MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

 

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFR

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZ

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMedia

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookings

vCNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran

vOpen Culture vSyndicate vCapital Research

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCS 

vĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng.TDũng v Ba Sàm

vVăn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

vTPB v1GĐ/1TPB v

ÂM MƯU CHỐNG LẠI MỸ

 

 

Hàng thập kỷ trước khi ông điều hành chiến dịch Trump, việc Paul Manafort theo đuổi các khoản tiền mặt nước ngoài và các giao dịch mờ ảo đă đặt nền móng cho sự tham nhũng của Washington.

 

 

Mark Peterson / Redux

FRANKLIN FOER

 

SỐ PHÁT HÀNH THÁNG 3 NĂM 2018

 

 

 

I. Trí tuệ của Bạn bè

pḥng khám đă cho phép Paul Manafort gọi 10 phút mỗi ngày. Và mỗi ngày, anh sẽ sử dụng nó để gọi vợ ḿnh từ Arizona, giọng anh thường ngâm trong nước mắt. "Rơ ràng là ông ấy khóc nức nở hàng ngày," con gái của ông, Andrea, sau đó là 29 tuổi, nhắn tin cho một người bạn. Vào mùa xuân năm 2015, cuộc đời của Manafort đă đổ vào một đáy sâu. Vài tháng trước đó, anh đă nói chuyện với một cô con gái khác, Jessica, rằng tự tử là một khả năng. Anh ấy sẽ "đi măi măi", cô nhắn tin cho Andrea.

Tác phẩm của ông, nguồn gốc của t́nh trạng ông trân trọng, đă có một bước đột phá tàn phá. Trong gần một thập kỷ, ông đă tính toán chủ yếu vào một khách hàng duy nhất, mặc dù một khoản lợi nhuận cực kỳ lớn. Ông là nhà chiến lược chính trị chính cho người đă trở thành tổng thống của Ukraine, Viktor Yanukovych, người mà ông đă phát triển một mối quan hệ cá nhân rất cao. Manafort sẽ bơi khỏa thân với ông chủ của ḿnh bên ngoài banya, chơi quần vợt với anh ta tại cung điện của anh ta ("Tất nhiên, tôi để anh ấy giành chiến thắng," Manafort đă làm cho nó biết), và thường phục vụ như là một trọng tài của quyền lực trong một đất nước rộng lớn. Một trong những đại biểu của ông, Rick Gates, một lần khoe khoang với một nhóm các vận động viên vận động hành lang tại Washington, "Bạn phải hiểu, chúng tôi đă làm việc ở Ukraine một thời gian dài, và Paul có một cấu trúc riêng của chính phủ bóng tối ... Trong mỗi bộ, ông có một gă trai. "Chỉ một số ít người Mỹ - giám đốc điều hành dầu, các chiến sĩ Chiến tranh Lạnh - có thể tuyên bố đă bao giờ tích lũy được ảnh hưởng như vậy trong một chế độ nước ngoài. Quyền lực đă giúp lấp đầy các tài khoản ngân hàng của Manafort; theo bản cáo trạng gần đây của ông, ông đă có hàng chục triệu đô la bị giấu ở nơi ẩn náu như Síp và Grenadines.

 

Manafort đă hưởng lợi từ những sự dă man khiến đất nước trở nên chín chắn cho cách mạng. Và trong những tháng đầu của năm 2014, những người biểu t́nh tụ tập trên Maidan, Quảng trường Độc lập của Kiev, và chiếm đoạt quyền bảo trợ của ông. Lo lắng cho cuộc đời của ḿnh, Yanukovych t́m kiếm nơi trú ẩn bảo vệ ở Nga. Manafort tránh được bất kỳ thiệt hại bằng cách giữ một khoảng cách cẩn thận từ thành phố enflamed. Nhưng tại văn pḥng của ông ở Kiev, ông đă để lại một két sắt đầy giấy tờ mà ông không muốn rơi vào tầm nh́n của công chúng hoặc tay sai.

Tiền, vốn luôn chảy tự do cho Manafort và anh ta đă dành nhiều thời gian thoải mái hơn, sớm trở thành vấn đề. Sau cuộc cách mạng, Manafort đă mướn một số công việc kinh doanh từ cựu cựu chiến binh của tổng thống bị lật đổ, những người không cần phải chạy v́ cuộc sống của họ. Nhưng ông than phiền về các khoản tiền chưa thanh toán, và ở tuổi 66, đă nuốt chửng thế giới (Hungary, Uganda, Kenya) cho các khách hàng mới, hối hả mà không có may mắn. Andrea lưu ư "t́nh trạng ḍng tiền mặt chặt chẽ" của cha cô, "nhắn tin cho Jessica," Anh ta đột ngột rất rẻ ". Sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng làm giảm kế hoạch đám cưới của cô. Đối với bữa tiệc "đám cưới cuối tuần của cô ấy", anh ta đề nghị mở rộng menu cho những chú chó nóng và loại bỏ một mục hàng băng.

Anh ta dường như không muốn, hoặc có lẽ không thể, để truy cập vào tài khoản của ḿnh ở nước ngoài; một cuộc điều tra của FBI giám sát công việc của ông ở Ukraine đă bắt đầu không lâu sau khi Yanukovych sụp đổ. Trong khi đó, một nhà đầu sỏ chính trị Nga Oleg Deripaska đă theo sau Manafort để giải thích điều ǵ đă xảy ra với khoản đầu tư 18,9 triệu đô la Mỹ trong một công ty của Ucraina mà Manafort đă tuyên bố thay mặt ông.

Manafort đă né tránh Deripaska. Các đầu sỏ chính trị Nga muốn biết những ǵ đă trở thành của tiền của ḿnh.

Manafort đă biết Deripaska trong nhiều năm, v́ vậy ông chắc chắn hiểu được lịch sử của nhà tài phiệt. Deripaska đă giành được tài sản của ḿnh bằng cách chiếm ưu thế trong các cuộc chiến tranh nhôm được gọi là những năm 1990, một cuộc chiến đầy xác chết, một trong những cuộc chiến tranh quyết liệt nhất trong sự nghiệp thống trị trong một nền công nghiệp hậu Xô viết. Năm 2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă thu hồi thị thực của Deripaska, được cho là không quan tâm đến mối quan hệ của ông đối với tội phạm có tổ chức (mà ông đă từ chối). Mặc dù danh tiếng của Deripaska, hoặc có lẽ v́ lư do đó, Manafort đă tránh né những nỗ lực liên hệ của ông ta. Theo luật sư của Deripaska đă thông báo cho ṭa vào năm 2014 trong khi cố gắng thu hồi lại tiền của khách hàng, "Dường như Paul Manafort và Rick Gates đă biến mất".

Nvài tháng sau cuộc cách mạng Ucraina, đời sống gia đ́nh Manafort cũng bị khủng hoảng. Bản chất của cuộc sống gia đ́nh có thể được quan sát chi tiết bởi v́ thông điệp của Andrea đă thu được trong năm ngoái bởi một tập thể hacktivist-hầu hết người dân Ukraine tức giận với sự can thiệp của Manafort ở nước họ-đă đăng những tài liệu cất giấu trên web đen tối. Các văn bản kéo dài trong bốn năm (2012-16) và 6 triệu từ. Manafort trước đây đă xác nhận rằng điện thoại của con gái ông đă bị tấn công và thừa nhận tính xác thực của một số văn bản trích dẫn bởi Politico và The New York Times . Manafort và Andrea đều từ chối b́nh luận về bài báo này. Jessica không thể tiếp cận để b́nh luận.

Tổng cộng, các văn bản cho thấy một loạt đôi khi đầy đủ của các mối quan hệ, bằng cách yêu và lôi cuốn. Manafort hào phóng với gia đ́nh của ḿnh - anh ta đă đầu tư hàng triệu đô vào dự án điện ảnh của Jessica, và hàng triệu đô la trong các dự án bất động sản hiện tại của chồng bà. Nhưng khi anh gọi nước mắt hoặc tự tử vào mùa xuân năm 2015, anh đă cầu xin cuộc hôn nhân của ḿnh. Tháng mười một năm ngoái, như bộ nhớ cache của các văn bản cho thấy, con gái ông đă bắt gặp anh ta trong một vụ với một phụ nữ hơn 30 năm cơ sở của ḿnh. Đó là một mối quan hệ đắt tiền. Theo các tin nhắn văn bản, Manafort đă thuê người t́nh của ḿnh một căn hộ trị giá 9.000 đô la một năm ở Manhattan và một ngôi nhà ở Hamptons, không xa nhà riêng của ḿnh. Anh đă đưa cho cô một thẻ American Express, mà cô đă sử dụng để có hiệu quả tốt. "Tôi chỉ đi đến các nhà hàng sang trọng,

Vụ việc đă là một mặc khải bất ngờ. Manafort đă nuôi nấng vợ ḿnh sau khi tai nạn ngựa gần như giết cô vào năm 1997. "Tôi luôn ngạc nhiên về sự kiên nhẫn và cống hiến cho anh ta trong thời gian đó", một người bạn cũ của Manafort nói với tôi. Nhưng sau khi phơi bày sự không chung thủy của ḿnh, vợ ông đă bắt đầu thú nhận những vấn đề hôn nhân sôi nổi với con gái ḿnh. Manafort đă cam kết điều trị cho cặp vợ chồng, nhưng các bản văn tiết lộ, điều đó đă không ngăn cản ông ta tiếp tục mối quan hệ của ḿnh. Bởi v́ anh ta đă che giấu sự không khoan dung của ḿnh - và bởi v́ người t́nh của anh ta đă đăng tải về chuyến đi của họ trên Instagram - gia đ́nh anh ta đă đánh lại anh ta, sáu tháng sau đó. Anh ta đă vào pḥng khám ở Arizona ngay sau đó, theo các bài viết của Andrea. "Cha của tôi," bà viết, "đang ở giữa một sự đổ vỡ t́nh cảm to lớn."

By những tháng đầu năm 2016, Manafort đă trở lại ở Washington lớn hơn, nơi cư trú chính của ông và là nơi anh bắt đầu sự nghiệp của ḿnh như là một nhà tư vấn chính trị và vận động hành lang. Nhưng những nỗ lực của ông trong việc phục hồi chức năng - về cuộc sống gia đ́nh, sự nghiệp của ông, về ư thức tự trị - vẫn tiếp tục. Ông bắt đầu thực hiện một loạt các cuộc gọi khác nhau. Ông đă viết Donald Trump một bản ghi nhớ rơ ràng liệt kê tất cả các lư do ông sẽ là một chiến dịch lư tưởng consigliere-và sau đó cầu khẩn cho những người bạn bè của ḿnh để tout của ông kỹ năng cho ứng cử viên xuất sắc.

Ngay trước khi tuyên bố công việc của ḿnh trong chiến dịch của Trump, Manafort đă chạm trán căn cứ với các cựu đồng nghiệp để cho họ biết về sự trở lại chuyên nghiệp của ḿnh. Ông đă mang lại cho ḿnh sự tự tin đặc biệt, nhưng họ đă làm ông ngạc nhiên với những nghi ngờ và lo lắng. Trong suốt sự nghiệp lâu dài của ḿnh, Manafort đă tư vấn cho các thượng nghị sĩ Mỹ-Mỹ và các chỉ huy tối cao nước ngoài, áp đặt các vị tướng và tổng thống cho cuộc sống. Anh đă học được cách làm dịu họ, làm thế nào để cúi xuống ư định không khoan nhượng của họ với những b́nh luận đă được nghiên cứu kỹ lưỡng và phân tích. Nhưng Manafort đơn giản không thể chấp nhận sự khôn ngoan của bạn bè ḿnh, lời khuyên rằng chắc chắn anh ta sẽ phân phát cho bất cứ ai có lịch sử giống như anh ta - bắt buộc phải tránh xa sự chú ư không cần thiết.

Những người bạn của ông, giống như tất cả các tay sai chính trị của đảng Cộng ḥa ở một lứa tuổi nào đó, có thể niệm truyền thuyết về Paul Manafort, mà họ đă làm với niềm đam mê, ghen tị và đôi khi khinh thường. Khi Manafort đến Washington vào những năm 1970, nơi này đă được khơi dậy trong vinh quang tồi tàn của nó, đáng chú ư nhất là một cảm giác tự măn với trách nhiệm cao. Sự giàu có đến dưới những lâu đài của Georgetown, với những đồ đạc không bằng thời xưa và thảm trải chiếu sức mạnh của chính bản thân nó, nó không cần phải hét lên. Nhưng cơ sở trường nội trú cũ đó không phải là phong cách của Manafort. Khi anh tự đặt tên cho ḿnh, anh bắt đầu ăn mặc khác với đám đông của Brooks Brothers trên phố K, nhiều người châu Âu hơn, với áo phông màu sắc rực rỡ và áo sơ mi không cổ. Nếu ông giải thích khái niệm, nói rằng, di chuyển hồ bơi sân sau của ông một vài feet, không có ǵ ngăn cản ông từ các chi phí. Đồng nghiệp,

Hành động phản loạn của ông không chỉ đơn thuần là thẩm mỹ. Manafort đă viết lại các quy tắc của thành phố được thông qua của ḿnh. Vào đầu những năm 80, ông đă thành lập một công ty tư vấn mà bỏ qua các công ước mà trước đây đă từng điều hành vận động hành lang. Khi bắt đầu nhận những khách hàng mới, anh ta không bị giới hạn bởi những giới hạn về đạo đức. Năm 2016, bạn bè của ông có thể không biết chi tiết cụ thể của các tài khoản Síp của ông, tất cả những khoản thanh toán off-the-sách bị cáo buộc cho ông bị bắt trong sổ cái của Cyrillic ở Kiev. Nhưng họ biết đủ để tin rằng ông không bao giờ có thể duy tŕ sự phơi bày mà đi kèm với chạy một chiến dịch tổng thống trong thời kỳ nghiên cứu đối lập và các phương tiện truyền thông hung hăng. "Những rủi ro không thể rơ ràng hơn," một người bạn đă cố gắng ngăn cản anh ta từ công việc nói với tôi. Nhưng trong trạng thái phe phớt, những cảnh báo này đă không đăng kư.

Khi Paul Manafort chính thức tham gia vào chiến dịch Trump, vào ngày 28 tháng 3 năm 2016, ông đă gây ra một nguy cơ không chỉ cho chính ḿnh mà c̣n cho tổ chức chính trị mà cuối cùng ông ta sẽ chạy. Cuộc đời của những cuộc phiêu lưu nước ngoài không chỉ chứa đựng những câu chuyện kinh tởm mà nó c̣n minh chứng cho nhân vật của một người đàn ông rất có thể sẽ chỉ huy chiến dịch để phục vụ cho lợi ích riêng của ḿnh, ít quan tâm đến những hậu quả tập thể.

Trong nhiều thập kỷ, Manafort đă cắt đứt một đường ṃn tiền nước ngoài và ảnh hưởng vào Washington, sau đó xây dựng đường ṃn đó lên một xa lộ cao tốc. Khi nói đến việc phục vụ lợi ích của các nhà tự trị của thế giới, ông đă là một nhà sáng tạo vĩ đại. Bản cáo trạng của ông vào tháng 10 sau khi điều tra bởi Luật sư Đặc biệt Robert Mueller cáo buộc rửa tiền, tuyên bố sai và các hành vi tham nhũng cá nhân khác. Tuy nhiên, vai tṛ của Manafort trong bài tường thuật rộng răi của Mueller vẫn được bảo vệ cẩn thận, và không được công chúng biết đến. Và cuối cùng, tham nhũng cá nhân của ông ít quan trọng hơn so với vai tṛ sống c̣n của ông với tư cách là người đóng vai tṛ quan trọng trong hệ thống của Mỹ. Rằng ông sẽ bị buộc tội giúp đỡ một quyền lực nước ngoài lật đổ nền dân chủ Mỹ là một câu chuyện phù hợp với câu chuyện cuộc đời của ông.

 

II. Người trẻ tuổi và Máy của Ngài

vào mùa xuân năm 1977, Paul Manafort , 28 tuổi, ngồi ở bàn gấp trong một pḥng khách sạn ở Memphis. Những bức ảnh từ thời điểm đó cho thấy anh ta với bộ ria móng Tom Selleck và những vết xước có ư nghĩa. Ông được bao quanh bởi điện thoại mà ông đặc biệt cài đặt vào cuối tuần. Tám trăm đại biểu đă tập trung để bầu ra một nhà lănh đạo mới của tổ chức Young Republicans, và Manafort, một vị vua đă trưởng thành, đă biên soạn một hồ sơ cho mỗi người. Những cuốn sách roi đó cung cấp cơ sở cho việc tạo ra sự thỏa thuận. Để cống hiến cho các đại biểu, họ đă giúp họ có một ư tưởng về công việc mà họ muốn để đổi lại sự hỗ trợ của họ.

Kiểm soát những đảng viên Cộng ḥa trẻ tuổi - một mạng lưới chính trị và xă hội dành cho các chuyên gia tuổi từ 18 đến 40 - là một giải thưởng thực sự trong những ngày đó. Những người hy vọng của tổng thống đă t́m cách khai thác nhóm. Đây vẫn là kỷ nguyên của các công ước của tổng thống môi giới, và Young Republicans có thể rơi xuống với số lượng đủ để thống trị các cuộc họp của bang lựa chọn các đại biểu. Năm 1964, những nỗ lực của nhóm đă bảo đảm cho Barry Goldwater được đề cử GOP; vào những năm 70, mỗi ứng cử viên Cộng ḥa đều hiểu rơ tiềm năng của nó. Sự chú ư của các cựu trưởng lăo đă mang lại cơ hội cho các nhà lănh đạo đảng Cộng ḥa trẻ. Bảo trợ chảy theo hướng của họ. Để chiếm giữ tổ chức này đă được sở hữu một bé Tammany.

Tại Memphis, Manafort đă làm việc thay mặt cho người bạn Roger Stone của ḿnh, bây giờ được biết đến như là nhà tiên phong trong nghiên cứu đối lập và là một nhà cung cấp các lư thuyết âm mưu của vũ trụ . Ông quản lư ứng cử viên của Stone cho chủ tịch của nhóm. Stone, 24 tuổi sau đó vui mừng v́ thực tế ông đă nhận được học vấn chính trị trong chiến dịch tái tranh cử của Richard Nixon năm 1972; anh thậm chí đă thừa nhận chơi các tṛ lừa dối để làm lợi cho thần tượng của ḿnh. Stone và Manafort đă gặp nhau qua những người Cộng sản Cao đẳng. Họ chia sẻ một nhà nước, một t́nh cảm cho phù hợp với quyền lực, và một t́nh yêu sâu sắc hơn quyền lực riêng của ḿnh. Họ cùng nhau chiến đấu với sự tàn nhẫn tàn nhẫn.

Ngay cả ở giai đoạn đầu của sự nghiệp, Manafort đă có được một kỹ năng đáng chú ư để quản lư một tập hợp kích thước lớn. Anh biết cách chỉ huy một đội quân trung thành, người đă nhận đơn hàng của ḿnh qua máy bộ đàm. Và anh ấy biết làm thế nào để đưa vào một chương tŕnh. Ở Memphis năm đó, ông thuê một chiếc thuyền buồm sông Mississippi để thả du thuyền và đưa ra roi để làm việc với các đại biểu đang lơ lửng trong giới hạn nổi của nó. Đối với tầng lớp tinh hoa của Đảng Cộng sản trẻ, phe Manafort kiểm soát đă mang một cái tên truyền đạt mong đợi của ông về ḷng trung thành vô bờ: Đội. Và khi đối mặt với sự khéo léo của đội, đối thủ của Stone cuối cùng đă từ bỏ cuộc đua, giữa kỳ. "Tất cả đă được viết kịch bản ở pḥng sau", anh phàn nàn.

Manafort đă được lai tạo cho chính trị. Khi c̣n học trung học, cha của ông, Paul Manafort Sr., trở thành thị trưởng New Britain, Connecticut và Manafort Jr. theo đuổi hành động - tham gia vào một hội đồng thành phố giả, vận động cho ứng cử viên chính trị Thomas Meskill như một phần của ông Kiddie Corps. Đối với trường đại học và trường luật, ông đă chọn Đại học Georgetown, một chuyến xe taxi từ thời gian lớn.

Vào những năm 70, thời đại lớn nhất được thể hiện bởi James A. Baker III, người nội gián thông minh nhất của thế hệ ḿnh. Trong Công ước về Quốc gia của Đảng Cộng ḥa năm 1976, Manafort đă đính hôn với Baker trong một chiếc xe kéo bên ngoài Sân vận động Kemper, ở Kansas City, Missouri. Họ cố gắng để bảo vệ giá thầu renomination của Gerald Ford khi đối mặt với thách thức tràn trề của Ronald Reagan; Manafort quằn quại các đại biểu thay mặt Baker. Từ Baker, ông đă học được nghệ thuật của ḷng khiêm tốn phô trương, làm thế nào để sử dụng con dao để bơ lên ​​và sau đó đâm vào phía sau. "Jeffell, một phụ tá chiến dịch của Reagan, nhớ lại:" Anh ta đang học tập dưới chân của ông chủ.

Vào cuối những năm 70, Manafort và Stone có thể tiên đoán được sự lên ngôi của Ronald Reagan, và cả hai dự định trở thành những người chơi trong chiến dịch năm 1980 của ông. Đối với Manafort, đây là một mặt volte táo bạo. Bằng cách lật đổ ḷng trung thành của ḿnh từ phe Ford cũ, ông đă gây ra sự nghi ngờ giữa những người bảo thủ, người coi ông như một nhà cơ hội cấp bách. Không ít người phủ nhận rằng các đảng viên Cộng ḥa trẻ đă tạo ra một phương tiện lư tưởng cho những tham vọng của ông.

 

 

Paul Manafort ( trái ), Roger Stone ( trung tâm ), và Lee Atwater ( bên phải ) vào năm 1985. Những nỗ lực của họ đă giúp chuyển đổi cách làm việc của Washington. (Harry Naltchayan / The Washington Post / Getty)

 

Những tham vọng này đă để lại một dấu vết của thiệt hại, bao gồm cả một luật sư Alabama có tên là Neal Acker. Trong thời đại Memphis, Acker đă phục vụ như một người lính chân chính trung thành trong đội, tổ chức các đại biểu phía Nam thay mặt Stone. Đổi lại, Manafort và Stone đă hứa sẽ ném đội bóng ra sau chiến dịch của Acker để thay thế Stone trong vai tṛ người đứng đầu Young Republican hai năm sau đó, năm 1979. Manafort sẽ tự quản lư chiến dịch.

Nhưng khi thời điểm lễ đăng quang của Acker tiếp cận, Manafort bất ngờ điều chỉnh kế hoạch của ḿnh. Nếu Acker muốn làm việc, anh ta phải thề trung thành với Reagan. Associated Press tường thuật lại: "Khi Acker cuối cùng lúng túng-ông muốn giữ thái độ trung lập-Manafort bật lên giận dữ với ông," một động thái 11 giờ chưa từng có. Trong tuần lễ sau cuộc hội nghị của các nhà lập pháp của Đảng Cộng sản trẻ năm 1979, Manafort và Stone đă quyết định hủy bỏ quyết định của Acker. Tại sự thúc giục của Manafort, các đại biểu cam kết với Acker đă bị bóp nghẹt-và Manafort tiếp quản chiến dịch của đối phương. Trong một màn chiếu Bravura của quyền lực mà không ai có trong chiến dịch của Reagan có thể bỏ lỡ, Manafort đă bỏ phiếu mạnh mẽ chống lại Acker, 465-180. "Đó là một trong những công việc tuyệt vời nhất", một khẩu Manafort nói với tôi gần đây.

Không lâu sau đó, Stone và Manafort đă giành được vị trí quan trọng trong hoạt động của Reagan mà họ muốn thèm muốn. Stone đă chỉ đạo chiến dịch ở vùng Đông Bắc, Manafort ở miền Nam. Chiến dịch có phần chia sẻ về đấu đá nội bộ; cả hai người đàn ông đă sống sót phân chia phe phái và thanh trừng. Jeff Bell nói với tôi: "Họ được biết đến như là những người làm việc trong đảng Cộng ḥa. Hiệu suất của họ đặt họ vào các công việc nhà ở trong công việc nhà ở của chính quyền Reagan, nhưng họ thậm chí c̣n có kế hoạch lớn hơn.

 

III. Hăng


trong những năm sau thế chiến ii,Những nhà vận động hành lang hiệu quả nhất của Washington đă vượt qua được bản chất giao dịch của nghề nghiệp của họ. Những người đàn ông như Abe Fortas, Clark Clifford, Bryce Harlow, và Thomas Corcoran được biết đến không phải là những người lính đánh thuê láu cá mà là những h́nh đại diện thanh lịch của một cơ sở thường trú, được ca ngợi là "những người khôn ngoan". Vận động hành lang hầu như không mang một sự kỳ thị, . Khi luật sư huyền thoại Tommy Boggs tự đăng kư làm một nhà vận động hành lang, năm 1967, tên của ông chỉ là 64 trong danh sách chủ động. Các doanh nghiệp chỉ đơn giản là không xem xét vận động một sự cần thiết. Ba nhà khoa học chính trị hàng đầu đă nghiên cứu nghề này vào năm 1963 và kết luận: "Khi chúng ta nh́n vào hành lang điển h́nh, chúng ta thấy cơ hội của nó để cơ động là rất hạn chế, nhân viên của ḿnh tầm thường,

Vào thời đỉnh cao của Reagan, những nhà vận động hành lang của đảng Cộng ḥa đặc biệt bị thất bại. Các thế hệ đa số Dân chủ trong Quốc hội đă kinh hoàng trong kinh doanh. Bộ lạc khét tiếng của các nhà vận động hành lang đảng Cộng ḥa làm việc trong pḥng vệ sinh bao gồm cựu sinh viên của chính quyền Nixon và Ford; hoạt động dưới đám mây cảm ứng đáng hổ thẹn của Watergate, họ đă không chú ư đến tham vọng hoặc hiếu chiến.

Đây là thế giới mà những người mới tẻ nhạt như Manafort và Stone nhanh chóng chiếm ưu thế. Chính quyền của Tổng thống Reagan đă phá vỡ sự h́nh thành của Đảng Cộng ḥa cũ. Sau một thời gian dài mở rộng quy định, kinh doanh cuối cùng đă có một đối tác chính trị háo hức tháo dỡ nó - tạo ra nhu cầu chưa từng có cho các nhà vận động hành lang. Manafort có thể thuyết phục yêu cầu bồi thường để biết chính quyền mới tốt hơn bất cứ ai. Trong quá tŕnh chuyển đổi sang quyền lực, ông đă điều hành Văn pḥng Quản lư Nhân sự, có nghĩa là ông đă xếp chồng lên chính phủ với người của ḿnh. Cùng với Stone và Charlie Black, một cựu chiến binh của cuộc Chiến tranh Young Republican, ông thành lập một công ty Black, Manafort và Stone, sớm lập danh sách khách hàng: Bethlehem Steel, Viện Thuốc lá, Johnson & Johnson, Trans World Airlines.

Trong khi các công ty khác lại hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt hanh động, vận động, tư vấn, quan hệ công chúng- Black, Manafort và Stone đă gói tất cả những dịch vụ này dưới một mái nhà, một động thái đơn giản là lừa dối cuối cùng sẽ giúp biến đổi Washington. Hiện tạp chí coi là hoạt động “siêu thị cuối cùng ảnh hưởng của bán rong.” Fred Wertheimer, một người ủng hộ tốt chính phủ, mô tả cách tiếp cận mở rộng này là “mâu thuẫn được thể chế hóa quan tâm.”

Sự liên kết của vận động hành lang với tư vấn chính trị - việc tạo ra cái mà bây giờ được gọi là hoạt động đôi ngực - là bước đột phá thực sự. Manafort là công ty vận động hành lang đầu tiên cũng là nhà tư vấn chính trị. (Về mặt pháp lư, hai thực tiễn được chia thành các công ty khác nhau, nhưng họ chia sẻ cùng các đối tác sáng lập và cùng một không gian làm việc) Một liên doanh sẽ điều hành các chiến dịch; người kia sẽ quay lại và vận động các nhà chính trị mà các đồng nghiệp của họ đă giúp bầu cử. Bên tư vấn đă tuyển dụng người làm việc chăm chỉ Lee Atwater, nổi tiếng với chiến thuật mạo hiểm đua tranh thay mặt cho Strom Thurmond. Atwater nói với bạn bè của ḿnh: "Chúng tôi đang phục vụ những ǵ chúng tôi bán. Cũng như tưởng tượng, khách hàng chính trị của công ty (Jesse Helms, Phil Gramm, Arlen Specter) đă trở thành những chiến binh đáng tin cậy khi công ty cần họ để quảng bá chương tŕnh nghị sự của các khách hàng doanh nghiệp. Với sự phát triển của nghề này, tính hiệu quả và ảnh hưởng của vận động hành lang tăng lên.

Năm 1984, công ty đă vượt qua lối đi. Nó tạo thành một đối tác của Peter Kelly, cựu chủ tịch tài chính của Ủy ban Quốc gia Dân chủ, người đă giành được ḷng trung thành của các nhà lập pháp bằng cách gây quỹ cho chiến dịch của họ. Một số thành viên của công ty làm việc cho các ứng cử viên Thượng viện Thượng viện ở Louisiana, Vermont và Florida, ngay cả khi các chiến binh xuống sảnh làm việc cho những kẻ thù Cộng ḥa của họ. "Người ta nói," Không phải Mỹ ", Kelly nói với tôi. "Họ không thể đánh mất. Họ có cả hai mặt. " Tôi tiếp tục nói, 'Làm thế nào để người Mỹ không thắng?' "Cái cảm giác bất khả xâm phạm này cũng thâm nhập quá tŕnh vận động hành lang. Khi Quốc hội thông qua luật về cải cách thuế vào năm 1986, công ty này đă có một quy tắc đặc biệt bổ sung rằng đă tiết kiệm được Chrysler-Mitsubishi 58 triệu USD; nó vạch ra một điều khoản khác mà thu được khoản tiết kiệm 38 triệu đô la của Johnson & Johnson.Newsweek đă tuyên bố công ty "cửa hàng nóng nhất trong thị trấn".

Công ty vận tải hành lang của Manafort nổi lên là tinh thần suy đồi của những năm 80. "Quá nhiều Hay nhất" là chủ đề của một cuộc tụ tập hàng năm.

Nhu cầu về dịch vụ của hăng đă tăng lên đến mức cao như vậy mà công ty đă thiết kế một khóa ảo vào năm 1988 Đảng Cộng ḥa chính. Atwater trở thành nhà chiến lược chính cho George HW Bush; Black làm việc với Bob Dole; Stone khuyên Jack Kemp. Một nhân viên của Quốc hội đùa với Thời gian , "Tại sao có bầu cử sơ bộ cho đề cử? Tại sao không có các ứng cử viên đi đến Black, Manafort và Stone và tranh căi nó? "Manafort đă gieo rắc sự nhận thức này. Đáp lại một bản câu hỏi trong The Washington Times , ông tuyên bố Machiavelli người mà ông muốn gặp nhất.

Mặc dù tuổi trẻ của ḿnh, Manafort dự kiến ​​sự tự tin mà truyền cảm hứng cho người khác để có sự tự tin, một thái độ thường được so sánh với một tin tức neo. "Ông ấy là người có thẩm quyền, và bạn không bao giờ nh́n thấy một vết nhơ trong bộ giáp", một trong những người đại diện cũ của ông, Philip Griffin, nói với tôi. Manafort đă viết rất hay, đặc biệt là trong các đề xuất cho khách hàng tiềm năng và rất giỏi về chiến thuật. Tên-thả không bao giờ được thay thế cho các bước cụ thể mà có thể thúc đẩy một khách hàng. "Nếu chính trị đă làm bất cứ điều ǵ, nó đă dạy chúng ta để đối xử với mọi thứ như một chiến dịch," ông đă tuyên bố. Ông đă làm việc chăm chỉ cho khách hàng với cường độ không ngớt. Vợ ông đă từng châm biếm, theo các tin nhắn văn bản, rằng Andrea đă được h́nh thành giữa các cuộc gọi hội nghị. Anh ấy "treo điện thoại, nh́n vào đồng hồ của ḿnh, và nói, 'Được rồi, chúng ta có 20 phút cho đến lần tiếp theo'," Andrea đă viết cho chồng chưa cưới của cô.

Công ty phát minh ra tinh thần suy đồi của những năm 1980. Mỗi năm, nó tổ chức một chuyến đi chơi gôn được gọi là Boodles, sau thương hiệu gin. John Donaldson, một người bạn cũ của Manafort, người làm việc tại công ty, nói: "Nó sẽ phải di chuyển gần như hàng năm, bởi v́ chúng tôi không được mời lại. "Một vài phụ nữ trong công ty phàn nàn rằng họ không bao giờ được mời. Tôi đă nói với họ rằng họ không muốn như vậy. "Với tư cách là chủ tịch của" ủy ban xă hội "của công ty, Manafort sẽ cung cấp một chủ đề cho các cuộc tụ tập hàng năm. Tác phẩm của ông là một sự tiến triển ba năm: "Quá nhiều", theo sau là "Exceed Excess", bị giới hạn bởi "Quá mức Hay nhất".

Các đối tác tại công ty cho biết The Washington Post rằng mỗi người đều định lấy nhà ít nhất 450.000 đô la vào năm 1986 (nay ít hơn 1 triệu đô la). "Đột nhiên, họ phải trả rất nhiều tiền, và tôi không nghĩ rằng bất cứ ai trong số họ đă quen với việc kiếm tiền mà chúng tôi kiếm được", Kelly nói. Các đối tác cao cấp đă được cấp xe sang trọng và là thành viên của câu lạc bộ country mà họ lựa chọn. Manafort sẽ bay Concorde đến châu Âu và trở lại như thể nó là Acela đến New York. "Tôi phải thú nhận," Atwater đổ về Washington Post , "sau bốn năm trong bảng lương của chính phủ, tôi rất vui mừng với phong cách sống mới của tôi."

 

 

Manafort với ứng cử viên tổng thống đảng Cộng ḥa Bob Dole tại hội nghị GOP năm 1996, mà Manafort quản lư (Robert Gauthier / Los Angeles Times / Getty)

 

Công ty đă thuê trẻ em ra khỏi trường đại học - "những người đàn ông" trong văn pḥng - để lái xe các đối tác trong thành phố. Khi anh hùng của Roger Stone, Richard Nixon, đến Washington, những người đàn ông sẽ đưa ông ta về.

Nhiều người trong số những cộng sự trẻ này cuối cùng sẽ leo lên bậc thang của công ty và thường được cử đến để quản lư các chiến dịch thay mặt cho công ty. Leo lên bậc thang, tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, đ̣i hỏi phải trải qua những ǵ được biết đến như những bài kiểm tra ḷng trung thành của Manafort - những nhiệm vụ đi lạc bên ngoài ranh giới của sự cam kết chuyên nghiệp tiêu chuẩn và chứng minh được sự kiểm soát mà Manafort mong đợi để vượt qua cuộc sống của các cộng sự. Vào phút cuối cùng, anh ta có thể yêu cầu một nhân viên để giải trí cho bạn bè của ḿnh, không bao giờ nhớ rằng nhân viên đă không bao giờ gặp họ trước đây. Trong một bữa tiệc của Thánh Patrick, ông đă cho hai nhân viên cơ sở 24 giờ để theo dơi một người giả mạo hợp pháp của Billy Barty, nam diễn viên 9-inch-9-inch đă làm phim với Mickey Rooney và Chevy Chase - họ đă làm. "Đây là những ngày trước khi internet," một trong số họ nói với tôi.

 

IV. Người đàn ông của thế giới

vào những năm 90, danh sách các nhà vận động hành lang đă đăng kư gồm hai chữ số mà Tommy Boggs đă tham gia hồi năm 1967 đă tăng lên hơn 10.000. Black, Manafort, Stone và Kelly đă củng cố mạnh mẽ sự biến đổi đó, và đứng được hưởng lợi từ sự đổ bộ kinh doanh đổ vào thủ đô. Nhưng đến lúc đó, chính trị trong nước đă bắt đầu cảm thấy hơi nhỏ bé, hơi quá unexotic, đối với Paul Manafort, người mà Charlie Black mô tả với tôi như một "kẻ phiêu lưu".

Manafort từ lâu đă kết bạn với các nhà ngoại giao trẻ đầy tham vọng ở đầu ṃn quyền lực, bao gồm cả Hoàng tử Bandar bin Sultan Al Saud, sau đó là Đại sứ Saudi tại Washington. Khi Bandar tham dự Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc năm 1984, Manafort đă cống hiến cho một nhóm nhỏ những người đàn ông tiên tiến để trôi chảy. Manafort sắp xếp cho Bandar để đến lối vào của tổng thống, sau đó đưa anh ta lên ghế trong ghế phó tổng thống.

Vận động hành lang nước ngoài chắc chắn đă tồn tại trước những năm 80, nhưng nó đă bị hạn chế về quy mô và hoạt động dưới một cái cơi nghi ngờ. Ngay trước Thế chiến II, Quốc hội đă thông qua Đạo luật đăng kư các đại lư nước ngoài, phần lớn là phản ứng lại với các chiến dịch do Ivy Lee, một nhà báo công chúng của Hoa Kỳ đă thuê bởi Trust Dye Trust để làm dịu h́nh ảnh của Third Reich. Quốc hội đă không có hành động trái pháp luật bán rong thay cho lợi ích nước ngoài, nhưng thực tế ngồi trên đường biên của K Street.

Paul Manafort đă giúp thay đổi điều đó. Chính quyền Reagan đă tái tạo đường biên chiến tranh lạnh, đẩy mạnh cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới bằng cách tài trợ và đào tạo các đội quân du kích và các lực lượng quân đội cánh hữu, như phe Nicaragua và người theo Hồi giáo Afghan. Chiến lược gia công quân sự - học thuyết của Reagan - nhằm mục đích đẩy Liên bang Xô viết quá nhiều cuộc đối đầu đến mức nó không thể duy tŕ được.

Tất cả số tiền mà Quốc hội bắt đầu chi tiêu cho những người ủy thác chống lại cộng sản đại diện cho một cơ hội to lớn. Các nhà độc tài có quyền lực sắt và những người chỉ huy khinh suất trên toàn thế giới đă hy vọng chia sẻ sự hào phóng. Để có được nó, họ cần giúp đỡ để tinh chỉnh h́nh ảnh của họ, để quốc hội không nh́n quá khó khăn theo xu hướng ít tự do hơn của họ. Các nhà vận động hành lang khác t́m kiếm những khách hàng độc tài, nhưng không ai làm như vậy với cường độ tập trung của Black, Manafort, Stone và Kelly. Công ty sẽ sắp xếp cho các cuộc phỏng vấn mang tính h́nh tượng về các chương tŕnh tin tức của Mỹ; nó sẽ đ̣i các đồng minh trong Quốc hội để giải phóng tiền. Trở về nhà, nó sẽ giúp các chế độ có được những khuynh hướng dân chủ hợp pháp ủng hộ vị thế của họ ở Washington.

Công ty đă giành được khách hàng bởi v́ nó kiên tŕ tiếp thị mối quan hệ của ḿnh với chính quyền Reagan, và sau đó là chính quyền George HW Bush sau đó. Theo một báo cáo của The New York Times năm 1988, hăng này đă quảng cáo về "mối quan hệ cá nhân" với các quan chức và hứa sẽ "nâng cấp" các kênh trở lại "trong lĩnh vực kinh tế và đối ngoại." Không nghi ngờ ǵ nữa, nó đă giúp có một người bạn James Baker, đặc biệt là sau khi ông trở thành thư kư của nhà nước dưới quyền Bush. "Baker sẽ gửi những khách hàng thân thiết," Kelly nhớ lại. "Ông ấy muốn chúng tôi giúp dẫn dắt những người này theo một hướng tốt hơn."

Tuy nhiên, sự cải tiến đạo đức không bao giờ thực sự được tính toán thành tích của Manafort. Kelly nói với tôi: "Nói chung, tôi sẽ tập trung vào việc làm thế nào để đưa khách hàng đồng bộ với các giá trị của phương Tây hay châu Âu. Trong cuốn hồi kư của ḿnh, Riva Levinson, giám đốc điều hành của công ty từ năm 1985 đến năm 1995, đă viết: "Paul đă đưa ra cách tiếp cận ngược lại" (Kelly và Manafort đă không nói trong những năm gần đây, cựu người ủng hộ Hillary Clinton trong chiến dịch tranh cử tổng thống lần trước). rằng khi cô phản đối chủ của ḿnh rằng cô ấy cần phải tin vào những ǵ cô ấy đang làm, Manafort nói với cô ấy rằng đó sẽ là "sự sụp đổ của tôi trong công việc kinh doanh này". Cơ sở khách hàng của công ty bao gồm các chính phủ độc tài ở Nigeria, Kenya, Zaire, Equatorial Guinea, Ả-rập Xê-út, và Somalia cùng với nhiều nước khác.

Tổng thống Ferdinand Marcos rất cần một cái nhăn hiệu hợp pháp: vụ ám sát nhà lănh đạo phe đối lập Benigno Aquino Jr. năm 1983 đă làm nản ḷng sự ủng hộ của Quốc hội Hoa Kỳ đối với chế độ của ông. Marcos thuê Manafort để nâng cao h́nh ảnh của ḿnh; vợ ông, Imelda, đă tự chi trả một khoản tiền ban đầu là 60.000 đô la cho công ty trong khi đang trên đường đi đến các tiểu bang. Khi Marcos gọi cuộc bầu cử sơ bộ để chứng minh sự độc tài dân chủ vào năm 1986, Manafort nói với Thời gian, "Những ǵ chúng tôi đă cố gắng làm là làm cho nó trở thành một cuộc bầu cử theo phong cách Chicago chứ không phải của Mexico". Quip là trung thực, nếu không chủ ư như vậy. Trong thuật ngữ chính trị Mỹ, các cuộc bầu cử theo phong cách Chicago thường đồng nghĩa với việc gian lận cử tri. Người b́nh luận cuối cùng Warren Mitofsky đă tới Philippines với CBS News để thành lập và tiến hành một cuộc thăm ḍ ư kiến ​​cho cuộc bầu cử. Khi ông trở về, ông đă nói với nhà khoa học chính trị Sam Popkin về việc một đại diện của công ty Manafort đă hỏi ông như thế nào: "Những ǵ margin có thể làm cho một chiến thắng của Marcos hợp pháp?" Ư nghĩa của nó rơ ràng, Popkin nói với tôi: "Làm sao chúng ta giàn khoan này và vẫn làm hài ḷng người Mỹ? "

Cuộc cải cách cánh tả thành công nhất của công ty là của lănh đạo du kích Angola, Jonas Savimbi, một nhà Maoist đă trở thành người nổi dậy chống cộng, và quân đội của họ đă hành động tàn bạo chống lại trẻ em và đưa phụ nữ vào nô lệ t́nh dục. Trong chuyến đi 1986 của tổng thể đến New York và Washington, Manafort và cộng sự đă tạo ra một tạp chí gọi là "Savimbi Chic". Mặc quần áo trong Nehru, Savimbi được lái xe ṿng quanh và nằm trong Waldorf Astoria và Grand Hotel , chiếu một h́nh ảnh sàng lọc. Công ty đă kiên tŕ chuẩn bị cho nhiệm vụ, gửi cho anh ta hàng tháng báo cáo về khí hậu chính trị ở Washington. Theo The Washington PostSavimbi xuất hiện từ chuyến lưu diễn của ḿnh như là một "phi công tự do" được bảo vệ nhiều. Khi biểu tượng neoconservative Jeane Kirkpatrick giới thiệu Savimbi tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ , bà tuyên bố rằng ông là một "nhà ngôn ngữ học, triết gia, nhà thơ, nhà chính trị, chiến binh ... một trong số ít những anh hùng đích thực của thời đại chúng ta."

Đây là một vợt-Savimbi đă trả công ty 600.000 đô la một ḿnh vào năm 1985 - rằng Black, Manafort, Stone và Kelly cố gắng hết sức để sống; hoạt động kinh doanh của công ty được gắn liền với cuộc nổi dậy liên tục của Savimbi chống lại chế độ cánh tả của Angola. Khi đất nước này đứng trên bờ vực đàm phán hoà b́nh vào cuối những năm 80, sau gần 15 năm nội chiến đẫm máu, công ty này đă giúp bảo đảm các lô hàng tươi mới cho khách hàng, khuyến khích Savimbi đẩy mạnh chiến dịch quân sự của ḿnh. Cựu Thượng nghị sĩ Bill Bradley đă viết trong hồi kư của ḿnh, "Khi Gorbachev rút pháo cắm vào viện trợ Liên Xô cho chính phủ Angola, chúng tôi hoàn toàn không có lư do ǵ để kiên tŕ cứu Savimbi. Nhưng đến lúc đó, ông ta đă thuê một công ty vận động hành lang hiệu quả tại Washington. "Cuộc chiến kéo dài hơn một thập kỷ, giết chết hàng trăm ngàn người Angola.

 

V. Kinh doanh Gia đ́nh

"paul không phải là ư tưởng hệ tư tưởng", người bạn cũ của ông Charlie Black nói với tôi gần đây. Rất nhiều đồng nghiệp của Manafort ở Black, Manafort, Stone và Kelly tuyên bố tin vào giáo lư bảo thủ. Những từ ngữ như tự do và tự dochảy qua những suy nghĩ hằng ngày của họ. Nhưng Manafort ít nói về các nguyên tắc hoặc lư tưởng chính trị đầu tiên. Ông đi xuống từ một ḍng truyền thống chính trị khác nhau, và trong kinh nghiệm h́nh thành của ḿnh, người ta có thể nh́n thấy những thành quả của thế giới quan.

Trở lại những năm 60, quê hương Manafort, New Britain, Connecticut, được biết đến như là Thành phố Phần cứng. Nó nằm trong nhà máy sản xuất các dụng cụ của Stanley và là một mớ hỗn độn về các sắc tộc thiểu số - Ba Lan, Ư, Ailen, Ukraina. Nancy Johnson, người phục vụ New Britain trong Quốc hội, nói với tôi rằng khi cô ấy đến thành phố trong suốt những năm đó, cô ấy không thể tin rằng nó đă tương tác thế nào với thế giới bên ngoài. "Đó là một thành phố nhỏ và rất mọc. Khi các con của tôi ở trường trung học, số bạn học của họ không đến Hartford thật là tuyệt vời. "Hartford, thủ phủ của bang, cách New Britain 15 phút lái xe.

Năm 1919, không lâu sau khi Manaforts di cư từ Naples, gia đ́nh thành lập một công ty phá dỡ, New Britain House Wrecking, cuối cùng trở thành Manafort Brothers, một lực lượng xây dựng địa phương. Khi cha của Manafort, Paul Sr., chạy đua vào thị trưởng năm 1965, ông là một người Cộng ḥa cô đơn cố gắng chiếm được một pháo đài màu xanh lam. Nhưng ông đă có gen schmoozing, cũng như sự dữ dội không thể nhầm lẫn. Paul Carver, cựu thành viên của Hội đồng Thành phố New Britain và là một người bảo vệ của ông lăo, đă nói với tôi, "Nó giống như đi đến quán bar với ông nội của bạn. Anh ta sẽ lấy tay ra và mua một ly đồ uống. Ông đă biết hầu hết mọi người trong thành phố "Paul Jr., được biết đến như PJ với bạn bè của ḿnh, đă làm cho bố của ḿnh tẻ nhạt, lao vào chiến dịch, và thành công của ông sau nhiều thập kỷ sẽ là" ma thuật ". Trong nhiều năm, ông vẫn là một Con trai. Tất cả các đối tác trong công ty của ông đến để biết cha ông, chạy vào ông trong các bữa tiệc mà PJ tổ chức tại Mount Vernon, Virginia, về nhà. Nancy Johnson nói với tôi.

Khả năng quyến rũ vượt bậc của người cao tuổi Manafort làm cho anh ta là một loại h́nh có nhược điểm có xu hướng bị xóa khỏi trí nhớ của công chúng. Tuy nhiên, vào năm 1981, ông bị buộc tội khai man v́ lời khai rằng ông đă cung cấp trong một cuộc điều tra tham nhũng ở thành phố. Cảnh sát New Britain đă bị buộc tội nhắm mắt đánh bạc bất hợp pháp trong thành phố và giả mạo bằng chứng để bảo vệ Joseph "Pippi" Guerriero, một thành viên của gia đ́nh tội phạm DeCavalcante.

Một số cuộc điều tra về việc xáo trộn thông qua chính phủ thối nát của New Britain. Báo cáo tàn phá nhất đến từ Palmer McGee, một luật sư Hartford do New Britain tuyển dụng để phân loại muck của nó. Theo những phát hiện của ông, ông chỉ tay vào Manafort Sr., gọi ông là người "có lỗi nhất." Theo lời khai của một người thổi c̣i, Manafort thẳng thắn tuyên bố rằng ông muốn thuê một người "linh hoạt" để quản lư nhân viên văn pḥng, một nơi "không phải là 100 phần trăm theo luật lệ" Người thổi c̣i cũng đă xác nhận rằng ông đă gửi một phong b́ đến nhà Manafort có chứa các câu trả lời cho kỳ thi mà các sĩ quan cảnh sát tham vọng phải vượt qua - và điều đó Manafort đă trao nó cho hai ứng cử viên qua một thân nhân. Manafort không bao giờ phủ nhận việc nhận phong b́ nhưng nhấn mạnh rằng ông ta chỉ đơn thuần yêu cầu "vật liệu bóc vỏ".

Thời hiệu cấm các công tố viên nộp đơn buộc tội Manafort v́ tội gian lận xét nghiệm - và cuối cùng ông ta chưa bao giờ bị kết tội khai man. Nhưng vụ bắt giữ của anh ta đă gây ra Hartford Courantđể biên soạn một danh sách các giao dịch phản ánh xấu đối với ông: "Trong suốt hơn hai mươi năm của ông trong cuộc sống công cộng, ông đă được trọng tâm của tranh căi, và một số cáo buộc về hành vi sai trái." Các litany bao gồm một đơn khiếu nại với Bộ Gia cư và đô thị Phát triển cáo buộc anh ta chỉ đạo các hợp đồng với Manafort Brothers, cổ phiếu mà anh ta vẫn sở hữu trong khi thị trưởng. Khi các nhà đầu tư từ Florida xây dựng sân vận động tại Bridgeport - sử dụng quỹ hưu trí của Teamsters để tài trợ cho dự án - Manafort đă "không đúng" hoàn thiện giấy phép môi trường. Kinh doanh gia đ́nh của anh ta sau đó đă tăng phí cho công việc của ḿnh trên đấu trường để tiền có thể được đá trở lại cho Teamsters. (Các doanh nghiệp thừa nhận lạm phát phí của nó, nhưng một bồi thẩm đoàn từ chối đưa ra một bản cáo trạng) Ngay cả trước khi vụ bê bối này phá vỡ,

Sự khôn ngoan thông thường cho thấy rằng những cám dỗ của Washington DC đă làm hỏng tất cả những người theo chủ nghĩa lư tưởng, những người naïfs, và những người định cư ở đó. Nhưng nếu công thức đó trở thành nguyên nhân ngược trở lại? Điều ǵ sẽ xảy ra nếu nó có một người bên ngoài để làm giảm vốn và tạo ra cái gọi là đầm lầy? Khi Paul Manafort Jr. đă phá vỡ các quy tắc, khi ông hoạt động bên ngoài của một mă đạo đức, ông đă thực sự theo gương ông biết tốt nhất. Sau đó ông nói về công việc của ḿnh với cha ḿnh trong một cuộc phỏng vấn với một tờ Connecticut địa phương, "Một số kỹ năng mà tôi đă học ở đó vẫn c̣n sử dụng ngày nay ... Đó là nơi tôi cắt răng."

 

VI. Al Assir

vào cuối những năm 1980, Manafort có một người bạn mới từ nước ngoài, người mà ông đă đề cập đến các đối tác của ḿnh nhiều hơn bất kỳ một đại lư vũ khí khác từ Lebanon tên là Abdul Rahman Al Assir. "Tên anh ấy vẫn tiếp tục xuất hiện," Peter Kelly nhớ lại. Trong khi Al Assir chưa bao giờ đánh giá cao sự quan tâm của báo chí Mỹ, ông đă có mối liên hệ gia đ́nh. Ông từng là một trong những người anh rể của đại lư vũ khí Saudi Adnan Khashoggi, người trung gian được sử dụng trong chương tŕnh vũ trang cho con tin đă trở thành vụ bê bối Iran-Contra. Vào đầu những năm 80, Khashoggi trị giá 4 tỷ USD; tiểu sử của ông, xuất bản năm 1986, có tựa đề Người giàu nhất thế giới. Vào thời đỉnh cao của sự giàu có, Khashoggi đă chi 250.000 đô la mỗi ngày để duy tŕ phong cách sống của ḿnh - bao gồm hàng chục ngôi nhà, 1.000 bộ quần áo, một chiếc du thuyền trị giá 70 triệu đô la, và một chiếc máy bay tùy biến, được mô tả như là một "thợ vũ trụ bay Las Vegas".

Al Assir là đại diện của đế chế Khashoggi ở Tây Ban Nha và là nhà môi giới buôn bán vũ khí lớn cho quân đội châu Phi. Anh đă tự kiềm chế bản thân trong số những người giàu có và nổi tiếng, bộ đồ bơi trong Gstaad, Thụy Sĩ, và ở phía Nam nước Pháp. Tờ tạp chí tiếng Ả Rập Sourakia viết: "Phép lạ của Al Assir là anh ta sẽ ăn trưa với Don Juan Carlos, vua ăn tối với Hassan II, và ăn sáng vào ngày hôm sau với Felipe González [thủ tướng của Tây Ban Nha]. "

Manafort đề nghị với các đối tác rằng Al Assir có thể giúp kết nối công ty với khách hàng trên toàn thế giới. Ông muốn tăng phạm vi tiếp cận toàn cầu của công ty. Việc Manafort khám phá những biên giới đạo đức ngoài cùng của hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đă khiến ông ta phải tiếp xúc với những kẻ kleptocrats, kẻ côn đồ và những nhân vật đáng nghi ngờ khác. Nhưng không có mối quan hệ nào trong những mối quan hệ này in sâu hơn t́nh bạn và mối quan hệ hợp tác kinh doanh của ông với Al Assir. Vào những năm 90, cả hai bắt đầu đưa ra những thỏa thuận lớn. Một trong những điểm đáng chú ư là bán vũ khí mà họ giúp môi giới giữa Pháp và Pakistan, bôi trơn bởi hối lộ và tiền của các quan chức cấp cao ở cả hai nước, dẫn tới những cáo buộc giết người.

Đại lư vũ khí Al Assir giới thiệu Manafort với một thế giới quư tộc đă vượt quá bất cứ điều ǵ ông từng biết.

Tất cả mọi thứ được cho là bắt đầu với một bữa tối năm 1993 do Manafort tổ chức tại nhà của ông ở Virginia và có sự tham dự của Thủ tướng Pakistan Benazir Bhutto. Bhutto vừa trở lại nắm quyền sau ba năm trong phe đối lập, và Manafort rất mong muốn công việc kinh doanh của ḿnh. Cô biết anh là một người thao túng có tay nghề của dư luận, và trong suốt bữa ăn, Manafort đă thể hiện bản thân ḿnh có tính chiến lược và quyến rũ nhất. Một cựu quan chức Pakistan đă tham dự bữa ăn tối nói với tôi rằng Bhutto đă đi ra quyết tâm sử dụng các dịch vụ của ḿnh. Bà cho rằng Manafort làm việc với cơ quan t́nh báo Pakistan. Spooks ở Islamabad đă quan sát thấy sự vội vă quốc tế để thuê các vận động viên vận động hành lang của Washington, và họ đang kêu gọi một người trong số họ.

Cũng vào thời điểm đó, Pakistan đang t́m kiếm để nâng cấp đội tàu ngầm của họ, và các nhà thầu vũ khí châu Âu chạy đua để hawk của họ. Cuối cùng, nhà sản xuất nhà nước của Pháp đă giành được hợp đồng - và Al Assir đă được thêm vào làm người trung gian vào phút chót. Một vụ bê bối tiếp theo vẫn c̣n đang mở ra, khoảng 20 năm sau, sẽ vướng vào cả Al Assir và Manafort. Nó dẫn đến những cáo buộc bị cáo buộc vào chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1995 của Édouard Balladur, dường như sắp xếp bởi Bộ trưởng Quốc pḥng Pháp. Al Assir dường như đă được một ống dẫn chính của kickbacks. Nhiều năm sau, vào năm 2002, một quả bom xe đă nổ ở Karachi, giết chết 11 kỹ sư hải quân của Pháp khi chuyển sang xưởng đóng tàu nơi các tàu ngầm đang được lắp ráp cùng với ba người Pakistan. Một lư thuyết, được hỗ trợ nhiệt t́nh bởi một số gia đ́nh các kỹ sư,họ như một phần của hợp đồng chưa bao giờ đến.

Manafort không phải là một nhân vật trung tâm trong vụ tai tiếng này, và không bao giờ bị buộc tội. Nhưng với tư cách là cựu viên chức Pakistan, tôi đă nói với tôi rằng "Ông ta là người giới thiệu - và ông ta đă nhận một khoản phí cho phần của ḿnh". Tài liệu cho thấy Manafort kiếm được ít nhất 272.000 đô la Mỹ như là một nhà tư vấn cho chiến dịch của Balladur, tuy nhiên, như Manafort sau đó đă thừa nhận với các nhà điều tra Pháp, đó là Al Assir, người đă trả cho anh ta. (Balladur đă từ chối bất kỳ hành động sai trái nào và không nhớ Manafort đă làm việc cho anh ta) Al Assir không thể tiếp cận được để b́nh luận về câu chuyện này.

Manafort và Al Assir đă được nhiều hơn các đối tác kinh doanh. "Họ rất huynh đệ," người quen của họ nói với tôi. Manafort đă đưa Al Assir trở thành khách mời của ông trong lễ nhậm chức của George HW Bush vào năm 1989. Khi Al Assir và vợ thứ hai của ông có con, Manafort trở thành cha đỡ đầu. Gia đ́nh họ đi nghỉ ở Cannes. Al Assir giới thiệu Manafort với một thế giới quư tộc vượt quá mọi thứ mà ông từng biết. "Có tiền, và có rất nhiều tiền", một người bạn của Manafort nói với tôi. "Paul đă nhận thức được sự khác biệt giữa việc kiếm được 300.000 đô la và 5 triệu đô la. Ông ta đă khám phá ra phía nam nước Pháp. Al Assir sẽ chỉ cho anh ta thấy cuộc sống đó như thế nào. "

Các đồng nghiệp ở Black, Manafort, Stone và Kelly nhận thấy những thay đổi đi kèm với sự phát triển của t́nh bạn. Phong cách lịch sử của Manafort đă bắt đầu tôn vinh Al Assir, với sự phát triển của dandy châu Âu. Đột nhiên anh ta bắt đầu mặc những chiếc áo sơ mi phi truyền thống và giày lót da lộn mà không có tất. Trong những năm đầu của công ty, Manafort đă từng là một cố định của văn pḥng, một tổng giám đốc trụ sở chính của ông. Nhưng bây giờ ông thường xuyên bay sang Pháp hoặc Tây Ban Nha, cộng tác với Al Assir về các dự án vẫn c̣n là một bí ẩn đối với cấp dưới của ông, và thậm chí đối với các đối tác của ông. "Paul đă đi với những thứ nước ngoài khác nhau mà không ai trong chúng tôi biết," Peter Kelly nói với tôi.

Phong cách sống của Manafort mang lại những nét đậm đà tinh tế, nổi bật giữa sự tỏa hương tương đối của Washington. Khi Andrea bày tỏ mối quan tâm đến việc cưỡi ngựa, Manafort đă mua một trang trại gần Palm Beach, sau đó thả nó bằng những con ngựa đặc biệt được nhập khẩu từ Ireland, đ̣i hỏi một nhân viên làm việc toàn thời gian để có xu hướng. John Donaldson, bạn của Manafort, nhớ lại: "Anh ấy đang cạnh tranh với Al Assirs của thế giới - và anh ấy muốn sống trong lối sống đó."

 

 

Manufort của bất động sản Hamptons bao gồm một putting green và một sân bóng rổ. Ông tin rằng chỉ có "những người nuôi bú không c̣n nợ nữa", một đồng nghiệp cũ cho biết. (Bản đồ Google)

 

Luôn luôn nghi ngờ giữa các đồng nghiệp của Manafort trong công ty rằng ông đang kiếm tiền cho ḿnh mà không quan tâm đến đối tác của ḿnh. Sự xuất hiện không thường xuyên của Al Assir trên báo chí quốc tế cho thấy trọng lượng nghi ngờ. Một hợp đồng môi giới của Al Assir đă giúp trục trặc một ngân hàng tư nhân ở Lisbon. Năm 2002, ông và Manafort đă thuyết phục ngân hàng đầu tư 57 triệu euro vào một công ty sinh trắc học Puerto Rico. Theo báo cáo của tờ báo Bồ Đào Nha Observador, Manafort là nhà đầu tư hàng đầu của Mỹ trong công ty; sự tham gia của ông đă giúp minh chứng cho sự đầu tư của ngân hàng, bất chấp bằng chứng về các sản phẩm bị lỗi của công ty và kế toán lỏng lẻo. Al Assir được cho là đă rút các khoản tiền hoa hồng từ thỏa thuận này và đă bỏ một số khoản vay của ngân hàng. Manafort đă bán 1,5 triệu USD cổ phần của công ty sinh trắc học trước khi công ty cuối cùng rơi xuống.

Các câu chuyện về sự trơn trượt của Manafort đă có được trạng thái thần thoại. Vào mùa hè năm 2016, Kenneth Vogel của Politico , bây giờ với The New York Times , đă viết một bài diễn văn nghiêm ngặtcủa một tin đồn lâu năm: Manafort đă nói rằng đă bỏ đi với 10 triệu USD tiền mặt từ Ferdinand Marcos, tiền mà ông hứa sẽ đưa ra chiến dịch tái tranh cử của Ronald Reagan (mà bản thân nó là bất hợp pháp). Vogel dựa vào một phần trong cuốn hồi kư 1996 của Ed Rollins, một nhà tư vấn của đảng Cộng ḥa và giám đốc chiến dịch tái tranh cử của Reagan. Trong cuốn sách, Rollins đă kể lại một cuộc tṛ chuyện bên bữa ăn tối với một thành viên của đại hội Philippines, người đă tuyên bố đă đích thân trao tặng một va li tiền mặt cho một nhà vận động hành lang quyền lực nổi tiếng ở Washington tham gia vào chiến dịch của Marcos. Rollins không xác nhận hay phủ nhận rằng nhà vận động hành lang là Manafort, mặc dù mô tả của ông không để lại nhiều bất ổn, và ông thừa nhận trong một email rằng "đó là một dự đoán khá tốt.

Manafort đă luôn luôn phủ nhận những lời đả kích của Rollins - "những thứ cũ mà chưa bao giờ có chân", ông nói với Vogel. Và như một vấn đề thực tế, thật khó tưởng tượng rằng bất cứ ai cũng có thể thu được 10 triệu đô la trong một va li. Tuy nhiên, Vogel đă t́m thấy rất nhiều bằng chứng cụ thể cho thấy tính hợp lư của câu chuyện. Khi tôi hỏi các đồng nghiệp cũ của Manafort về kỉ niệm, họ không thể xác nhận câu chuyện. Nhưng một số người đă không phải đấu tranh để tưởng tượng nó cũng có thể đúng. Mặc dù John Donaldson nghi ngờ tính xác thực của câu chuyện, ông nói với tôi rằng nó vẫn tồn tại bởi v́ nó phản ánh đạo đức của Manafort. "Tôi biết Paul sẽ xem nó như thế nào. Paul sẽ ngồi đó và nói, 'Những người này không thể tiếp cận Reagan. Tôi có thể giúp họ tiếp cận với Reagan. Họ muốn tặng 10 triệu đô cho Reagan. Reagan không thể kiếm được 10 triệu đô la. Tôi sẽ lấy 10 triệu đô la. Họ nghĩ rằng họ sẽ nhận được ảnh hưởng của họ. Mọi người đều hạnh phúc."

Một cựu sinh viên của công ty Manafort trả lời câu hỏi của tôi về tiền Marcos với một giai thoại. Sau cuộc bầu cử của George HW Bush, Black, Manafort, Stone và Kelly đă đồng ư giúp tổ chức các lễ hội khánh thành. Công ty đă ủy thác một công ty từ Rhode Island để bán đồ lưu niệm trên đường đi bộ-Áo phông, nút bấm, và những thứ tương tự. Sau khi các phi hành đoàn hạ vị trí kiểm tra và quét sạch các mảnh vụn, người alumnus nhớ lại, một nhà cung cấp đă xuất hiện trong văn pḥng với một túi đầy đủ tiền mặt. Với sự không tin của đồng nghiệp của ḿnh, Manafort đă sắp xếp để cắt giảm của riêng ḿnh. "Đó là thuế của Paul," cựu nhân viên nói với tôi. "Tôi đoán anh ta cần một boong mới. Nhưng điều này là cổ điển: Một người khác làm công việc, và anh ta đi với túi tiền mặt. "

Đă dành rất nhiều thời gian trong công ty của đầu sỏ chính trị, Manafort đă quyết định trở thành một trong ḿnh.

Các đồng nghiệp nghi ngờ điều tồi tệ nhất về Manafort v́ họ đă quan sát thấy sự điên cuồng đang tăng lên của ḿnh để tích lũy tài sản, làm thế nào ông ta mua nhà thứ hai, thứ ba và thứ tư. "Anh ta sẽ mua một căn nhà mà không bao giờ thấy", một cựu đồng nghiệp nói với tôi. Sở hữu Hamptons của anh ấy đi kèm với sân chơi bóng rổ, hồ bơi và khu vườn. "Ông ấy tin rằng những con mèo sẽ không c̣n nợ nữa", đồng nghiệp nói với tôi. Chi tiêu không chồng chiu và nợ nần của ông yêu cầu phải có một cuộc t́m kiếm vĩnh viễn cho những ngày lương lớn hơn và những kế hoạch rủi ro hơn.

Năm 1991, Black, Manafort, Stone và Kelly đă được mua bởi công ty thương mại lớn Murs Burson-Marsteller, cơ quan lớn thứ hai trên thế giới. Đó là thời điểm hợp nhất trong ngành công nghiệp, nơi những người chơi lớn nhất đă hiểu được có thể làm được bao nhiêu tiền từ mô h́nh mà Manafort đă tạo ra. Tuy nhiên, gần như ngay khi Burson mua lại công ty, Tom Bell, người đứng đầu văn pḥng tại Washington, bắt đầu nhận thấy cách Manafort không chơi theo luật lệ. Ông đă hoạt động như một chuyên gia tự do, làm việc trong các dự án mà không bao giờ đạt được kết quả cuối cùng. Năm 1995, Manafort rời Burson. Nhặt được một số đồng nghiệp với anh ta, anh ta bắt đầu một công ty mới là Davis, Manafort và Freedman - và một chương mới, một chương tŕnh sẽ thấy anh ta bước vào lĩnh vực điện Kremlin.

 

VII. Thầy của Kiev

trong thập kỷ 80 và 90, một đại lư vũ khí đă đứng ở đỉnh cao của sự giàu có toàn cầu. Trong thế kỷ mới, các nhà đầu sỏ chính trị hậu Xô viết leo lên vị trí đó. Những tham vọng của Manafort đă kéo theo sự thay đổi đó. Công ty mới của ông t́m đường đến một bộ titans mới, với sự giúp đỡ của một người thừa kế tài sản cổ đại.

Năm 2003, Rick Davis, một đối tác của công ty mới của Manafort, được mời đến văn pḥng của một quỹ pḥng hộ tại Midtown Manhattan. Trát đ̣i đă không tiết lộ tên của người đàn ông yêu cầu sự hiện diện của ḿnh. Khi Davis đến, anh ta thấy ḿnh đang bơm bàn tay của ông Nathaniel Philip Victor James Rothschild, một nhà tài trợ sinh ra ở Anh, gọi là Nat. Trong suốt sự nghiệp trẻ của ḿnh, Nat đă thu hút báo chí London với những mối quan tâm yêu thương, nhà ở của ông và những khoản đầu tư khôn ngoan của ông. Sinh nhật lần thứ 40 của anh, anh đă tự tổ chức một bữa tiệc huyền thoại ở Balkan của Montenegro, với chi phí là hơn 1 triệu đô la - một lễ hội hedonism kéo dài ba ngày, với cây cọ nhập khẩu từ Uruguay.

 

 

Nathaniel Philip Victor James Rothschild

 

Các đầu sỏ chính trị của Nga đă được rút ra cho Rothschild, có tên connoted quyền lực - và ông với họ. "Anh ấy thích thế giới hoang dă này," Anders Åslund, một người bạn của Rothschild, nói với tôi. Rothschild đă đầu tư rất nhiều vào nền kinh tế hậu cộng sản và trở thành cố vấn chính (và một người bạn) cho tỷ phú người Nga Oleg Deripaska.

Rothschild và Deripaska đă tạo ra những tham vọng lớn của nhau. Giống như một cặp đế quốc cũ, họ tưởng tượng ra các chính phủ mới, thông cảm ở Đông Âu có thể tiếp nhận và bảo vệ đầu tư của họ. Dự án của họ đ̣i hỏi loại chuyên môn mà Manafort đă dành nhiều năm tích lũy. Năm 2004, Rothschild thuê công ty mới của Manafort để hồi sinh ảnh hưởng của một chính trị gia lưu vong Georgian, cựu công tố viên KGB và bạn của Deripaska sau đó sống ở Moscow. Điều này được thực hiện cho một thang máy nặng v́ gần đây đă bị buộc tội trong ṭa án như là một máy vẽ trung tâm trong một âm mưu ám sát tổng thống của đất nước, Eduard Shevardnadze. (Ông ta phủ nhận sự tham gia) Kế hoạch khôi phục chưa bao giờ phát triển đầy đủ, nhưng một vài năm sau đó,

Lợi ích của Deripaska không chỉ là tài chính. Ông luôn luôn t́m cách để xoa dịu sự ủng hộ với nhà nước Nga. Một email tháng 8 năm 2007 của Lauren Goodrich, một nhà phân tích của công ty t́nh báo toàn cầu Stratfor, và sau đó được đăng trên Wikileaks, mô tả Deripaska tự hào với cô về việc ông đă tự đặt ḿnh là "không thể thiếu đối với Putin và Kremlin". v́ ông đă chứng kiến ​​Kremlin trục xuất các đế chế khổng lồ của các đầu sỏ chính trị như Mikhail Khodorkovsky người dám thách thức ông Putin. Trong thực tế, Kremlin đă xem xét Deripaska một proxy thiết yếu. Khi Hoa Kỳ bác bỏ thị thực của Deripaska, người Nga đưa cho ông một hộ chiếu ngoại giao, cho phép ông ta tới Washington và New York.

Manafort đă hiểu Deripaska đánh giá cao quan hệ cộng sinh của ḿnh với Kremlin như thế nào. Theo Associated Press, ông đă đưa ra một hợp đồng vào năm 2005, đề xuất rằng Deripaska tài trợ một nỗ lực để "ảnh hưởng đến chính trị, kinh doanh và bảo hiểm tin tức bên trong Hoa Kỳ, Châu Âu và các cựu Liên bang Xô viết để có lợi cho chính phủ của Tổng thống Vladimir Putin" (Deripaska nói. ông không bao giờ đưa Manafort lên đề xuất này.)

Sự ḱm kẹp của Kremlin trên lĩnh vực Soviet cũ đă đặc biệt bấp bênh trong những năm đầu tiên. Chương tŕnh nghị sự dân chủ của Tổng thống George W. Bush đă đưa ra một cảm giác gần như thiên sai về cách Hoa Kỳ có thể giải phóng một thời đại tự do mới. Tuyên bố hùng hồn của Mỹ đă đặt ra một mối đe dọa hiện hữu đối với các nhà cai trị trong khu vực, những người thân thiện với Nga và đă trở nên giàu có bằng cướp bóc các nguồn lực của nhà nước. Đột nhiên, mối đe dọa của cuộc cách mạng dân chủ không c̣n lư thuyết nữa.

Những rủi ro của cuộc nổi dậy phổ biến là rất nhiều trong tâm trí Rothschild và Deripaska trong những tháng cuối năm 2004, khi họ đưa Manafort một nhiệm vụ cụ thể. Ukraine đă rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, một trong đó gây nguy hiểm cho lợi ích kinh doanh mà họ đă phát triển ở nước này (Rothschild có nhiều khoản đầu tư cổ phần tư nhân, Deripaska đă có một nhà máy luyện nhôm). Họ đă gửi Manafort đến Kiev để hiểu làm thế nào họ có thể giảm thiểu nguy hiểm.

Trong tất cả các cuộc phiêu lưu nước ngoài của Paul Manafort, Ukraine nhất đă duy tŕ sự chú ư của ḿnh, cuối cùng là loại trừ các hoạt động kinh doanh khác của ông. Nền chính trị của đất nước hầu như không phải là đơn giản như được miêu tả; tham nhũng mở rộng các xúc tu của nó vào tất cả các bên chính. Tuy nhiên, bài tường thuật về thời gian của Manafort ở Ukraine không phải là quá phức tạp. Ông đă làm việc thay mặt cho một nhóm của những tên côn đồ cũ từ miền đông nước này, những đầu sỏ chính trị có liên hệ ngôn ngữ và văn hoá với Nga, và muốn kiểm soát chính trị của cả nước. Khi Manafort đến, ứng cử viên của nhóm này, Viktor Yanukovych, đang phải đối mặt với cáo buộc rằng ông đă cố gắng giấu cuộc bầu cử tổng thống năm 2004 với sự gian lận và hăm dọa, và có thể bằng cách ngộ độc đối thủ của ông với dioxin. Ông vẫn thua cuộc bầu cử mặc dù đă nhập khẩu hàng loạt các chuyên gia tư vấn từ Moscow.

 

 

Ferdinand Marcos ( trái ), Viktor Yanukovych ( trung tâm ), và Jonas Savimbi ( phải ) nằm trong số những người hùng mạnh mà Manafort đă khuyên và giúp đỡ. (AP, Dmitry Azarov / Kommersant Photo, Selwyn Tait / Getty)

 

Bởi thời gian Manafort lần đầu tiên giải trí khả năng làm việc với Yanukovych, ứng cử viên đă bị đánh bại vừa trở về Kiev sau một cuộc lưu vong tự áp đặt tại một khu nghỉ mát của Séc. Họ đă gặp nhau tại một lâu đài điện ảnh cũ đă được chuyển đổi thành trụ sở chính cho tổ chức chính trị của ông, Đảng của khu vực. Khi Manafort bước vào ṭa nhà hùng vĩ, nơi này là một lăng mộ và Yanukovych một người cận vệ. "Người ta tránh nó," Philip Griffin nói. "Anh ta phóng xạ."

Manafort chăm sóc Yanukovych giống, tốt, ḿnh. Åslund, người đă tư vấn cho chính phủ Ucraina về chính sách kinh tế, nói với tôi, "Yanukovych và Manafort gần như chính xác cùng kích cỡ. V́ vậy, họ là những người đàn ông cao lớn. Ông Yanukovych đă được làm bằng gỗ ở nơi công cộng và riêng tư, nhưng "Manafort đă dạy ông cách mỉm cười và làm thế nào để nói chuyện nhỏ." Và ông ta làm tất cả lặng lẽ, "từ ghế sau. Anh ấy đă làm nó rất thanh lịch. "

Ông cũng chỉ đạo nhóm của Yanukovych tiếp tục duy tŕ một chủ đề duy nhất mỗi tuần - nói rằng, điều kiện xin lỗi của người về hưu. Đây không phải là những kỹ thuật tinh vi nhất, nhưng họ chưa bao giờ được triển khai ở Ukraine. Yanukovych tự hào về chuyến đi Mỹ của ḿnh. Sau khi ông thuê Manafort, ông đă mời Đại sứ Hoa Kỳ John Herbst vào văn pḥng của ông, đặt một cuốn sách liên kết chứa chiến lược của Manafort trước mặt ông và tuyên bố: "Tôi sẽ đi với Washington."

Manafort thường biện minh cho công việc của ông ở Ucraina bằng cách lập luận rằng ông hy vọng sẽ hướng dẫn đất nước này tới châu Âu và phương Tây. Tuy nhiên, các dữ liệu thăm ḍ ư kiến ​​của ông gợi ư rằng ông Yanukovych nên nhấn mạnh đến sự phân chia văn hoá trong nước, theo quan điểm của những người Nga nói tiếng Ukraina ở phía đông Ukraine. Và chắc chắn, khách hàng của ông đă chống lại sự mở rộng của nato . Khi một nhà ngoại giao Hoa Kỳ phát hiện ra một bài diễn văn chống Mỹ trên trang web của Đảng, Manafort nói với ông ta: "Nhưng nó không phải là phiên bản tiếng Anh."

Đảng của ông Yanukovych đă thành công trong các cuộc bầu cử nghị viện vượt quá mọi mong đợi, và các đầu sỏ chính trị đă tài trợ cho nó liên quan đến Manafort với sự tôn trọng to lớn. Kết quả là, Manafort bắt đầu trải qua nhiều thời gian dài hơn ở Ukraine. Một trong những món quà lớn nhất của ông khi là một doanh nhân là sự táo bạo của ông, và các nhà hảo tâm Ucraina của ông đă tích lũy được rất nhiều vận may. Những khoản tiền khổng lồ mà Manafort lập hoá đơn, lớn hơn nhiều so với bất kỳ khoản tiền mà ông ta đă nhận được, có vẻ hoàn toàn b́nh thường. Một người liên kết của Manafort mô tả hệ thống theo cách này: "Paul sẽ yêu cầu một khoản tiền lớn," Yanukovych sẽ chấp thuận, và sau đó là nhân viên của ông "sẽ đi đến các đầu sỏ chính trị khác và yêu cầu họ đá vào." để trả một triệu ". Họ sẽ phàn nàn, nhưng Yanukovych hỏi, v́ vậy họ sẽ cho. "

Khi Yanukovych giành được chức vụ tổng thống vào năm 2010, ông đă cho Manafort quyền "đi dạo", cho phép ông đi dạo vào pḥng khách nội trú của các văn pḥng tổng thống bất cứ lúc nào. Yanukovych có thể bị bắt nạt, và khi nhiệm kỳ tổng thống của ông tiến triển, ông càng ngày càng tự cắt giảm khỏi các cố vấn. Manafort, tuy nhiên, biết làm thế nào để thay đổi suy nghĩ của Yanukovych, bằng cách sử dụng các cuộc bỏ phiếu và các lập luận chính trị để làm cho trường hợp của ông. Oleg Voloshyn, cựu phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, nói với tôi rằng ông chủ của ông, Bộ trưởng Ngoại giao, cuối cùng đă chuyển sang Manafort để đưa tin và đưa ra các lập luận về các ưu tiên chính sách đối ngoại của ông ta. "Yanukovych sẽ lắng nghe anh ấy," Voloshyn nói với tôi, "khi các lập luận của chúng tôi bị bỏ qua."

 

VIII. Một sự đảo ngược của tài sản

trước khi mọi thứ bùng nổ ở ukraine, Manafort đă nh́n thấy đất nước như là vùng đất vàng của ḿnh, cơ hội lớn nhất của ông. Nhưng vai tṛ của ông là cố vấn, mạnh mẽ như vậy, không bao giờ phù hợp với cảm giác tự tin của ḿnh. Sau khi dành rất nhiều thời gian trong công ty của các đầu sỏ chính trị Nga và Ucraina, ông đă đặt ra để trở thành một đầu sỏ chính trị. Rick Davis tuyên bố công ty của họ chủ yếu là "trong kinh doanh thỏa thuận", theo cuốn sách của James Harding năm 2008, Alpha Dogs: Những người Mỹ đă biến chính trị thành một doanh nghiệp toàn cầu . Ông Davis nói: "Điều tôi yêu thích là giới tinh hoa chính trị và giới tinh hoa kinh tế ở mọi quốc gia khác nhưng Hoa Kỳ đều giống nhau." Các viên chức được bầu và dân "chạy các cuộc bầu cử là những người giàu nhất trong đất nước, những người sở hữu tất cả các tài sản. "

Năm 2006, Rick Gates, người đă bắt đầu làm người quản lư bánh xe tại công ty cũ, đă đến Kiev. Manafort đă đặt ông ta vào vị trí lănh đạo của một công ty cổ phần tư nhân mới mà ông ta đă tạo ra tên là Pericles. Ông dự định sẽ huy động 200 triệu đô la để đầu tư vào ngân hàng ở Ukraine và Nga. Philip Griffin nói với tôi: "Đó là một thị trường trinh nguyên trong hầu hết các ngành công nghiệp mà bạn muốn mua.

Manafort luôn mong muốn dựa vào tài chính từ Oleg Deripaska để tài trợ cho Pericles. Năm 2007, Manafort đă thuyết phục ông ta cam kết 100 triệu USD cho dự án, một khoản tiền mà hầu như không thể kiếm được tài sản của nhà tài phiệt. Trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, ông đă trị giá 28 tỷ USD.

Deripaska trao tiền cho Paul Manafort v́ ông tin tưởng ông. Manafort nhiều lần đi đến văn pḥng Moscow của chính quyền, nơi họ sẽ ngồi hàng giờ và tham quan kinh doanh và đường chân trời chính trị của khối Đông Âu cũ. Deripaska đă trở thành một tỷ phú trong độ tuổi 30 của ḿnh, và đă mua lại những âm mưu ồn ào của sự giàu có trẻ. Ông muốn trở thành gương mặt toàn cầu của Nga, ông nói. Nhưng điều đó sẽ đ̣i hỏi phải vượt qua được danh tiếng đă lẩn tránh anh ta, và Manafort có thể giúp đỡ. Năm 2001, trước khi Manafort và Deripaska gặp nhau, Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos đă rút lại lời mời tham gia vào đầu sỏ chính trị, như một ṭa đă xem xét các hành động sai trái của ông ta trong quá tŕnh xây dựng đế chế của ông ta. Năm năm sau khi Davos từ chối, Rick Davis đă nhồi nhét Deripaska quanh khu phố cổ nhất, đưa ông tới một bữa tiệc tràn ngập Mỹ

Đối với hợp đồng đầu tiên của Pericles, Manafort đă sử dụng tiền của Deripaska để mua một công ty viễn thông ở Odessa với tên gọi Chorne More ("Black Seas" bằng tiếng Anh) với chi phí 18,9 triệu USD. Ông cũng tính phí quản lư phí trị giá 7.35 triệu đô la cho việc giám sát liên doanh.

Nhưng vài tháng sau khi vụ mua lại của Chorne More, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đă tràn ngập thị trường của Deripaska. Nó đă giảm mạnh đến mức ông cần một khoản cứu trợ trị giá 4,5 tỉ đô la từ ngân hàng quốc doanh Nga để tồn tại. Khoản vay bao gồm một khoản thanh toán lăi dưới h́nh thức hạ nhục: Putin đă đi đến một trong những nhà máy của Deripaska và đưa cho ông ta trên truyền h́nh.

Khi thế giới của Deripaska sụp đổ, các đại diện của ông đă yêu cầu Manafort thanh lư Pericles và cho ông ta chia sẻ công bằng. Manafort ít có lựa chọn nhưng phải đồng ư. Nhưng lời hứa đó không bao giờ được chuyển thành hành động. Một cuộc kiểm toán của Chorne Hơn Rick Gates đă nói như vậy là không bao giờ thực hiện. Sau đó, vào năm 2011, Manafort ngừng đáp ứng với đội ngũ đầu tư của Deripaska.

Deripaska không cho rằng quan niệm Manafort nợ anh ta. Vào năm 2015, các luật sư của ông đă đệ tŕnh lên ṭa án ở Virginia. Họ muốn có thẩm quyền để theo dơi thêm thông tin về thỏa thuận, mặc dù các giấy tờ ban đầu cho nó đă được nộp ở Quần đảo Cayman. Các luật sư đă nắm bắt được một số tài liệu hướng dẫn xung quanh thỏa thuận, và họ đă rút ra một lời giải thích muộn màng về những ǵ đă xảy ra từ Gates. Theo một phát ngôn viên của Deripaska, Gates cho biết, Chorne More đă không trả được khoản nợ 1 triệu đô la mà họ phải trả để chi tiêu vốn, bị cáo buộc mất toàn bộ đầu tư của công ty trong quá tŕnh này. Lời giải thích này làm cho các luật sư của Deripaska trở nên vô lư. Deripaska bắt đầu nghi ngờ công khai liệu Manafort thậm chí đă mua công ty viễn thông ở nơi đầu tiên. "Hiện tại có vẻ như Quan hệ đối tác không bao giờ mua được bất cứ thực thể nào của Chorne More", luật sư của ông cho hay.

Tất cả các giấy tờ cho thỏa thuận ban đầu đă bao gồm tên của Rick Davis. Họ gợi ư rằng anh ta sẽ là đối tác của Manafort, và cổ phần đó sẽ được phân chia đều giữa hai người. Nhưng Davis không biết ǵ về thỏa thuận Chorne More. Trong khi Manafort đă tập hợp Pericles, Davis đă nghỉ phép từ Davis, Manafort và Freedman, điều hành chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của John McCain. Bởi v́ các kết nối của Davis với Manafort và Deripaska đă khiến ông bị nhức đầu về quan hệ công chúng ngay từ khi bắt đầu chiến dịch, ông đă giữ khoảng cách lành mạnh từ cả hai người. Khi các luật sư của Deripaska hỏi ông về số tiền mà ông cho là nợ khách hàng của họ, Davis đă bị sa thải. Ông sớm phát hiện ra rằng Manafort cũng đă đăng kư một công ty mới - Davis Manafort International - để tiếp tục kinh doanh trên tên cũ của công ty, trong khi cắt giảm anh ta ra khỏi phí tư vấn.

Các luật sư của Deripaska đă đưa ra một cáo buộc nghiêm túc - và đúng với mô h́nh của ông, Manafort chưa bao giờ đệ tŕnh một câu trả lời. Một người bạn đồng nghiệp cũ nói với tôi: "Những người biết Manafort dài nhất gợi ư rằng điều này phản ánh khuynh hướng chạy trốn khỏi các cuộc khủng hoảng cá nhân:" Anh ta sẽ bay trên một chiếc máy bay và bay tới Hawaii- và sẽ trở lại khi mọi thứ nổ tung " nhắc lại phản ứng của Manafort đối với vụ bê bối vào cuối những năm 80. Nhưng đó là một điều để che giấu từ các phóng viên; nó là một để ẩn từ Oleg Deripaska. Mặc dù không c̣n là người giàu thứ 9 trên thế giới, nhưng anh vẫn cực kỳ mạnh mẽ.

Sự thật là sau đó, các lựa chọn của Manafort đă bị giới hạn: Mặc dù tất cả những ǵ ông ta thu được ở Ukraine, có vẻ như ông ta không thể trả lại Deripaska. Trong nhiều năm, theo bản cáo trạng của ḿnh, Manafort đă t́m ra những phương cách thông minh để chuyển tiền mà anh ta đă cất giấu ở những nơi trú ẩn ở nước ngoài tới Mỹ. Anh ta đă dùng nó để mua bất động sản, đồ cổ và đồ trang trí phù hợp - tất cả các phương tiện tương đối an toàn để hồi hương tiền mặt mà không phải trả thuế hoặc tuyên bố cách thức mà nó đă được kiếm được.

Nhưng vào mùa hè năm 2014, sau cuộc cách mạng đă bác bỏ Viktor Yanukovych, FBI bắt đầu kiểm tra tài chính của người mạnh mẽ. Manafort đă mắc kẹt với Yanukovych khi Tổng thống bắt đầu điều tra h́nh sự các đối thủ chính trị của ông ta, mở ngân quỹ của chính phủ cho những người thân của ông, và biến đất nước ông xa châu Âu và hướng tới Nga. Ông đă mắc kẹt với anh ta để kết thúc khủng khiếp, giữa lúc nổi lên bất ổn phổ biến - phải đến giết mổ của hơn 100 người biểu t́nh bởi lực lượng chính phủ trên Maidan. Anh ta vẫn trung thành với Yanukovych trong khi những ṿng tṛn lớn của ṿng tay người hùng đă bỏ rơi anh ta. Có lẽ cuộc sống quá lâu trong các vùng màu xám đạo đức đă làm xói ṃn khả năng của Manafort để đánh giá cao loại nhà cai trị Yanukovych, hoặc những ḍng anh đă vượt qua. (Ông hiện đang bị xét xử vắng mặt ở Ukraine v́ phản bội,

Cuộc điều tra của FBI về tài chính của ông Yanukovych đă đề cập đến việc buôn bán của Manafort. Ngay sau khi các feds đă quan tâm, phỏng vấn Manafort vào tháng 7 năm 2014, việc hồi hương chấm dứt. Trong khi đó, Manafort đă phải vật lộn để thu tiền nợ ông Yanukovych. Để kiếm tiền cho cuộc sống đắt tiền của ḿnh, anh ta bắt đầu vay tiền bất động sản của anh ta - khoảng 15 triệu đô la trong hai năm, bản cáo trạng của anh ta nói. Đây không phải là một chiến thuật thông thường giữa những người rửa tiền - một khoản vay ngân hàng cho phép người rửa tiền trích ra tiền mặt sạch từ tài sản mua bằng tiền bẩn. Nhưng theo bản cáo trạng, một số khoản vay của Manafort được thực hiện trên cơ sở thông tin sai lệch cung cấp cho ngân hàng để tăng số tiền có sẵn cho ông, cho thấy mức độ nghiêm trọng của các vấn đề về ḍng tiền. Tất nhiên, tất cả những khoản vay này đều cần phải trả lại.

 

IX. Giải thưởng

"tôi thực sự cần đến" trump, Manafort nói với một người bạn cũ, ông trùm bất động sản Tom Barrack vào những tháng đầu năm 2016. Barrack, một người bạn trung thành của Trump trong 40 năm, đă biết Manafort lâu hơn. Khi Manafort yêu cầu sự giúp đỡ của Barrack thu hút sự chú ư của Trump, anh ta đă sẵn sàng cung cấp nó.

Manafort's spell trong pḥng khám Arizona đă kết thúc. Nó không phải là một kỳ nghỉ thoải mái. Sau khi có được rất nhiều tài sản của riêng ḿnh, ông đă buộc phải chia sẻ một căn pḥng với bệnh nhân khác, theo các bài viết của Andrea. Mặc dù sự kín đáo về cuộc sống riêng tư của ḿnh, ông đă trải qua những ngày của ḿnh trong liệu pháp nhóm - và ông tuyên bố rằng nó đă thay đổi ông. "Tôi có một nhận thức bản thân về lư do tại sao tôi bị phá sản," anh ấy nhắn tin cho cô ấy.

Tuy nhiên, hầu hết các nguyên nhân gần gũi của sự cố của ông vẫn c̣n tại chỗ. Một lần là một người đàn ông không thể thiếu, anh ta đă không bị bỏ lỡ trong giới chuyên môn. Anh ta không có khách hàng trả tiền lớn, và nợ nần nặng. Những nỗ lực của ông để chứng minh kỹ năng kinh doanh của ông đă kết thúc như là những bức tượng bán đắt. Bởi v́ sự thất bại lớn nhất của tất cả, Deripaska đă được t́m kiếm anh ta. Andrea đă viết em gái của ḿnh ngay sau khi bước vào pḥng khám và nhận xét rằng công việc của ông ở Ukraine là không rơ ràng về mặt pháp lư. "Đừng tự lừa ḿnh," cô ấy đă nhắn tin cho Jessica vài tháng trước. "Số tiền mà chúng tôi có là tiền máu."

Cô đă không tha thứ cho anh v́ chuyện t́nh của anh. Cô phàn nàn với một người anh họ về việc cha cô chăm sóc mẹ cô. "Chúng tôi vẫn tiếp tục ăn và ăn tôm hùm", cô viết. Nhưng không có ǵ thay đổi. Nhưng Manafort có khả năng cung cấp cho gia đ́nh ḿnh một cách hào phóng - một vai tṛ mà ông luôn chơi, bất kể những thất bại khác của ông - thực tế đă thay đổi. Hàng triệu ông đầu tư vào bộ phim của Jessica đă biến mất; cũng như vậy, là hàng triệu người ông đă thổi lên những dự án bất động sản của chồng bà.

Với sự xuất hiện của Donald Trump, Manafort đă ngửi thấy một cơ hội để lấy lại sự mất mát của ḿnh, và để trở lại sự liên quan. Đó là, trong một số cách, hoàn hảo: Chiến dịch này là một tác phẩm nghệ thuật chế nhạo của improvisation đ̣i hỏi sự truyền tải kiến ​​thức kỹ thuật và thiết lập uy tín.

Barrack chuyển cho nhóm của Trump một bản ghi nhớ Manafort đă viết về lư do tại sao ông lại là người phù hợp lư tưởng cho ứng cử viên xuất sắc. Các đồng nghiệp cũ mô tả Manafort như là một bậc thầy pitchman với khả năng đọc cha mẹ của ông trước. Ông nói với Trump rằng ông đă "tránh được cơ sở chính trị ở Washington từ năm 2005" và tự cho rằng ḿnh là một kẻ thù suốt đời của Karl Rove, người đại diện cho những người cầm quyền bên trong cố ư mưu toan mạo hiểm đề cử ông Trump. Nói cách khác, để có được trở lại bên trong, Manafort tự giới thiệu ḿnh là người ngoài cuộc cuối cùng - một trường hợp căng thẳng có thể tấn công Trump, và có lẽ chỉ có Trump, như hấp dẫn.

Manafort vươn tới Deripaska gần như ngay lập tức sau khi bảo đảm một vị trí với chiến dịch Trump.

Manafort có thể viết như một khoảng hiệu chuẩn bởi v́ ông đă quan sát Trump trong nhiều thập kỷ. Trở lại những năm 80, công ty của ông đă đại diện cho Trump khi ông trùm muốn đổi lại các máy bay bay qua Mar-a-Lago, khu nghỉ mát của ông ở Palm Beach. Kể từ năm 2006, Manafort đă giữ một khoảng trống trong Tháp Trump, nơi ông và Trump đôi khi gặp nhau và nói chuyện nhỏ. Sự phơi bày này có thể mang lại một cái nh́n sâu sắc quan trọng khác: sự phân liệt của Trump. Khi Manafort cung cấp dịch vụ của ông Trump, ông chống lại xu hướng tẩy một cái giá lớn lên họ; ông sẽ cung cấp tư vấn của ông, ông nói, miễn phí. Đối với gia đ́nh ông, Manafort mô tả quyết định này như là một vấn đề chiến lược: Nếu Trump coi ông là giàu có, th́ ông sẽ đối xử với ông như một kẻ b́nh thường, chứ không phải là một chiến dịch kư sinh trùng.

Nhưng Manafort cũng tin tưởng rằng tiền sẽ đến, giống như nó luôn có, từ ảnh hưởng mà ông ta sẽ sử dụng trong chiến dịch, và theo cấp số nhân hơn th́ nếu Trump thắng. V́ vậy có thể có những ưu và những điều khác. Những quan niệm này rất có thể dẫn đến việc ông tiếp cận Oleg Deripaska gần như ngay lập tức sau khi bảo đảm một vị trí trong chiến dịch, sau khi đă trốn tránh ông ta trong nhiều năm. Thông qua một trong những người đại diện cũ của ông, một người Ucraina có tên là Konstantin Kilimnik, ông đă gửi đi các bản trích dẫn nhấn mạnh công việc mới của ông. "Làm thế nào để chúng ta sử dụng để hoàn thiện," Manafort gửi cho Kilimnik. "Có hoạt động OVD được nh́n thấy?" Người phát ngôn của Manafort đă thừa nhận rằng những chữ tắt đề cập đến Oleg Vladimirovich Deripaska. Trong quá tŕnh trao đổi, Kilimnik bày tỏ sự lạc quan rằng "chúng ta sẽ trở lại với mối quan hệ ban đầu" với các đầu sỏ chính trị.

Tất cả những hy vọng của Manafort, tất nhiên, đă chứng tỏ là tưởng tượng thuần túy. Thay v́ trở thành người chơi lớn nhất trong Washington của Donald Trump, ông đă nổi lên như một nhân vật phản diện trung tâm trong vụ xôn xao trung tâm của ḿnh. Một bằng chứng cụ thể ngày càng tăng cho thấy chiến dịch Trump đă thông đồng với các nỗ lực của Nga nhằm biến cuộc bầu cử tổng thống 2016 thành hiện thực. Với mối quan hệ lâu dài của Manafort với các đồng minh Kremlin gần gũi bao gồm Yanukovych và Deripaska, đặc biệt là nợ nần của ông ta, khó có thể tưởng tượng ông là một diễn viên ngây thơ hoặc thụ động trong một chương tŕnh như vậy - mặc dù Deripaska phủ nhận hiểu biết về bất kỳ kế hoạch nào của Manafort trở lại với ơn lành của ḿnh. Manafort đă ở trong cùng một pḥng với Donald Trump Jr. khi một luật sư và vận động hành lang người Nga đă hạ ḿnh xuống Trump Tower vào mùa hè năm 2016, hứa hẹn các tài liệu buộc tội Hillary Clinton. Mùa hè năm đó, chiến dịch Trump, với Manafort làm người quản lư, đă thay đổi thành công nền tảng của GOP, làm giảm sự ủng hộ cho chính phủ thân phương Tây của Ukraine, chính phủ hậu Yanukovych, một sự thay đổi được chào đón bởi Nga và trước đó là lời phỉ báng đối với đảng Cộng ḥa. Khi Bộ Tư pháp bắt Paul Manafort vào tháng 10 v́ không đăng kư làm đại lư nước ngoài, để giấu tiền ở nước ngoài - bức chân dung của người đàn ông đó đă miêu tả cả sự oán giận và tuyệt vọng, một người buôn lậu tiền tối và các nguyên nhân đen tối. Dường như, Robert Mueller, chuyên gia tư vấn đặc biệt, sẽ xem xét lại các hoạt động ngân hàng của Manafort trong khi ở Ukraine là chủ đề đầu tiên của ông về kiểm soát công, điểm khởi đầu rơ ràng cho cuộc điều tra của ông. Sự thật đáng buồn là tất cả các thông tin damning chứa trong bản cáo trạng của Mueller sẽ vẫn bị ngập nước nếu Manafort đă chịu đựng sự cám dỗ để t́m ra một vai tṛ trong chiến dịch của Trump. Ngay cả khi kỷ lục của anh đă trở nên nổi tiếng, nó có thể cảm thấy không quan tâm: những hành động sai lầm của Manafort, trong kỷ nguyên hiện tại của chúng tôi, sẽ không có vẻ như không phù hợp với lối chơi toàn cầu.

Từ cả hai tờ Panama Papers và Paradise Papers, những tiết lộ rộng răi về những tài khoản ngoại quốc ẩn dật trước đó của người giàu có và mạnh mẽ trên toàn thế giới, chúng ta có thể nh́n thấy toàn bộ mức độ tham nhũng đă trở thành sự kể chuyện chính của thời đại chúng ta. Chúng ta sống trong một thế giới của vận may, lấy được thông qua các mối liên hệ chính trị và trộm cắp ngay lập tức. Paul Manafort, trong suốt quá tŕnh làm việc của ḿnh, là một người b́nh thường hoá tham nhũng. Công ty mà ông tạo ra trong những năm 1980 đă làm giảm các quan ngại truyền thống về xung đột lợi ích. Nó nhập khẩu phong cách của chiến dịch thường trực vào vận động hành lang, và do đó trong việc xây dựng chính sách công.

Và mặc dù Manafort được cho là đă giặt tiền cho lợi ích riêng của ḿnh, lịch sử lâu dài của ông về rửa danh tiếng là điều thực sự đặt anh ta ra ngoài. Ông đă giúp thuyết phục giới tinh hoa chính trị Mỹ nh́n qua những vụ tàn bạo và những cuộc cướp bóc của những người kleptocrats và goons. Ông lấy những con số chưa bao giờ được phép có ảnh hưởng ở Washington và làm dịu h́nh ảnh của họ đủ để hướng dẫn họ vượt qua những rào cản về đạo đức để vào. Ông làm suy yếu hệ thống miễn dịch có đạo đức của thủ đô.

 

NHƯNG CÂU CHUYỆN LIÊN QUAN

Giúp đỡ bầu cử Donald Trump, trong nhiều cách, đại diện cho đỉnh cao của tác phẩm của Paul Manafort. Tổng thống có một số tương đồng với các đầu sỏ chính trị Manafort đă từng phục vụ lâu dài: một doanh nhân với một danh mục các giao dịch râm mát, người hưởng lợi từ một mối quan hệ ấm cúng với chính phủ; một người có đam mê để thống trị, và để làm giàu cho ḿnh, áp đảo bất kỳ lư tưởng cao hơn nào. Cách đây không lâu Trump đă bị từ chối một cách dứt khoát như là một sự xâm nhập của người nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ công cộng. Và mặc dù chủ nghĩa hoài nghi về chính phủ cho phép sự tăng trưởng của Trump kết quả từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là sự biến đổi chậm chạp của Washington, DC, thành một cái ǵ đó giống như New Britain, Connecticut, về tuổi trẻ của Paul Manafort.

Năm ngoái, một nhóm bạn lâu năm của Manafort, dưới sự lănh đạo của đảng Cộng ḥa cũ tên là Bill Greener, đă cố gắng tổ chức một đội ngũ đại diện để bảo vệ Manafort khỏi các cáo buộc chống lại ông, bao gồm cả những điều tồi tệ nhất: ông đă cộng tác với một thế lực thù địch lật đổ tiến tŕnh dân chủ ở Mỹ. Người bạn cũ của Manafort, Charlie Black, thậm chí c̣n cho thấy một cuộc họp, mặc dù cả hai đă rơi vào quên lăng. Một vài người đàn ông từ bánh xe cũ của công ty cũng muốn giúp đỡ. Tuy nhiên, khi t́nh nguyện viên cần phải đi xem TV như nhân chứng nhân vật, không ai giơ tay lên. "Không có ǵ để làm việc," một người liên lạc với nhóm này nói với tôi. "Và không ai có thể chắc chắn rằng Phaolô đă không làm điều đó." Trên thực tế, mọi thứ về người đàn ông và cuộc sống mà ông chọn cho thấy ông đă làm.

 

 


Bài viết này xuất hiện trong ấn bản in tháng 3 năm 2018 với ḍng tiêu đề "American Hustler."

Mark Peterson / Redux

FRANKLIN FOER

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: