danh nghĩa Đảng Úc Đại Lợi Thống Nhất mà tuyên xưng
thuộc về Nhóm Người Quốc Gia.
Tới tháng 8 năm 1944 trong cuộc trưng cầu dân ư về việc chính quyền liên bang có
thẩm quyền trên các mặt kinh tế và xă hội hay không… Robert Gordon Menzies nhân
dịp tấn công Đảng Úc Đại Lợi Thống Nhất, đứng lên kêu gọi thành lập Đảng Tự Do
(Liberal Party). Menzies lập luận rằng theo cuộc trưng cầu dân ư đă chứng minh
đất nước Úc Đại Lợi phát triển là theo đường hướng với nếp sống tự do. Hơn nữa,
người dân hoàn toàn tin tưởng vào chính quyền Tự Do Dân Chủ đương thời, mà họ
không chấp nhận chủ trương Xă Hội Chủ Nghĩa.
Menzies quả quyết rằng hệ thống Tự Do Dân Chủ đưa dân nước Úc Đại Lợi tiến tới
phồn thịnh trong tương lai, và vào năm 1945 ông chính thức thành lập Đảng Tự Do.
Ông kêu gọi các thành phần trong Đảng Úc Đại Lợi Thống Nhất, và những ai muốn có
khuynh hướng sống tự do dân chủ th́ hăy gia nhập Đảng Tự Do. Trong thời gian
thành lập này Đảng Nhân Dân Queensland (Queensland’s People Party) sát nhập vào
Đảng Tự Do tạo ra thế kết hợp đầu tiên, nhưng lại giữ nguyên cơ chế tự trị của
tiểu bang, và điều này trở thành nguyên tắc chủ yếu trong sinh hoạt của Đảng Tự
Do.
Đảng Tự Do biết uyển chuyển khi phải đương đầu với những vấn đề chính trị phức
tạp, và tranh thủ nhân tâm. Tự Do nhấn mạnh đến tự do cá nhân, khuyến khích cá
nhân t́m lối sống riêng sao cho phù hợp với sự tự do của ḿnh mà ḿnh mong muốn.
Thành thử Đảng Tự Do đă đề ra chính sách ủng hộ các công ty tư nhân, và đảng coi
lợi ích của các công ty tư nhân này là phần thưởng cố gắng, hay nỗ lực cá nhân
mà ra, mà có.
b. Chủ Trương
Đảng Tự Do vốn chủ trương chống lại Xă Hội Chủ Nghĩa, không đồng ư với Đảng Lao
Động về quyền kiểm soát rộng răi của chính quyền Lao Động trong việc phát triển
cuộc sống và công ăn việc làm của người dân. Tự Do cương quyết không xử dụng
ngân sách quốc gia cho các vấn đề y tế hay an sinh xă hội.
Ví dụ, Tự Do xóa bỏ Medibank, một h́nh thức bảo hiểm y tế của chính phủ rất cồng
kềnh và tốn kém nhiều ngân sách quốc gia do chính quyền Lao Động thành lập; và
đang khi Đảng Tự Do lại khuyến khích dân chúng mua bảo hiểm tư.
c. Cơ Cấu Tổ Chức
Mạng lưới tổ chức của Đảng Tự Do, nh́n chung cũng tương tợ như Đảng Xă Hội, cũng
có những chi bộ địa phương làm hạ tầng cơ sở, và đảng bộ trong mỗi tiểu bang.
Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa Đảng Tự Do và Đảng Lao Động là quyền lực của đảng
viên trong Quốc Hội. Các thành viên Tự Do có quyền tự quyết những vấn đề về
chuyên biệt mà nhiều khi có quyết định đi ngược lại chung quyết của Đảng Tự Do
đề ra. Nhưng trong những trường hợp nếu có, th́ Đảng Tự Do cũng đành miễn cưỡng
mà chịu chấp nhận, chớ không phê bác.
Ngay trong Quốc Hội, Caucus của Tự Do là những người nằm trong Quốc Hội, nhưng
nhiệm vụ của những đảng viên này chỉ bầu ra lănh tụ, rồi sau đó lănh tụ này tự ư
chỉ định nội các, chớ không do đảng chỉ định.
Tự Do với phương châm là “đảng lănh đạo tự nhiên.” Điều này có nghĩa là đảng
không có đoàn thể chính thức ủng hộ cho đảng như những nghiệp đoàn trong Đảng
Lao Động. Và Đảng Tự Do có sự ủng hộ ngầm của các giới thương gia doanh nhân.
3. Đảng Nông Thôn
Quốc Gia (The National Country Party)
Nông Thôn Quốc Gia là đảng phát triển trong thời Đệ Nhất Thế Chiến, được sự ủng
hộ của các tổ chức nông gia, v́ họ cần có tiếng nói trong Quốc Hội để bênh vực
cho quyền lợi của người nông thôn. Năm 1923 Đảng Nông Thôn Quốc Gia trở thành
đồng minh với Đảng Quốc Gia (The Nationalist Party). Đó là giai đoạn khởi thủy
nền tảng liên đảng được tạo ra để chống lại Đảng Lao Động (Anti-Labor) ở cấp
tiểu bang và liên bang.
Nông Thôn Quốc Gia chú trọng đến những quyết định liên quan tới đời sống kỹ nghệ
ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, đảng này lại chiếm được nhiều ghế hơn là mức độ mà
giới truyền thông vẫn thường suy đoán, v́ họ chỉ dựa trên thống kê.
Thế mạnh của Đảng Nông Thôn Quốc Gia là đảng đứng trên quan điểm và lập trường
“đoàn kết - thẳng thắn.” Tuy nhiên từ ngày thành lập tới nay, Nông Thôn Quốc Gia
phải đương đầu với hai vấn đề lớn. Thứ nhất, sau Đệ Nhất Thế Chiến, dân số Úc
Đại Lợi tăng trưởng gấp ba lần, phần lớn lại bỏ nông thôn vốn có đời sống lam lũ
mà tụ tập về chốn phồn hoa đô hội sẵn có công ăn việc làm; từ đó, tỷ lệ phiếu
của vùng nông thôn đă bị giảm sút. Thứ hai, Đảng Tự Do – một đối thủ đồng minh
của liên đảng đang dần dà tiến vào giành ghế với Đảng Nông Thôn Quốc Gia trong
vùng nông thôn với khuynh hướng tự do.
4. Các Đảng Phái
Khác
Các đảng nhỏ khác thường đấu tranh cho một vấn đề tương đối nhỏ hẹp. Do đó, mỗi
khi có vấn đề không c̣n tồn tại th́ các đảng nhỏ này phải vất vả để duy tŕ sự
tồn vong của họ. Thứ đến họ cũng không có những nguồn tài trợ dồi dào như chính
đảng lớn, và họ không có đại diện trong Quốc Hội th́ cũng ít được giới truyền
thông báo chí nhắc tới.
5. Đảng Dân Chủ
Lao Động (The Democratic Labor Party)
Đảng Dân Chủ Lao Động là mảnh vụn vỡ ra từ Đảng Lao Động năm 1955, khi họ bất
đồng chính kiến với người Cộng Sản. Sự kiện Dân Chủ Lao Động tách rời ra cũng
làm ảnh hưởng đến Đảng Tự Do trong việc thay đổi bầu cử, đẩy mạnh phong trào
chống Đảng Cộng sản trong vùng Châu Á.
Vào thời kỳ đầu năm 1970, Tự Do đạt đến cực điểm trong chính trị, chiếm 5 ghế
trong thượng viện liên bang. Nhưng tới năm 1974 Tự Do lại bị thất bại v́ không
c̣n giữ được ghế nào rồi dẫn tới việc ngưng hoạt động của đảng vào năm 1978.
6. Đảng Người Úc
Dân Chủ (The Australian Democrats)
Donal Leslie Chipp, cựu thành viên của Đảng Tự Do, đứng ra thành lập Đảng Người
Úc Dân Chủ vào năm 1977. Đường lối của đảng là trung dung giữa hai phe Lao Động
và Tự Do. Chỉ trong 9 tháng đầu hoạt động đảng đă thâu nhận được 120 thành viên,
chiếm được 2 ghế Nghị Sĩ. Tuy nhiên tới nay đảng này cũng gặp nhiều khó khăn về
tài chánh.
Đảng chính trị mà chúng ta mong muốn sớm có hôm nay, th́ đảng đó không nên đóng
khung trong một tôn chỉ hay một chủ thuyết nào, mà cần ứng dụng bằng những chính
sách chính trị thực tế, và tránh nạn giáo điều. Muốn được như thế, chúng ta kết
hợp sao cho hài ḥa giữa hai hệ thống tư tưởng của dân tộc và nhân loại, rút tỉa
tinh hoa văn hóa Tiên Rồng đưa vào quốc sách chính trị th́ Việt Nam mới có cơ
may thành công.
VI. Nhiệm Vụ Chính Đảng
Ở những nước độc đảng (Cộng Sản, Hồi Giáo), đảng viên ứng cử được chọn vào ghế
trong chính quyền, họ giữ các chức vụ quan trọng nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi
của họ mà họ đang cai trị. Đương nhiên bầu cử của họ phải thắng với tỷ lệ 100%,
hoặc 95% v́ không có đối thủ cạnh tranh. Nhưng quốc gia đa đảng/lưỡng đảng, mỗi
đảng tranh cử tại nhiều địa phương với nhiều chức vụ ở những cấp độ khác nhau.
Bởi thế cử tri có cơ hội chọn ứng viên tranh cử, và người nào nhiều phiếu th́
đắc cử.
Vào thời mới lập quốc ở Hoa Kỳ, các lănh tụ chọn người vào ghế chính quyền bằng
những phiên họp của các ủy viên gọi là Caucus. Nhưng h́nh thức này trở thành
không phù hợp ḷng dân, v́ có nhiều ứng cử viên của các đảng phái khác bị thất
lợi trong cuộc xây dựng và phát triển công quyền. Hơn nữa, một người hay một
nhóm nhỏ cũng có thể kiểm soát Caucus để đạt đến mục đích cá nhân. V́ thế từ năm
1840 tới nay thể thức đại hội chọn ứng cử viên đă trở thành phổ quát. Theo thể
thức này, đảng viên sẽ chọn ứng viên đại diện cho ḿnh qua kỳ đại hội. Nhưng rồi
lănh tụ đảng và guồng máy đảng đă kiểm soát được đại hội. Nhiều đại biểu bầu
phiếu lại thực hiện theo chỉ thị, hoặc được mua chuộc. Đại hội tới nay vẫn c̣n
tổ chức tại một số tiểu bang Hoa Kỳ để chọn ứng viên cấp tiểu bang, cấp địa
phương, hoặc thảo luận những công tác nội bộ.
Hai đảng chính trị quan trọng là Dân Chủ và Cộng Ḥa tổ chức những đại hội toàn
đảng mỗi bốn năm một lần, để chọn ứng viên tổng thống và phó tổng thống. Bắt đầu
những thập niên 1900 nhiều tiểu bang đă thay thế đại hội đảng bằng phiếu sơ cấp
để chọn ứng cử viên, cũng như muốn tránh sự kiểm soát của đảng vào các ứng cử
viên. Bởi thế các tiểu bang ở Hoa Kỳ ngày nay tổ chức công khai hay nội bộ bầu
cử sơ cấp. Trong cuộc bầu cử công khai, mỗi cử tri nhận phiếu ứng cử viên của
các đảng. Tại thùng phiếu, cử tri chọn phiếu của ứng cử viên mà ḿnh đă tuyển.
Và trong cuộc bầu cử nội bộ, cử tri thường chỉ chọn phiếu ứng cử viên của đảng
ḿnh.
1. Tập quyền -
tản quyền
Những nước có hệ thống tập quyền như Anh, Pháp, Ư… th́ chính phủ trung ương nắm
giữ nhiều quyền hành kể cả quyền kiểm soát các địa phương. Nhưng những nước có
hệ thống liên bang như Hoa Kỳ, Gia Nă Đại, Úc Đại Lợi… th́ quyền hành được phân
ra giữa trung ương, và tiểu bang, hay tỉnh bang.
Những nước có thể chế trung ương tập quyền, các đảng chính trị tập trung để được
quyền kiểm soát, tổ chức chính quyền trung ương, và các chính đảng cũng tổ chức
và hoạt động theo cấp độ này. Và những nước có thể chế chính trị tản quyền, th́
các chính đảng cũng phải hoạt động và tổ chức sao cho phù hợp với thể chế như
tổng thống hay đại nghị.
2. Thể Chế Tổng
Thống
Hiến Pháp Hoa Kỳ ấn định sự phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp.
Tổng thống không phải là đại biểu quốc hội, và cũng không phải là người của nội
các, mà tổng thống được chọn qua cuộc phổ thông đầu phiếu. Trong Quốc Hội,
thượng viện với các thượng nghị sĩ là tiếng nói của người dân, và hạ viện với
các dân biểu là tiếng nói của chính quyền.
3. Thể Chế Đại
Nghị
Thể chế dân chủ đại nghị như Anh Quốc th́ người lănh đạo là thủ tướng. Thủ tướng
phải là đại biểu quốc hội và thường là lănh tụ của đảng có đa số ghế tại hạ
viện. Thủ tướng chọn thành phần nội các là những lănh tụ các cấp của đảng có đa
số ghế tại quốc hội. Anh Quốc là nước mà thủ tướng và chính phủ là những người
có cả quyền lập pháp và hành pháp. Họ là nhân viên của lập pháp và chịu trách
nhiệm việc thi hành luật. Nếu chương tŕnh của thủ tướng không được quốc hội
chấp thuận th́ đảng đối lập yêu cầu tổ chức tuyển cử. Và dân bỏ phiếu lưu giữ
chính phủ, hoặc là cho phép đảng đối lập có cơ hội thành lập tân chính phủ.
Mỗi đảng ở thượng viện và hạ viện đều chọn lănh tụ tại mỗi viện (floor leader)
và phụ tá (whip). Lănh tụ đảng tại mỗi viện hướng dẫn đảng viên trong việc thảo
luận và đề nghị dự luật. Người phụ tá giúp cho lănh tụ biết ư kiến của đảng viên
trong các vấn đề.
4. Đối Lập
Những nước dân chủ th́ đảng hoặc những đảng thất cử có nhiệm vụ phê b́nh các
chương tŕnh, các kế hoạch của đảng cầm quyền. Ở Pháp, Ư, và những nước có nhiều
đảng, th́ các đảng đối lập có nhiều quan điểm chính trị khác biệt nhau, từ quân
chủ cho chí cộng sản. Nước lưỡng đảng th́ đảng đối lập được thống nhất. Nhưng
Quốc Hội Hoa Kỳ cũng ít khi xảy ra như thế, v́ một số thành viên đảng lại ủng hộ
chương tŕnh của chính phủ dù trái với chủ trương đường lối của lănh tụ đảng họ.
5. Gây quỹ
Chiến dịch vận động gây qũy tranh cử rất quan trọng đối với các nước dân chủ.
Chiến dịch rất tốn kém nhưng các đảng phải chi tiêu để được đắc cử. Chính đảng
của Hoa Kỳ phải chi tiêu cho chiến dịch tranh cử tất nhiên nhiều hơn ở các quốc
gia khác, một phần v́ chiến dịch dài, và tốn kém hàng triệu Mỹ kim cho cuộc vận
động tranh cử thượng nghị sĩ, và nhiều triệu cho cuộc vận động tranh cử tổng
thống.
B. Chính Đảng
Việt Nam
Qua phần tŕnh bày đại cương đảng chính trị của những quốc gia Hoa Kỳ, Gia Nă
Đại, Úc Đại Lợi, Anh Quốc… chúng ta thấy rằng, chính đảng được nhiều đoàn thể và
hiệp hội kết hợp để tạo thành tụ lực và làm nên sức sống của tổ chức đảng (Party
Organization) trên tiến tŕnh đấu tranh chính trị. Các đoàn thể hiệp hội tuy có
mục tiêu chính trị, nhưng khả năng hoạt động của mỗi tổ chức lớn, nhỏ lại khác
biệt. Các tổ chức này có thể ủng hộ một chính sách, hay ảnh hưởng bởi đường
hướng hoạt động của một chính đảng nhưng lại hoạt động đơn thuần về một phương
diện xă hội, tôn giáo, văn hóa, giáo dục hoặc kinh tế… Và cũng từ đó chính sách
của một chính đảng đề ra để thực hiện công cuộc tổ chức chính là con người. Việc
kiểm soát con người và kiểm soát công tác trở thành mấu chốt quyết định thành
công hay thất bại trong hoạt động của một chính đảng.
V́ thế, việc giải quyết đúng đắn về một hệ thống tổ chức chính trị, tức là chúng
ta giải đáp thông suốt những vấn đề của con người:
- Phải làm ǵ?
- Có bao nhiêu việc?
- Cần biết cái ǵ?
- Tuân theo qui định ǵ?
- Trực thuộc ai?
- Có trách nhiệm và quyền hạn đến đâu?
- Liên hệ với người và đại phận khác như thế nào?
- Do ai bổ nhiệm, hay băi miễn?
Ngày xưa, khi nhóm người bất b́nh với chính quyền th́ họ tập hợp nhau lại để mưu
tính việc tuyển quân mộ lính mà khởi nghĩa, mà thực thi lư tưởng, nguyện vọng
của ḿnh. Nhưng ngày nay, để tránh chiến tranh, người thanh niên muốn thực hiện
lư tưởng phục vụ quốc gia dân tộc th́ cần tham gia hay thành lập chính đảng, từ
đó t́m cách đại diện cho dân, ứng cử vào quốc hội, và đấu tranh nghị trường.
Ngày trước chính trị gia xuất thân là những trí thức đào tạo trong triều đ́nh,
tu viện, hay môn phái vơ thuật. Thế nhưng qua tiến tŕnh phát triển xă hội,
người trí thức thời nay được đào tạo trong trường đại học của ngành giáo dục trở
thành những chuyên viên, và những người này họp nhau thành hội thành đảng. Bởi
v́ những lời kêu gọi hay đ̣i hỏi nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí hay
tự do tín ngưỡng… đều vô hiệu khi không có Lưỡng Đảng trong một thể chế tự do
chính trị. Và chỉ khi chúng ta có đảng thứ hai đủ mạnh, có khả năng tranh đấu
chính trị với đảng cầm quyền th́ lúc đó người dân mới thực sự có tự do dân chủ
và nhân quyền.
Xây dựng một chính đảng, trước hết chúng ta cần đề cập đến việc thành lập và
phát triển đơn vị tổ chức địa phương nơi ḿnh đang cư ngụ, thường gọi Quận Bộ
(District) v́ là nơi liên quan mật thiết chính đảng với đại chúng, nghe ư dân và
đáp ứng nguyện vọng của dân. Quận bộ là cơ quan lănh đạo đảng bộ để hướng dẫn
dân chúng sinh hoạt chính trị, thành lập những Hội Đoàn và Câu Lạc Bộ để thu hút
thanh niên nam nữ vào hoạt động chính trị. Quận bộ cũng là trường huấn luyện và
đào tạo cán bộ đảng viên, thông thường các nhân tài của đảng sản sinh từ quận bộ
rồi trưởng thành trong công tác lănh đạo và quản trị tổ chức.
Cán bộ đảng viên là người tự nguyện nhận lănh và hoàn thành công tác tổ chức tại
quận bộ sao cho phù hợp tŕnh độ nhận thức, khả năng chuyên môn, và sở trường
của chính ḿnh. Cán bộ đảng viên là người:
- Biết điều ḿnh nói, muốn nói, và việc ḿnh làm trong tổ chức một cách rơ ràng
mạch lạc.
- Hiểu điều ḿnh tŕnh bày một cách sâu sắc, và tin tưởng vững vàng vào sự
nghiên cứu (research), sự hiểu biết của chính ḿnh.
- Thực hiện điều hiểu biết nói trên.
- Sống thực với điều hiểu biết của ḿnh, chứ không lư thuyết suông.
- Ứng dụng điều hiểu biết của ḿnh vào cuộc sống bản thân và xă hội.
C. Đảng Chính Trị
Việt
Nh́n lại đảng phái chính trị của người Việt Nam phải thừa nhận rằng dân tộc ta
chưa có một đảng chính trị đúng nghĩa để “sinh hoạt tự do dân chủ”. Trước hết v́
thiếu triết lư dân tộc, thiếu nguyên lư tổng hợp, thiếu tôn chỉ hay hệ thống tư
tưởng chỉ đạo một cách “sống động hiện thực”… Hơn nữa, tôn chỉ hay chủ thuyết
lại cần phải giải thích rộng răi… cho nên đă tự g̣ bó, mâu thuẫn quyền lợi, ḱnh
chống lẫn nhau trong nội bộ đảng. Và từ đó các chính đảng đă không theo kịp trào
lưu tiến hóa chung của nhân loại; đảng CSVN là một ví dụ điển h́nh.
Đảng chính trị mà chúng ta mong muốn sớm có hôm nay, th́ đảng đó không nên đóng
khung trong một tôn chỉ hay một chủ thuyết nào, mà cần ứng dụng bằng những chính
sách chính trị thực tế, và tránh nạn giáo điều. Muốn được như thế, chúng ta kết
hợp sao cho hài ḥa giữa hai hệ thống tư tưởng của dân tộc và nhân loại, rút tỉa
tinh hoa văn hóa Tiên Rồng đưa vào quốc sách chính trị th́ Việt Nam mới có cơ
may thành công.
Chúng ta biết rằng, trong thể chế chính trị Tự Do Dân Chủ phải có hai đơn vị
b́nh đẳng trong một cơ cấu sinh hoạt, cầm quyền và đối lập. Từ đó, chúng ta có
quyền chọn lựa những ứng cử viên đại diện cho ḿnh vào chính quyền để hoạt động
xây dựng, kiến thiết quốc gia. Và những ai muốn “gánh vác sơn hà,” th́ họ mới có
cơ hội để tự do thực hiện những điều kiện như sau:
1. Chọn đảng chính trị để gia nhập.
2. Chọn đơn vị địa phương thích hợp để cho ḿnh sinh hoạt.
3. Đệ đơn xin ứng cử.
4. Tiến thân trong đảng và tiến lên trong những đơn vị bầu cử từ địa phương tới
những cấp lớn hơn, hay trung ương.
5. Đắc cử thành lănh tụ khối dân cử của đảng.
6. Và vận động tranh cử để đảng có đa số phiếu trong quốc hội, rồi từ đó mà có
chính quyền và giữ chính quyền.
Động lực thúc đẩy các người thanh niên hăng hái gia nhập đảng chính trị là do
khả năng. V́ khi thanh niên có khả năng chính trị th́ họ mới chu toàn được nhiệm
vụ, và khi có nhiệm vụ th́ ắt sinh ra quyền lợi. Quyền lợi chính trị lại là
phương tiện để giúp người thanh niên đó thực hiện lư tưởng, hoài băo giúp dân
cứu nước mà ḿnh hằng tâm mưu cầu. Phải có phương pháp tổ chức thực tiễn theo đà
phát triển của xă hội như phân công phân nhiệm… th́ đảng chính trị mới gặt hái
được thành quả và xă hội mới tránh được nạn công thần.
Bằng ngược lại, đảng độc tài trong các nước chậm tiến th́ thường đặt t́nh cảm
làm động lực thúc đẩy cho tổ chức… rồi mới xét tính đến quyền lợi, lư tưởng, và
khả năng của thành viên. Bởi thế, quyền lực thường bị rơi vào tay những kẻ bất
tài vô đức, mặc t́nh thao túng chính trị… làm băng hoại xă hội, đưa dân nước lâm
cảnh nghèo đói bần cùng.
Ngày nay, dân tộc ta muốn tồn tại, muốn sống c̣n th́ Chính Sách Dựng Đảng là
điều kiện tiên quyết. V́ chỉ có đảng chính trị mới là cơ cấu tổ chức chặt chẽ
trong công cuộc dựng nước, dựng người. Đảng chính trị phải có đủ quyền lực đối
lập, tức là phải là tổ chức của dân và do dân. Đảng phải có cán bộ ṇng cốt hoạt
động trong dân, tổ chức dân và lănh đạo dân; bằng không th́ chỉ là “đảng cuội”,
và hao tiền tốn của bằng việc làm vô tích sự. Đảng chính trị cũng không thể bỗng
nhiên mà có, và lại càng không thể có do ngoại nhân tạo ra mà thành. Nói khác đi
đảng chính trị chỉ có khi có những người cưu mang tâm huyết của Tổ Tiên Việt để
thực thi đại cuộc Cách Mạng Tiên Rồng.
Đảng chính trị đặt căn cứ trên nền tảng triết thuyết dân tộc. Từ cơ sở tư tưởng
đó, chúng ta phát huy và xác định phương hướng, mục đích, mục tiêu, và nhiệm vụ
hoạt động trong từng thời kỳ bao gồm từ việc tổ chức kín, tổ chức bán công khai,
hoặc tổ chức công khai. Về mặt công tác hoạt động, đảng chính trị phân công phân
nhiệm một cách cụ thể, rơ ràng cho từng thành viên, sao cho công tác vừa song
hành với chương tŕnh hợp đồng, đồng bộ của tổ chức, và lại vừa phù hợp với khả
năng nhiệm vụ của mỗi người.
Đảng chính trị không phải là tổng hợp tài năng cá nhân, mà là một tập thể sinh
hoạt có tổ chức, có hệ thống, có nguyên tắc, có quy luật phát triển riêng của hệ
tư tưởng chỉ đạo và định hướng. Sức mạnh của đảng không phải cấp số cộng mà là
cấp số nhân, và t́nh cảm tập thể cũng là cấp số nhân. Sức mạnh cũng như t́nh cảm
tập thể thường đưa những người cán bộ đảng viên hoạt động trở thành danh tiếng.
Giải quyết đúng đắn hệ thống tổ chức, tức là chúng ta giải quyết vấn đề cán bộ,
và xin nhớ rằng, đảng chỉ vững mạnh nếu có lănh đạo thừa kế.
Tóm lại, đảng chính trị phải tùy thuộc thực tế hiện hữu mà chúng ta tổ chức sao
cho linh động, biến hóa toàn vẹn và hữu hiệu.
D. Kết Luận
1. Theo quan niệm tổ chức của Đông phương, chúng ta thường dựa trên nền tảng V́
Nghĩa. Chúng ta ngồi lại với nhau v́ thấy việc chung phải làm, và v́ t́nh nghĩa
với nhau mà làm việc chung, việc nghĩa. Bởi thế mới có những người Tụ Nghĩa, Kết
Nghĩa rồi có Nghĩa Sĩ, Nghĩa Quân… Tất cả đều căn cứ trên động lực tinh thần,
tấm ḷng đối với việc chung, việc nước phải làm, với Quê Hương Dân Tộc hay ít ra
v́ nặng nợ ơn nghĩa với nhau.
V́ vậy mục đích của việc kết tụ là “đền ơn đáp nghĩa” hoặc làm ơn làm nghĩa… Với
h́nh thức tổ chức của Đông phương rất thích hợp với T́nh Người, nhưng nặng phần
chủ quan, lỏng lẻo, và nhẹ phần công tác. Do đó không khai thác và ứng dụng
triệt để những điều kiện thành công khách quan, đây là điểm yếu trong công cuộc
tổ chức đă thường dẫn đến thất bại của nhiều chính đảng hoạt động trên quê hương
Việt Nam.
2. Ngược lại, theo quan niệm Tây phương, nền tảng tổ chức là “hợp tác” và cùng
nhau làm việc chung, việc nước. Nhưng mục tiêu của tổ chức là “hữu hiệu” họ làm
sao cho hoàn thành công tác trước mắt; tiếp đến mục đích của tổ chức là “hưởng
lợi” mọi người đều có lợi và càng lợi nhiều th́ càng tốt, bởi có lợi th́ con
người mới thích tham gia.
Do chủ trương “hợp tác sao cho hữu hiệu để hưởng lợi” đă phát sinh ra h́nh thức
tổ chức mà ngày nay người ta mệnh danh là “dân chủ.” H́nh thức này dựa trên
nguyên tắc “đa số thắng thiểu số” và trên phương thức “bầu cử với nhiệm kỳ”.
H́nh thức tổ chức này thành công trong việc xử dụng tài sức và vật dụng để phát
triển. Tuy nhiên, v́ hạn hẹp vào “lợi” cho nên h́nh thức tổ chức chỉ thích ứng
trong phương diện “có lợi” mà thôi.
V́ chủ đích hưởng lợi, nên h́nh thức tổ chức thường rơi vào tệ trạng với những
nguy cơ man trá, thủ đoạn để thành công. Tóm lại, với chủ trương “đa số thắng
thiểu số” của người Tây phương th́ “mạnh được yếu thua” và “ai thắng th́ có công
lư” cho nên thường trở thành h́nh thức hợp pháp giúp cho nhóm người mạnh đàn áp
kẻ yếu, nhóm người có quyền lực áp bức bóc lột kẻ thế cô… Bởi thế chúng ta phải
cẩn thận và đề ra cơ chế thích đáng nhằm ngăn ngừa nạn độc tài, đă từng đưa đất
nước chúng ta xuống vực thẳm nghèo nàn và chậm tiến.
Phạm Văn Bản
__________________________________________
Ghi chú:
(1*) Rossiter, Clinton, Parties and politics in America, Ithaca, N.Y., Cornell
University Press, 1960.
(2*) John Dewey, Democracy and Education: An Introduction to the Philosophy of
Education, New York, Macmillan, 1916, 1944.
(3*) Chính đảng Gia Nă Đại:
• Canada's New Democratic Party/Nouveau Parti démocratique du Canada, NDP/NPD
• Liberal Party of Canada/Parti Libéral du Canada, LPC/PLC
• Conservative Party of Canada/Parti conservateur du Canada
• Bloc Québécois, BQ
• Animal Alliance Environment Voters Party of Canada, AAEV
• Canadian Action Party/Parti Action Canadienne, CAP/PAC
• Christian Heritage Party of Canada/Parti de l'Héritage Chrétien du Canada,
CHP/PHC
• Communist Party of Canada/Parti communiste du Canada, CPP/PCC
• Communist Party of Canada (Marxist-Leninist)/ Parti communiste du Canada
(marxiste-léniniste), CPP(M-L)/PCC(M-L)
• First Peoples National Party of Canada, FPNP
• Freedom Party of Canada/Parti de la Liberté du Canada, FP/PL
• Green Party of Canada/Parti vert du Canada, GPC/PVC
• Grey Party of Canada
• Libertarian Party/Parti Libertarien
• Marijuana Party/Parti Marijuana, MJP/PMJ
• Parti Populaire des Putes, PPP
• Progressive Canadian Party/Parti Progressiste-Canadien, PC Party/Parti PC
• Rhinoceros Party of Canada
• Western Block Party, WBP
• Western Canada Concept, WCC
Tuy nhiên, hai trong 4 đảng lớn là đảng Tự do (Liberal Party of Canada) và đảng
Bảo thủ (Conservative Party of Canada) thường nắm chính quyền liên bang. Tại
quốc hội Canada hiện nay có dân biểu của hai đảng vừa kể và của các đảng Tân Dân
chủ (Canada's New Democratic Party), Khối Québecois (Bloc Québécois, BQ) và 1
dân biểu độc lập. Tại mười tỉnh bang (province) và ba lănh địa (territory),
chính phủ cũng thường do đảng lớn nắm quyền British Columbia, Ontario, Quebec:
đảng Tự do; Alberta, New Brunswick, Nova Scotia, New Foundland, Prince Edward
Island: đảng Bảo thủ; Manitoba, Saskatchewan: đảng Tân Dân chủ.